Dịch giả: Đỗ Hùng
Chương 3 (tt)

     à người tử tế, Ẩn khăng khăng phải gặp cha mẹ Coleman trước để xin phép dẫn con gái của họ tới đêm hội. Cha của cô gái, ông Herbert Coleman, lúc bấy giờ là trợ lý đạo diễn thứ nhất và trợ lý giám đốc sản xuất cho Alfred Hitchcock và đang làm bộ phim Vertigo.(40) Ẩn tới căn nhà rất đẹp của họ để xin phép “theo cách của người Việt Nam”, và hứa sẽ đưa cô con gái về nhà trước nửa đêm. Ông Coleman chấp thuận Ẩn và nói rằng bởi đây là một dịp đặc biệt nên cái giới hạn nửa đêm là không cần thiết.(41)
 “Không, cháu xin hứa”, Ẩn nói. Judy nhớ lại đêm đó không khí rất tưng bừng, đầy tiếng cười vui và những vũ điệu - và cô gái đã về nhà trước nửa đêm. Ẩn không gặp Judy nhiều kể từ sau đêm vũ hội bởi sau đó bà chuyển sang Đại học Tiểu bang tại San Jose, nhưng ông vẫn thường tới thăm gia đình Coleman để dự tiệc nướng và trò chuyên với cha mẹ Judy. “Cha tôi rất thích trò chuyện với Ẩn. Anh ấy rất thú vị, là một người đàn ông trẻ tuổi nhưng chững chạc và rất hòa đồng. Cha tôi và anh ấy thường nói chuyện hàng giờ liền”, Judy kể.
Nhưng không phải mọi thứ ở trường Orange Coast đều vui vẻ và thú vị. Có một đêm Henry Ledger tìm cách tự sát. Sau khi cùng bạn gái đi chơi ở sa mạc về, Ledger tới phòng của Ẩn và nói, “Tối nay tụi mình ăn như vua chúa đi bởi vì biết đâu ngày mai chết rồi”. Ẩn chẳng quan tâm mấy tới lời nói gở ấy, và thế là hai gã đánh chén một bữa thịt gà no nê, ăn nhiều ngoài sức tưởng tượng của cả hai. Lúc ấy chưa khuya lắm, nhưng Ledger bảo mình đi ngủ sớm. Khi dọn dẹp vệ sinh, Ẩn thấy hộp thuốc ngủ trong ngăn kéo bàn của Ledger trống rỗng. Trước kia, Ledger thường cho Ẩn thuốc ngủ bởi Ẩn không ngủ được do Ledger ngủ ở phòng bên cạnh thường ngáy quá to. Giờ đây, dựa vào linh cảm, Ẩn nghĩ rằng Ledger đã uống hết tất cả số thuốc ngủ kia. Đột nhiên trong đầu ông nhớ lại câu nói ban nãy, “Tối nay tụi mình ăn như vua chúa”. Sau một hồi lay gọi Henry không được, Ẩn gọi xe cứu thương.
Ngày hôm sau, Ẩn được biết người bạn của mình bị sốc sau khi chia tay bạn gái và đã tìm cách tự tử. Ledger không chết nhưng lại bị sa thải khỏi chỗ làm ở Orange Coast. “Tôi bị sốc nặng… Một gã trai tuyệt vọng tự sát không thành và sau đó lại bị đuổi việc. Tôi không hiểu nổi”, Ẩn nhớ lại. Ẩn tới ban quản lý để phản đối quyết định sa thải nhưng rồi ông nhận được lời giải thích, “cậu không hiểu gì văn hóa Mỹ cả; bằng cách tự sát, anh ta đã trở thành tấm gương xấu cho sinh viên”.
Chẳng bao lâu sau Ledger đi làm người giúp việc nhưng không cho Ẩn biết nơi làm. Hai tuần sau, Ẩn tìm tới nơi làm việc của ông này. “Ẩn, tao rất hận mầy; sao mày không để mặc cho tao chết? Mày cứu tao để giờ tao lại đau khổ hơn”, Ẩn nhớ lại những lời Ledger đã nói với mình. Lúc ấy một đồng nghiệp của Ledger đã hét lên, “Cậu ta cứu sống mày - hãy biết ơn cậu ta”. Thế là hai người ôm chầm lấy nhau và về sau còn gặp lại nhau rất nhiều lần nữa.(42)
Năm học đầu khép lại, Ẩn tổng kết những điều thu lượm được và những mất mát trong một bài viết trên tờ Barnacle: “Tiếng Anh thực hành của tôi luôn đạt điểm xuất sắc ở trong nước, nhưng khi mới tới Orange Coast, tôi thực sự không hiểu những người bạn học của mình đang nói gì với nhau. Bây giờ thì tôi đã hiểu được những điều họ nói, dù không phải lúc nào cũng lĩnh hội được mọi sắc thái, nhất là những từ lóng”. Khả năng viết lách của ông đạt được nhiều tiến bộ bởi ông đã cải thiện được ngữ pháp và lối tư duy. Lớp tiếng Anh A1 rất khó đến mức “làm tôi nhức cả đầu và nhiều lần mất ngủ. Tôi tiếp tục thực hành tiếng Anh trong lớp báo chí. Barnacle là tờ báo tự do nhất và nằm trong số những tờ báo sinh viên xuất sắc nhất tại Nam California. Nó đã cho tôi những bài học lớn về báo chí, ngành học chính của tôi.
Bên cạnh kiến thức nhà trường, Orange Coast còn là nơi giúp tôi thích nghỉ với nền văn hóa mới, với phong tục và lối sống ở đây. Đây là nơi cho tôi cơ hội đầu tiên để kiểm chứng lại những điều mình đã được nghe, được đọc về thế giới mới này nhằm giúp tôi trở nên khách quan hơn và gạt bỏ mọi định kiến vốn đã in hằn vào não tôi một cách vô thức”.
Nhưng Ẩn cũng nhớ đất nước và gia đình mình rất nhiều. “Mất mát của tôi cũng không hề nhỏ. Tôi rất nhớ gia đình, bạn bè, bà con và đồng bào cũng như nhớ tiếng mẹ đẻ của tôi và mảnh đất nhỏ nơi tôi sinh trưởng. Cũng thật may mắn, đây chỉ là những mất mát tạm thời. Thêm vào đó, các thầy cô, đội ngũ nhân viên và sinh viên ở Trường Orange Coast đã đối đãi với tôi quá ân cần khiến đôi lúc tôi cứ ngỡ mình đang sống cùng những người Việt Nam”. (43)
Ẩn cũng rất quan tâm tới những sự kiện trong nước, ông đã nhận được một lá thư của Mills Brandes và nhờ đó biết được chính quyền Ngô Đình Diệm đã mở một cuộc truy quét nhằm vào những người bị tình nghi là có cảm tình với Việt Cộng và các điệp viên. Ẩn lo lắng không biết có người thân hoặc bạn bè nào của mình bị bắt trong những đợt truy bắt đó và giờ đang bị tra tấn giữa những bức tường ở trại giam Côn Sơn. Nỗi sợ lớn nhất của ông là có một ai đó có thể khai ra chuyên ông là một đảng viên Cộng sản. Nếu điều đó xảy ra, ông sẽ không bao giờ có thể trở về và gia đình ông cũng đối mặt với những điều tồi tệ nhất từ lực lượng cảnh sát của Diệm. Tháng 1 năm 1958, người em trai của Ẩn đã bị bắt. “Tôi rất buồn”, Ẩn nhớ lại. “Tôi đã mất liên lạc với bên Cộng sản, tất cả các chỉ huy của tôi đều bị bắt; em c hành chiến thuật chống quân nổi dậy, một cuộc chiến thực nghiệm mà trước đây nước Mỹ chưa bao giờ triển khai".(38)
Ông Ẩn tiết lộ với tôi rằng Tướng Giáp rất lo ngại nên đã cử hai phái đoàn đến Moscow để bàn bạc với các lãnh đạo quân đội Liên Xô về phương cách chống chiến tranh đặc biệt của Mỹ, nhưng lúc bấy giờ người Nga chỉ biết tới chiến tranh chính quy. Ông Giáp sau đó đã cử một đoàn tới gặp các tư lệnh quân sự Trung Quốc từng chiến đấu chống lại quân Đồng Minh tại Triều Tiên, nhưng họ cũng chẳng giúp ích được gì nhiều. “Tôi là người đã làm việc đó. Tôi giúp họ hiểu về phương thức chiến tranh mới của Mỹ, và điều đó đã khiến ông Giáp rất vui mừng. Đã có hai kế hoạch thất bại, và rồi tôi giúp xây dựng chương trình đối phó”.
NGÀY 28 THÁNG 12 NĂM 1962, Sư đoàn 7 Bộ binh Việt Nam Cộng hòa, đóng tại Đồng bằng sông Mê Kông, được lệnh thu giữ một máy truyền sóng vô tuyến của PLAF (Quân Giải phóng nhân dân) hoạt động gần làng Ấp Bắc, vốn đang được một đơn vị Việt Cộng nhỏ với chừng 120 tay súng bảo vệ. Cố vấn cấp cao người Mỹ của Sư đoàn 7 Quân lực Việt Nam Cộng hòa là John Paul Vann, người đã ở Việt Nam trong tám tháng và chưa từng giáp mặt kẻ thù. Trung tá lục quân Vann là một trong những nhân vật huyền thoại của Chiến tranh Việt Nam. Ông tử nạn trong một vụ rơi trực thăng tại Việt Nam vào ngày 9 tháng 6 năm 1972.(39)
Vann ngứa ngáy muốn tham gia trận đánh để ông ta có thể đánh giá xem các tư lệnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã hấp thu các bài huấn luyện của ông tới mức nào. Ở phía bên kia, viên tư lệnh Việt Cộng cũng đã chuẩn bị giáng một đòn vào các máy bay trực thăng Mỹ. Sự xuất hiện của đại đội trực thăng vận đầu tiên của Mỹ vào tháng 12 năm 1961 đã gây ra nhiều khó khăn cho du kích quân, tương tự như các “trận càn” bạo liệt do Quân lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện vào ban ngày quét qua các làng mạc để truy bắt Quân giải phóng. “Lúc bấy giờ chúng tôi không biết cách nào để chống lại trực thăng và thiết xa”, ông Mai Chí Thọ nói với tôi. “Ông Ẩn đã cung cấp các thông tin giúp chúng tôi xây dựng một lối đánh ở tầm chiến thuật”.
Giờ đây, được trang bị một kế hoạch chiến lược mới, Quân giải phóng đã sẵn sàng chọi lại trực thăng. Vài tuần trước, để tính toán tầm bắn hiệu quả nhất, họ đã tập luyện tại vùng Đồng Tháp Mười với mục tiêu là mô hình trực thăng Shawnee và Huey làm bằng giấy bìa gắn trên cọc tre để mô phỏng các đặc điểm bay của chúng.(40) “Một trong những sự kiện hiếm hoi, trong cuộc xung đột với những chuỗi đụng độ dường như không bao giờ ngơi nghỉ vốn có vẻ như không có ý nghĩa thực chất nào, sắp sửa xảy ra - đó là một trận đánh quyết định có thể ảnh hưởng tới cục diện của cuộc chiến tranh”, Neil Sheehan viết. “Giờ đây Việt Cộng đang vùng dậy chiến đấu”.(41)
Tin tức tình báo của Vann đã sai; không phải là một đại đội 120 người, ông ta đã đối mặt với Tiểu đoàn 261 chính quy của Việt Cộng với 320 quân được sự hổ trợ của 30 dân quân. Nhưng Quân lực Việt Nam Cộng hòa vẫn vượt trội về số lượng lẫn phương tiện. Một tiểu đoàn thuộc Sư đoàn 7 Bộ binh gồm 330 binh sĩ, được yểm trợ bởi hai tiểu đoàn bảo an và một đại đội gồm mười ba xe thiết giáp chở quân M-113, thêm vào đó là một đại đội bộ binh cùng xe bọc thép chở quân (APC) mười tấn được Việt Cộng gọi là “rồng xanh”. Tổng quân số lên tới hơn 1.000.(42)
Mới bước vào trận, quân Việt Nam Cộng hòa ngay lập tức đã hứng chịu tổn thất về nhân mạng và các sĩ quan chỉ huy đã gọi quân tiếp viện từ làng Tân Hiệp gần đó. “Mười trực thăng Shawnee và năm trực thăng tấn công Huey thế hệ mới” bay đến.(43) Khi chúng vừa tới Ấp Bắc, chiếc lưới đã được bủa ra với hàng loạt đạn được bắn lên từ dưới các hàng cây trên bờ đê. Trong vòng vài phút, mưòi bốn trong số mười lăm trực thăng bị bắn trúng, bốn chiếc rơi, trong đó có một chiếc Huey, và ba người Mỹ thiệt mạng. Quân Việt Nam Cộng hòa vẫn còn cơ hội cứu vãn tình hình bởi Việt Cộng đã bị bao vây và lối rút quân duy nhất là băng qua cánh đồng phía đông. Vann vội điều động thiết xa nhưng Diệm trước đó đã ban lệnh rằng không ai được tham chiến nếu không được Sài Gòn trực tiếp chuẩn thuận, ông cũng chỉ đạo tất cả tư lệnh các quân đoàn và sư đoàn là phải tránh tổn thất lớn về nhân mạng. Ai không tuân theo chỉ thị đơn giản này sẽ không được thăng cấp. Viên tư lệnh Việt Nam Cộng hòa ở đấy đã không chấp hành chỉ đạo của Vann về việc bít đường rút quân của Việt Cộng. Khi hoàng hôn xuống, quân Việt Cộng rút lui.
Vann coi trận này là bằng chứng cho thấy đội quân mà ông được giao nhiệm vụ huấn luyện kém năng lực một cách tệ hại. “Một thành tích quá tồi tệ. Những người này không chịu nghe lệnh. Bọn họ cứ lặp đi lặp lại những lỗi chết tiệt”. (44) Trận đánh cho thấy những binh sĩ chiến đấu cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa sẽ chết uổng mạng nếu đặt họ dưới sự chỉ huy của mấy viên tướng bất tài và chuyên nịnh hót mà Diệm đã đưa vào các vị trí chủ chốt. “Trận Ấp Bắc đã bộc lộ cái chính sách thăng tiến và bổ nhiệm vào thành phần lãnh đạo Quân lực Việt Nam Cộng hòa mà chỉ dựa vào lòng trung thành với Diệm chứ không dựa trên năng lực nghiệp vụ là hoàn toàn sai lầm”, ông Ẩn nói với tôi. Tướng Huỳnh Văn Cao, người được Diệm tin tưởng là nhân vật trung thành nhất với gia đình họ Ngô và đã được thăng cấp rất nhanh, đã bộc lộ cả sự bất tài và hèn nhất, “ông Diệm có những vị tướng chưa bao giờ hoàn thành nhiệm vụ nhưng vẫn được thăng cấp bởi họ từng hôn tay Nhu và Diệm. Ấp Bắc là nơi những con gà trống đầu tiên về nhà”, Ẩn nói kèm theo nụ cười và nhìn vào bộ sưu tập chim của ông.
Báo cáo tổng kết trận chiến của Vann là bản cáo trạng đối với tư lệnh ở tất cả các cấp vì họ đã không hành động quyết đoán và không khích lệ binh sĩ của mình. Cố vấn cấp cao của Mỹ, Đại tá Daniel B. Porter, coi Báo cáo tổng kết này “có lẽ là bản nhiều tư liệu nhất, toàn diện nhất, có giá trị nhất và tiết lộ nhiều vấn đề nhất trong tất cả các bản báo cáo” từng được trình lên trong năm vừa qua.(45)
Không thể đánh giá thấp ý nghĩa của trận Ấp Bắc đối với Quân giải phóng ở miền Nam và uy tín của Ẩn tại Hà Nội. Ấp Bắc trở thành một lời hiệu triệu, và Trung ương cục miền Nam đã phát động một phong trào “Thi đua Ấp Bắc”(*) trên khắp miền Nam Việt Nam. Báo cáo đánh giá tình báo đặc biệt của CIA vào ngày 17 tháng 4 năm 1963 kết luận rằng “Việt Cộng đã cho thấy họ là một kẻ thù đáng gờm và là lực lượng du kích hiệu quả… Họ đã chứng tỏ sự linh hoạt trong việc điều chỉnh chiến thuật để đối phó với mô thức chiến dịch kiểu mới của Nam Việt Nam… Một nhân tố quan trọng góp phần vào thành công này chính là hệ thống tình báo hiệu quả của họ. Những người mật báo và có cảm tình với họ có mặt khắp vùng nông thôn, và rõ ràng Việt Cộng đã duy trì được mạng lưới tình báo phủ sóng ở mọi cấp trong hệ thống quân sự và dân sự của Nam Việt Nam”. (46)
Có lẽ đánh giá rõ ràng nhất là bản Báo cáo tổng kết sau trận Ấp Bắc của chính Quân giải phóng, thường được biết đến với tên gọi “Tài liệu Việt Cộng về Trận Ấp Bắc, ngày 2 tháng 1 năm 1963”.(47) Tài liệu này thu được từ đối phương và được dịch ra tiếng Anh rồi lưu hành tại tổng hành dinh của MACV vào cuối tháng 4 năm 1963. Phía Việt Cộng coi “trận chống càn vào ngày 2 tháng 1 năm 1963” là một “thắng lợi to lớn của quân và dân ta… Chiến thắng trong trận chống càn Ấp Bắc cho thấy quản ta đã lớn mạnh về kỹ và chiến thuật… Thắng lợi này cũng cho chúng ta thấy rõ các lợi điểm về chiến thuật của kẻ thù”.
Với những đóng góp trong trận Ấp Bắc, Ẩn về sau đã nhận Huân chương Chiến công đầu tiên trong bốn huân chương loại này mà ông được trao tặng. Chỉ có hai tấm huân chương được trao tặng cho trận đánh vào thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh này, một được trao cho Nguyễn Bảy(**) một chỉ huy thuộc Quân giải phóng nhân dân, và tấm còn lại được trao cho phóng viên của Reuters, Phạm Xuân Ẩn, vì những báo cáo mà ông gửi về đã giúp thay đổi tính chất của cuộc chiến.
______________________
(*) Phong trào này có tên gô “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công”
 (**) Nguyễn Bảy, tên thật là Đặng Minh Nhuận (còn có tên là Đoàn Triết Minh, Bảy Đen), là Đại đội trưởng Đại đội 1, Tiểu đoàn 261, chỉ huy trực tiếp trong trận Ấp Bắc. Ngày 30-8-1963, ông chỉ huy bộ đội tiến công và tiêu diệt đồn Thạnh Nhựt (nay thuộc huyện Gò Công Tây, tinh Tiên Giang), ông bị thương nặng trong quá trình công đồn và không qua khỏi.
______________________
Thật trớ trêu là tấm Huân chương Chiến công đầu tiên của Ẩn, cũng như tấm thứ ba cho những đóng góp của ông vào Tổng tấn công Mậu Thân 1968, đều đánh dấu những thời điểm bước ngoặt trong hoạt động đưa tin về cuộc chiến. Trận Ấp Bắc là thời điểm bùng phát của cơn thù nghịch âm ỉ giữa báo chí và Phái bộ quân sự Mỹ ở Sài Gòn, vốn luôn khăng khăng phe mình đã thắng trận. “Tôi không hiểu tại sao có người lại coi trận Ấp Bắc là một thất bại”, Tướng Paul Harkins, Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Viện trợ quân sự của Mỹ tại Việt Nam (MACV), nói. “Lực lượng của Chính phủ đã xác định mục tiêu (là máy truyền sóng vô tuyến), chiếm được mục tiêu đó, rồi Việt Cộng rút lui và thương vong của chúng lớn hơn tổn thất bên phía quân Chính phủ - Quý vị còn muốn gì nữa?”. Khi Peter Amett của hãng tin AP đặt một câu hỏi khó tại một cuộc họp báo sau trận Ấp Bắc, Đô đốc Harry D. Felt đã độp lại: “Trở về hàng ngũ đi”.
“Trước trận Ấp Bắc”, Sheehan viết, “chính quyền Kennedy đã thành công trong việc ngăn dân chúng có một sự hiểu biết rõ ràng rằng đất nước này đã can dự vào một cuộc chiến tranh ở một xứ sở gọi là Việt Nam… Thế rồi trận Ấp Bắc đã đưa Việt Nam lên trang nhất các tờ báo và trong các bản tin truyền hình buổi tối nhiều tới mức không có sự kiện nào sánh bằng”.(48) Các phóng viên như Neil Sheehan và David Halberstam đã tới Ấp Bắc và biết chuyện gì xảy ra ở đấy. “Ấp Bắc đã châm ngòi cho sự phân rã của chế độ Ngô Đình Diệm”, ông Ẩn nói. “Chúng tôi biết điều đó và chẳng bao lâu sau mọi người đều biết”.
Sếp của Ẩn là Nick Turner cùng với Sheehan có mặt tại chiến trường, tận mắt chứng kiến xác những chiếc trực thăng Mỹ bị bắn hạ và xác binh sĩ Việt Nam Cộng hòa. Halberstam được đưa đến hiện trường bằng một máy bay nhỏ. “Tôi không bao giờ quên được vẻ mặt (của Ẩn) khi ông ấy lao vào phòng với những tin tức về Ấp Bắc”, Nick Turner hồi tưởng, “và nhấn mạnh tầm quan trọng của trận này, trước khi những bản tin đầu tiên được truyền về”. (49)
Ồng Ẩn cũng nhanh chóng đến Ấp Bắc bằng máy bay trực thăng dành cho báo chí vào ngày 3 tháng 1. “Tôi tới đó trong vai trò là phóng viên, giúp các đồng nghiệp hiểu điều gì đã xảy ra cũng như để chứng kiến tận mắt”, Ẩn, với vỏ bọc cho phép ông được coi là một thành viên phe này, kể lại. “Những người bạn thân nhất của chúng tôi đều làm cho các báo như bản thân chúng tôi”, David Halberstam viết trong cuốn Tạo ra vũng lầy. “Phạm Xuân Ẩn của Reuters, Nguyễn Ngọc Rao của UPI, Võ Huỳnh của NBC và Hà Thúc Cần của CBS. Họ là những người xuất sắc… Họ đều có ý thức sâu sắc về công việc của một phóng viên… Họ đều kiêu hãnh; họ là những thành viên tự do hiếm hoi của một xã hội khép kín, và có lẽ họ còn cảm thấy bị xúc phạm nhiều hơn chúng tôi khi bất cứ ai đó tìm cách nhồi nhét cho họ những câu chuyện láo toét”. (50)
Ấp Bắc làm thay đổi phương cách tiếp cận lẫn nhau giữa báo chí và chính quyền. Có vẻ như MACV luôn thể hiện rằng cuộc chiến đang tiến triển thuận lợi, rằng sức mạnh của quân địch sa sút, rằng có thêm nhiều thôn ấp được kiểm soát, vùng nông thôn đã được bình định, nhưng các phóng viên ở đấy thì không thấy vậy. Phóng viên Malcolm Browne của AP nhanh chóng nhận ra rằng để có được một câu chuyện chân xác ở Sài Gòn đòi hỏi “những phương pháp không mấy thoải mái gần giống với cách thức hoạt động của gián điệp chuyên nghiệp. (51) Cuộc chiến thông tin đã đặt đội ngũ nhà báo đối chọi với lời khẳng định cuộc chiến đang tiến triển thuận lợi của tổng thống, đại sứ quán và MACV. Tình hình rất khốc liệt dưới thời Kennedy, và mọi sự càng tồi tệ hơn khi chiến tranh trở thành cuộc chiến của người Mỹ. Khi có các phóng viên chuẩn bị đến Việt Nam, Lyndon Johnson thường bảo họ: “Đừng có giống mấy tay Halberstam và Sheehan nhé. Bọn chúng là những kẻ phản quốc”.(52)
Cánh báo chí trở thành mục tiêu đặc biệt của bà Ngô Đình Nhu, thường được gọi là Bà Nhu, em dâu của ông Diệm, người mà sự kiêu căng đã trở thành biểu tượng của chế độ họ Ngô. Được biết đến với biệt danh “Rồng cái Việt Nam Cộng hòa” bởi tinh thần chống Phật giáo kịch liệt và ủng hộ Công giáo mãnh liệt, Bà Nhu tố cáo Phật giáo đã bị Việt Cộng cài cắm. Khi một nhà sư ở Huế tự thiêu để phản đối, bà đã tố cáo rằng chính các chức sắc Phật giáo “nướng” vị sư kia, và cả sau này nữa, đã dựa dẫm vào viện trợ từ nước ngoài bởi xăng là mặt hàng nhập khẩu. Sau khi nổ ra thêm nhiều hành động chống đối nữa, bà lại tuyên bố, ''Tôi sẽ vỗ tay hoan nghênh các vụ tự thiêu”.
Cuộc chiến nhằm vào báo chí tại Sài Gòn đã lên đến đỉnh điểm vào mùa hè năm 1963 khi phóng viên trưởng của Time tại Sài Gòn, Charles Mohr, thực hiện một bài viết chỉ trích Bà Nhu. Lúc bài viết được chuyển về New York, nó đã va chạm với quan điểm về thế giới của Henry Luce. Bài báo đã được sửa lại, chọc giận Mohr bởi toàn bộ kết luận của ông đã được sửa đổi đến mức có vẻ như ông ủng hộ lập trường của chính quyền rằng không tìm được phương án thay thế Diệm.
Vài tuần sau, Time công kích các phóng viên tại Sài Gòn bằng lời buộc tội rằng cánh nhà báo tại hiện trường “thay vì gỡ rối thì lại đang góp phần làm cho độc giả ở quê hương rối tinh rối mù”. Time tố cáo các phóng viên suốt ngày ngồi ở “quầy rượu trên lầu tám khách sạn Caravelle” và đưa ra những lời kết tội, các thông tin không xác thực và những lời ta thán. Kết quả là “các phóng viên có xu hướng hoàn toàn đồng ý với nhau về hầu hết những gì mình thấy. Nhưng sự đồng thuận đó là rất đáng ngờ bởi vì nó rõ ràng là xuất phát từ một mối. Các nhà báo đã biến mình thành một phần trong mớ hỗn độn về Nam Việt Nam; họ đã đưa tin về một bối cảnh phức tạp với chỉ một góc nhìn duy nhất, cứ như thể kết luận của riêng họ đã làm sáng tỏ mọi vấn đề cần thiết”. (53)
Trước khi xảy ra trận Ấp Bắc, hầu hết các phóng viên tại Sài Gòn đều ủng hộ mục tiêu của chính quyền đối với vấn đề Việt Nam. David Halberstam sau đó đã thay đổi quan điểm về cuộc chiến, cho rằng “sự thật, và sau bao năm vẫn còn nguyên vẹn trong tôi một sự thật đau đớn, là giới truyền thông chúng tôi sai lầm không phải bởi quá bi quan, mà là không đủ bi quan… Chúng tôi không bao giờ tìm cách đưa vào các bài viết của mình những điều mà cuộc chiến tranh thời Đông Dương thuộc Pháp đã gây ra đối với Việt Nam, và bằng cách nào nó đã tạo ra một xã hội hiện đại năng động ở miền Bấc và bằng cách nào nó đã mang đến cho chúng ta một trật tự giãy chết thời hậu phong kiến… [tội lỗi của chúng tôi] không phải nằm ở chỗ chúng tôi thiếu lòng yêu nước hoặc chúng tôi coi thường một mục đích dân tộc cao cả khác - mà nằm ở chỗ ngay từ đầu chúng tôi đã không viết rõ ra rằng đây là một cuộc chiến bất khả thi”. (54)
Chính quyền trở thành nơi mà phóng viên không thể coi là nguồn tin để phục vụ các bài viết về sự thật của cuộc chiến. Tinh trạng thiếu thông tin đáng tin cậy đã cho phép Phạm Xuân Ẩn nhanh chóng củng cố vỏ bọc nhà báo của mình bởi ông có thể cung cấp cho các phóng viên tại Sài Gòn những thứ mà họ cần, đồng thời lấy được những thông tin phục vụ các báo cáo chiến lược của chính ông rồi gửi vào rừng.
Vào giai đoạn này, chế độ Diệm đang đứng trước bờ vực phá sản, từ chối những quyền tự do cơ bản của Phật giáo và cắt giảm mọi thứ, trừ lòng trung thành tuyệt đối vào gia đình họ Ngô. Năm 1962, bác sĩ Trần Kim Tuyến, cũng giống như Nguyễn Thái và nhiều người khác, không còn chịu đựng nổi sự khuynh loát của Bà Nhu trong chính trường. Trong một lá thư dài trình lên ông Diệm, Tuyến hối thúc Diệm gạt bỏ Bà Nhu ra khỏi trung tâm sân khấu chính trị. Khi người em trai của tổng thống và là chồng của Bà Nhu, ông Ngô Đình Nhu, biết được lá thư ấy, số phận của Tuyến coi như đã bị định đoạt. Tuyến bị điều đi làm tổng lãnh sự ở Cairo, nhưng Nhu quản thúc tại gia cả gia đình ông ta tại Sài Gòn. Trước khi rời Sài Gòn, Tuyến đã đưa ra một kế hoạch đảo chính chi tiết và chia sẻ với ông Ẩn cùng những người khác. Tuyến không tới Cairo mà quyết định sang Hồng Kông để quan sát tình hình, đợi ngày trở về Sài Gòn sau khi chính quyền Diệm sụp đổ.
Một trợ lý thân tín khác của Tuyến là Ba Quốc (bí danh của Thiếu tướng tình báo Đặng Trần Đức) vượt qua một vài vòng kiểm tra nói dối và sau đó được chuyển qua cơ quan CIO mới được thành lập, nơi ông được đặt biệt danh là “Tá Bụt” vì ông “hiền như Bụt”. Ba Quốc trở thành trợ lý của giám đốc Cục tình báo Quốc nội. Ông đã tiếp cận được những tài liệu tối quan trọng của mạng lưới tình báo Việt Nam Cộng hòa. Đây là một bằng chứng nữa cho thấy gián điệp của Cộng sản Bắc Việt đã đột nhập thành công thực sự vào mọi cấp trong xã hội miền Nam Việt Nam, bao gồm cả các cơ quan tình báo Việt Nam Cộng hòa vốn có nhiệm vụ tiễu trừ Việt Cộng. Trong khi đó thì có vẻ như không có một điệp viên đối thủ ngang tầm Phạm Xuân Ẩn hoặc Ba Quốc hoạt động ở miền Bắc, đó có lẽ là lý do tại sao tình báo Mỹ từng cố gắng chiêu mộ Ẩn vào CIA hai lần nhưng đều thất bại.
Ba Quốc không hề biết Ẩn đang hoạt động ngầm: “Tôi quen với Hai Trung, nhưng chỉ biết anh ta là một nhà báo có ảnh hưởng rất lớn đang làm việc cho người Mỹ và có nhiều quan hệ… Vì biết anh ta là người có ảnh hưởng lớn nên tôi muốn tạo quan hệ để moi tài liệu. Tôi bảo cáo lên cấp trên về ý định này nhưng rồi nhận được chi thị không được liên lạc với anh ta”. Ẩn cũng không hề biết tới vai trò thực sự của Ba Quốc.(55)
Có lẽ trường hợp đáng ngạc nhiên nhất trong lĩnh vực tình báo là câu chuyện của Đại tá Phạm Ngọc Thảo, người có nhiệm vụ tạo bất ổn cho chính quyền chống Cộng ở miền Nam Việt Nam. Thảo cũng trở thành một chuyên gia đảo chính nổi tiếng, thường họp tác với bác sĩ Tuyến và các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa, làm tất cả mọi nhiều so với lúc chào ra mắt. “Dù tôi rất háo hức trở về Việt Nam để thăm lại đất mẹ, thì ý nghĩ phải rời xa Trường Orange Coast, nơi khởi nguồn của việc học của tồi tại Mỹ, đã để lại trong tôi một 'nỗi buồn' khó tả”. Phạm Xuân Ẩn cảm ơn các giáo viên “phóng khoáng” đã giúp đỡ ông trong việc học cũng như các vấn đề về sức khỏe; ông cảm ơn những “quý bà nhiệt tình” làm việc tại căn tin và quầy thức ăn nhanh(49) đã nấu những bữa ăn rất ngon; ông cảm ơn những người phụ trách ký túc xá và khu giảng đường về lòng tốt của họ, rằng họ đã rất vui vẻ mỗi ngày “khi họ gặp tôi đi mở hộp thư xem có lá thư má tôi gửi từ quê nhà sang hay không”. Ông cảm ơn những “nhân viên trực điện thoại” vì họ đã an ủi ông mỗi khi ông không nhận được thư nhà. Đặc biệt nhất, “sự thân thiện của các bạn cùng lớp và cùng trường luôn hằn in trong tâm khảm của tôi”. Ẩn đặc biệt “muộn phiền” khi được biết các dãy nhà ký túc xá cũ sẽ bị phá bỏ vào năm tới bởi vì ‘khu ký túc xá này đã thay thế cho ngôi nhà của má tôi. Chính tại đây, tôi đã học được cách ứng dụng những điều mà H. L. Menken viết trong cuốn 'Ngôn ngữ Mỹ” thưởng thức âm thanh nổi, nhạc rock-n-roll, làm bài tập bên cạnh âm thanh quen thuộc của chiếc đài và máy sưởi, và hít đầy lồng ngực những chuyện bông phèng của các bạn chung phòng… Niềm hy vọng được gặp lại Orange Coast mỗi năm khiến tôi ước mình có đôi cánh của loài nhạn di trú để có thể bay trở lại Orange Coast vào mỗi mùa xuân và xây tổ dưới mái của Trung tâm Tư vấn. Đây là nơi tôi đã nhận được những lời khuyên quý giá. Thay vì 'Chào tạm biệt” tôi muốn nói 'Chúc may mắn' và hy vọng sẽ gặp lại tất cả các bạn nhiều dịp trong tương lai”. Tại buổi lễ vinh danh những người tốt nghiệp, Ẩn được trao tặng tấm bằng khen đặc biệt “về vai trò lãnh đạo và phục vụ” nhằm ghi nhận những đóng góp của ông cho Orange Coast.
Quỹ Á Châu đã bố trí cho Ẩn một suất học bổng, theo đó ông sẽ có một thời gian tập sự tại báo Sacramento Bee ngay sau khi tốt nghiệp. Tổ chức này muốn Ẩn giúp triển khai một chương trình tại Sài Gòn nhằm đào tạo phóng viên người Việt Nam, và đợt thực tập này sẽ giúp ông tích lũy kinh nghiệm và uy tín cho công việc về sau. Trước khi chuyển tới Sacramento, Ẩn được y tá Martha Buss, người đã làm việc tại trường từ khóa đầu tiên, tặng một món quà. Đó là cuốn sách, Vòng quanh nước Mỹ qua 1.000 tấm ảnh. Ở bìa trong của cuốn sách, bà đề tặng: “Ẩn mến: Mong cậu luôn nhớ về những ngày vui ở Orange Coast. Tất cả chúng tôi đã biết cách yêu mến và tôn trọng cậu. Cậu là vị đại sứ rất tuyệt của đất nước mình. Đất nước ấy có thể tự hào về cậu. Cuốn sách này có rất nhiều ảnh chụp những nơi mà cậu chưa được tới và đấy là lý do tại sao tôi mong cậu thích cuốn sách và có dịp trở lại để thăm phần còn lại của nước Mỹ. Thật tuyệt khi được quen cậu”. “Tôi luôn gìn giữ cuốn sách ấy”, Ẩn nói với tôi, “với hy vọng một ngày nào đó có thể trở lại để thăm thú những nơi khác. Có quá nhiều nơi để thăm mà tôi thì không có thời gian rảnh rỗi trong thời gian làm nhiệm vụ”.(50)
Giữa lúc đang chất đồ đạc lên xe để lái về Sacramento, Ẩn được thông báo về việc thay đổi chỗ ở. Đây là lần duy nhất trong suốt thời gian ở Mỹ ông đối mặt với tệ kỳ thị. Cặp vợ chồng trước đấy đã đồng ý cho Ẩn ở trọ không biết rằng ông là “người Mông Cổ”, và sau khi biết chuyện thì họ không chào đón ông nữa. Tờ Sacramento Bee và Quỹ Á Châu đã cùng nhau tìm được một chỗ ở mới cho Ẩn.
Tại tờ Bee, ông kết bạn với Eleanor McClatchy, con gái của doanh nhân ngành xuất bản C. K. McClatchy. Vào tháng 7, ông là khách mời đặc biệt của bà này tại lễ đón Phó thủ tướng thứ nhất Frol R. Kozlov (*) và đoàn đại biểu của Liên Xô tại sân bay Sacramento, đang công du nước Mỹ trước chuyến thăm lịch sử của nhà lãnh đạo Nikita Khrushchev. Ngài thống đốc cùng một số quan chức tiểu bang và các vị khách đặc biệt như McClatchy được mời đến sân bay để dự buổi tiệc chiêu đãi phái đoàn Liên Xô.(51)
______________________
(*) Frol Romanovich Kozlov (1908 - 1965) là Bí thư thứ hai Trung ương Đáng Cộng sán Liên Xô giai đoạn 1960 - 1963, Phó chú tịch thứ nhất Hội đồng Bộ trưởng giai đoạn 1958 - 1960. Lúc bây giờ, Nikita Khrushchev là Bí thư thứ nhất Trung ương Đáng Cộng sản Liên Xô, Chú tịch Hội đồng Bộ trưởng.
______________________
Nhiệm vụ đầu tiên mà Ẩn được giao tại tờ Bee là đưa tin về Hội chợ Hạt Sacramento. Phóng viên tập sự mà được ký tên cùng lời giới thiệu dưới các bài viết là chuyện hiếm, nhưng vào ngày 20 tháng 6 năm 1959, điều đó đã xảy ra, khi tờ Sacramento Bee đăng tải bài viết đầu tiên của Ẩn cùng dòng lý lịch trích ngang: “Phạm Xuân Ẩn đến từ Sài Gòn, Nam Việt Nam, đang nghiên cứu và tập sự ba tháng tại Bee. Chương trình đào tạo tại chỗ cho sinh viên báo chí này được tài trợ bởi Tổ chức Á Châu. Sau khi hoàn tất chương trình huấn luyện và tham quan miền đông nước Mỹ, anh sẽ về lại Sài Gòn để ĩàm việc trong một tòa soạn báo. Bài viết của anh về hội chợ của hạt, một lễ hội nổi tiếng tại Mỹ, được in dưới đây”. (52)
Hội chợ Hạt Sacramento năm 1959 là hội chợ cấp địa hạt đầu tiên mà tôi tham dự tại Mỹ.
Những mặt hàng nông sản, thịt bò, sữa, gia cầm, thỏ, heo, ngựa và cừu chất lượng cao không làm tôi ngạc nhiên bởi các sản phẩm này đã nổi tiếng khắp thế giới thông qua sách, tạp chí và phim ảnh.
Điều làm tôi kinh ngạc là các loài gia súc, gia cầm này đều do những bạn trẻ trong độ tuổi 12 đến 20 nuôi. Họ chắc chắn sẽ trở thành những nông dân thành đạt trong tương lai của nước Mỹ.
Những chàng trai, cô gái khỏe khoắn, dễ nhìn ngồi tựa lưng vào lũ bò hoặc cừu của họ gợi cho tôi nhớ về hình ảnh những đứa trẻ Việt Nam đang cho trâu ăn sau một ngày dài vất vả trên ruộng lúa.
Tiếng gáy của lũ gà trống Rhode Island, trời nắng nóng và những người đi chợ bận rộn, những hình ảnh không hẳn quá xa lạ. Vào mùa hè ở quê hương, chúng tôi còn có cảnh chọi gà nữa…
Giải trí là cách tốt nhất để thu hút đám đông. Tôi từng đi thăm Disneyland, một thành phố ma, Santa Cruz và khu Công viên đại dưang, nên những màn giải trí ở đây khá quen thuộc đối với tôi.
Tuy nhiên, ở những nơi kia, tôi không gặp được những người trẻ năng động và tài năng của vùng California như tại Hội chợ Hạt Sacramento này.
Một tuần sau, tờ Bee viết một bài rất sâu về Ẩn với nhan đề “Nhà báo Việt Nam hướng tới mục tiêu chống tuyên truyền Đỏ”(53) “Tôi sử dụng tất cả những gì mà Lansdale dạy tôi cho bài viết này. Ông ấy là một người thầy xuất chúng”, Ẩn nhớ lại. Nội dung bài báo được in dưới đây.
Là thành viên trong gia đình có bốn anh em, Phạm được Cục Tâm lý chiến Việt Nam chiêu mộ trong chiến dịch năm 1954 chống lại cuộc tấn công quân sự của Cộng sản nhằm chia đôi đất nước.
Anh giải thích rằng hồi đó các lãnh đạo phe Đỏ đã thành công trong việc không công khai thừa nhận lập trường Cộng sản, mà chỉ tuyên truyền phong trào của họ là phong trào dân tộc chống Pháp, nước vẫn còn chiếm Đông Dương.
Anh cho biết điều đó đã khiến anh đi tới quyết định rằng, cách tốt nhất để giúp nước là trở thành một nhà báo để qua đó anh có thể giải thích cho công chúng biết rõ về mục đích và phương pháp thực sự của Cộng sản.
Anh nói rằng chính quyền Việt Nam hiện tại đang kiểm duyệt chặt chẽ tất cả các tờ báo và đó là một biện pháp cần thiết bởi nếu không làm vậy thì phe Đỏ sẽ có cơ hội phát tán chủ thuyết của họ trên khắp đất nước.
Có chín tờ nhật báo tại Sài Gòn, thủ đô của đất nước. Trong đó có sáu tờ tiếng Việt, một tờ tiếng Pháp, một tờ tiếng Anh, và một tờ tiếng Trung.
Tất cả đều có số lượng phát hành khá nhỏ, anh cho biết, bởi vì ít người có đủ tiền để mua báo hằng ngày. Nhưng, anh nói thêm, người ta thường thuê báo hoặc đổi cho nhau.
“Nhân dân nước tôi rất nghèo” anh kết luận, “nhưng họ rất hiếu học, từ sinh viên cho tới ông đạp xích lô”.
Anh cho biết anh dự định làm việc tại một tờ nhật báo tiếng Việt sau khi trở lại Sài Gòn.
Bài báo đã biến Ẩn thành một người nổi tiếng ở địa phương. Một phụ nữ đã gọi tới tòa soạn Bee và đề nghị mời anh đi chơi ở hồ Tahoe. Trên đường đi, họ ghé vào Căn cứ Không quân Travis, nơi con trai của bà đóng quân, để chào hỏi, cho phép Ẩn lần đầu tiên được xem một căn cứ của Không lực Mỹ (đây là một điều trớ trêu chứ không có ngụ ý chiến lược nào), sau đó chiếc xe thể thao của bà chở họ phóng trên Xa lộ 50 - tới thung lũng Squaw để chèo xuồng gỗ mùa hè.
Ở tòa soạn Bee, Ẩn còn được phân công tường thuật các phiên tòa, các cuộc đua ngựa của dân cao bồi, hoạt động nuôi cá giống và nhà tù Folsom, nơi ông ăn trưa cùng phạm nhân và đọc sách trong thư viện nhà tù. Ẩn rất thích thú trước kỹ thuật trồng lúa ở Sacramento, với phương pháp cơ giới khác xa Việt Nam. Ông thán phục hệ thống đê điều tại đồng bằng Sacramento cũng như trố mắt kinh ngạc trước cảnh máy bay lướt trên cánh đồng để gieo hạt. Khi ông rời tờ Bee, Eleanor McClatchy tặng ông cuốn Những điều riêng tư của cha bà, với lời đề tặng, “Tặng Phạm Xuân Ẩn, chúng tôi rất vui khi bạn đến tập sự tại tờ Bee và rất mong bạn trở lại thãm chúng tôi”.
Chặng kế tiếp của Ẩn là thời gian tập sự tại Liên Hiệp Quốc, cũng do Quỹ Á Châu dàn xếp. Tuý nhiên, khi hay tin tổ chức này muốn Ẩn bay từ California tới New York, ông đã lái xe từ Sacramento lên văn phòng của họ tại San Francisco để thuyết phục các nhà tài trợ cho ông lái xe xuyên nước Mỹ. Ông đề nghị rằng về máy bay sẽ được chi trả bằng tiền mặt để ông trang trải chi phí cho chuyến đi bằng xe. Sau vài cuộc tranh luận về những hiểm nguy khi một mình lái xe xuyên nước Mỹ, tổ chức đã chấp thuận đề nghị của ông, với điều kiện ông phải hứa không cho bất kỳ người lạ nào quá giang!
Với món quà của bà Buss ở ghế trống bên cạnh, Ẩn bắt đầu cuộc hành trình xuyên qua lòng nước Mỹ. Ông giải thích với tôi rằng chuyến đi có thể giúp cho ông học được càng nhiều thứ về nhân dân Mỹ càng tốt, như nhiệm vụ mà ông được giao. Mỗi ngày, ông dậy thật sớm và lái xe tới lúc chạng vạng, nhưng luốn ghé vào hầu hết các điểm du lịch dọc đường. Đi theo trục đường miền trung, ông băng qua Nevada, Utah, Wyoming, Nebraska, Iowa, Illinois, Indiana, Ohio (nơi ông ghé tới thăm cha mẹ của Miỉls Brandes ở Huron), Pennsylvania, Maryland, New Jersey, New York và cuối cùng đến Buffalo để tham gia một hội trại mùa hè của sinh viên Việt Nam do các linh mục thuộc Hội Thiện nguyện Quốc tế (IVS) tổ chức.(54) Ẩn thậm chí còn đi vào lãnh thổ Canada để có thể ngắm toàn cảnh thác Niagara.
Khi tôi hỏi Ẩn về những gì học được gì từ chuyến đi, ông kể rằng ông đã rất ấn tượng “trước một hệ thống tươi mới, khác xa Việt Nam… Tất cả mọi thứ đều hoàn toàn mới mẻ đối với tôi. Có rất nhiều thú để học. Trên hết, người dân rất thân thiện và luôn sẵn sàng giúp đỡ, và tôi ngưỡng mộ lối tư duy và phát ngôn độc lập của người Mỹ. Sống tại Mỹ, tôi đã học được cách tư duy mới mà tôi không bao giờ bỏ được, ngay cả khi tôi cố gắng làm điều đó sau chiến tranh”.
Sau đó, Ẩn kể một câu chuyện với hy vọng sẽ minh họa cho tôi thấy tình bạn với những người Mỹ có ý nghĩa đối với ông như thế nào. Một ngày nọ trong thời gian ông còn ở California, trên chuyến xe buýt từ Monterey về Costa Mesa, ông ngủ quên nên xe chạy quá trạm dừng. Lúc ấy đã rất khuya và người lái xe nói với Ẩn rằng ông ta không thể chạy trở lại được. Ẩn phải chờ chuyến xe kế tiếp vào sáng hôm sau. Một phụ nữ trẻ nghe được câu chuyện và cảm thấy rất ái ngại cho Ẩn. Bà xuống xe cùng ông rồi gọi cho một người bạn của gia đình nhờ chở ông trở lại Costa Mesa. Đầu tiên họ phải tìm một trụ điện thoai, và phải gần hai tiếng đồng hồ sau thì người bạn kia mới tới. Người phụ nữ trẻ kia cùng ngồi chờ với Ẩn. Cô ta đến từ Stanford, là con gái của Đại tá Thorton, Ẩn kể. Người bạn của gia đình tới chở Ẩn là ông Mendenhall, sống ở Laguna Beach. Mendenhall chở Ẩn quay lại ký túc xá, dọc đường đi ông kể rằng mình có một cậu con trai làm trong Không lực Mỹ. Vài tuần sau, gia đình Mendenhall mời ớn của Mỹ vào Việt Nam được quyết định vào ngày 28 tháng 7 năm 1965,(61) nhưng các báo cáo của Ẩn bắt đầu vào năm 1964 trong thời gian Nguyễn Khánh nắm quyền. Ẩn kể cho tôi đúng cái điều mà ông đã nói riêng với Bob Shaplen ba mươi năm về trước, rằng khi CIA biết được những lời đề nghị bí mật của Nguyễn Khánh với Mặt trận Dân tộc Giải phóng, ông ta sẽ bị truất quyền lãnh đạo vì chính quyền của Johnson đang hướng tới việc Mỹ hóa cuộc xung đột.(62) “Tôi đã biết rằng người Mỹ không bao giờ ra đi. Sau này tôi mới biết nhiều người ở Hà Nội nghĩ khác, nhưng hồi đó tôi không hay biết về suy nghĩ của họ. Tôi chỉ đưa cho họ sự phân tích chân xác của mình và sau đó mới hay tôi được trao huân chương”.
Ông Ẩn cho biết nguồn cung cấp chính các thông tin về Nguyễn Khánh là thành viên CIA Lou Conein, nhưng tôi ngờ rằng ông còn có các nguồn khác nữa. “Một ngày nọ, Lou Conein trở về sau chuyến bay bằng trực thăng với Nguyễn Khánh và hét lên với tôi, 'Ẩn, gọi cho vợ con và gia đình ông thu dọn đồ đạc rồi biến khỏi đây. Mất sạch rồi. Đất nước của ông sắp rơi vào tay Cộng sản rồi. Mọi việc tệ hơn tôi tưởng, Khảnh đã lên giường với Mặt trận Dân tộc Giải phóng’. Ông Ẩn giải thích rằng trong khi đang ngồi chung máy bay, Conein quyết định “thử” Khánh bằng cách nói vài câu dẫn tới ý niệm rằng “bây giờ có lẽ đã đến lúc tìm kiếm một chính phủ liên minh và đàm phán với Mặt trận Dân tộc Giải phóng”.
Khánh sập bẫy ngay khi nói rành mạch, chi tiết ý nghĩ của mình với Conein, người không thể kiềm chế được cảm xúc của mình. “Tôi chưa bao giờ thấy Lou Conein giận dữ như thế, nhưng ông ấy cũng rất lo cho tôi và gia đình. Ông ấy cứ quát tháo liên hồi, 'Mất sạch rồi, mất sạch rồi’, Ẩn nhớ lại. “Khi bình tĩnh lại, Conein nói với tôi rằng ông ấy không nghĩ Khánh sẽ có thể tìm kiếm được sự ủng hộ cho kế hoạch đàm phán với Mặt trận Dân tộc Giải phóng. Lúc bấy giờ tôi đã biết rằng CIA sẽ không để Khánh ở lại lâu. Người Mỹ sẽ không cho phép đàm phán với Mặt trận bởi vì người Việt Nam không được phép tự tìm kiếm sự đồng thuận, điều đó không phù hợp với lợi ích của Mỹ”.
Vụ đánh bom vào doanh trại Lục quân Mỹ tại Pleiku vào ngày 7 tháng 2 năm 1965, làm thiệt mạng tám người Mỹ và làm bị thương hơn một trăm người, đã châm ngòi cho một loạt sự kiện tiếp theo dẫn tới việc lực lượng chiến đấu mặt đất của Mỹ được đưa tới Việt Nam. Một ngày sau cuộc tấn công, Johnson đưa ra lời cảnh báo công khai. “Chúng ta không còn lựa chọn nào khác ngoài việc sẵn sàng hành động và tỏ rõ quyết tâm của chúng ta trong việc hỗ trợ miền Nam Việt Nam chiến đấu đề duy trì độc lập”.
Trợ lý đặc biệt của tổng thống, McGeorge Bundy, có mặt tại Pleiku trong ngày xảy ra vụ tấn công. Ông ta đánh về cho Lyndon Johnson một bức điện nêu rõ “tình hình tại Việt Nam đang xấu đi tệ hại, và nếu Mỹ không có một chương trình hành động mới thì thất bại là không tránh khỏi”. Ngày 13 tháng 2, Johnson khởi động Chiến dịch Sấm Rền, một chiến dịch ném bom có hệ thống và rộng khắp nhằm vào các mục tiêu của Bắc Việt.
Giữa lúc nhịp độ của chiến dịch không kích trở nên nhanh hơn, quyết định đưa lực lượng tham chiến mặt đất của Mỹ vào Việt Nam cũng đồng thời được đưa ra. Đầu tiên, 3.500 lính thủy quân lục chiến tràn lên bờ biển để bảo vệ căn cứ không quân trọng yếu tại Đà Nẵng; tới ngày 7 tháng 6, Tướng William Westmoreland đề xuất tăng thêm bốn mươi bốn tiểu đoàn để giúp miền Nam tránh khỏi thất bại. Suốt sáu tuần sau đó, vấn đề Mỹ hóa cuộc chiến đã chiếm lĩnh sân khấu chính trị tại Washington và được Hà Nội đặc biệt quan tâm theo dõi. “Tôi luôn cập nhật thông tin về cuộc tranh luận từ các đầu mối ở trong dinh”, Ẩn kể. “Tôi không bao giờ nghi ngờ về việc người Mỹ sẽ không bỏ đi. Họ đã đổ quá nhiều tiền và uy tín vào đây, nên câu hỏi của tôi lúc bấy giờ là họ sẽ đầu tư thêm bao nhiêu nữa. Khoản đầu tư sẽ rất lớn và đủ cho họ trụ vững dài lâu hơn, nhưng người Mỹ không bao giờ chịu đầu tư để tạo ra một thế hệ lãnh đạo mới tại miền Nam. Đó là sai lầm lớn của họ”.
Ý kiến bất đồng duy nhất trong chính quyền Johnson lúc bấy giờ xuất phát từ Thứ trưởng Ngoại giao George Ball, người đã tìm cách cảnh báo cho Johnson về việc ông ta đang khởi động một cuộc chiến tranh mới đặt Mỹ vào sự đối đầu với Việt Cộng. “Có lẽ việc đưa lực lượng quân sự quy mô lớn của Mỹ với hỏa lực mạnh sẽ buộc Hà Nội và Việt Cộng đi đến quyết định mà chúng ta đang tìm kiếm. Mặt khác, chúng ta có lẽ sẽ không thể thực hiện cuộc chiến này một cách đủ thành công - dù có đưa sang miền Nam Việt Nam 500.000 quân Mỹ thì chúng ta cũng cần phải có nhiều bằng chứng hơn so với hiện nay rằng quân của chúng ta sẽ không sa lầy trong rừng rậm và trên các ruộng lúa - trong lúc chúng ta từ từ cho nổ tung đất nước này thành muôn mảnh”. Trong một bản ghi nhớ, Ball viết rằng “về khía cạnh chính trị thì miền Nam Việt Nam là một thất bại… Hà Nội có một chính phủ, một mục tiêu và một nền kỷ luật. Chính quyền ở Sài Gòn thì lại là một trò đùa. Thực sự thì miền Nam Việt Nam là một đất nước có quân đội nhưng vô chính phủ. Theo quan điểm của tôi, một sự can dự sâu của Mỹ vào chiến trường trên bộ tại Nam Việt Nam là một sai lầm chết người. Nếu từng có một dịp để tiến hành một cuộc rút quân chiến thuật thì chính là lúc này đây”. (63)
Lời của Ball chẳng có ai nghe. Ngày cuối cùng của ông ở nhiệm sở là vào cuối tháng 7, vài ngày trước khi Johnson tuyên bố Westmoreland sẽ có tất cả những gì ông ta cần. Tổng thống đã nói với Ball rằng Mỹ sẽ mất uy tín nếu rút quân. “Không đâu, thưa ngài”, Ball đáp. “Thất bại tồi tệ hơn sẽ là việc quốc gia hùng mạnh nhất quả đất không thể khuất phục được một nhúm nhỏ du kích”. Như sau này Ẩn giải thích, “Mỹ là một quốc gia tươi đẹp, với những con người dễ mến; họ chỉ không học thuộc lịch sử thôi”. (64)
TRONG VÒNG NĂM NĂM sau khi trở về từ Mỹ, Phạm Xuân Ẩn đã nhận hai Huân chương Chiến công nhờ các báo cáo chiến lược và những đóng góp của ông đối với trận Ấp Bắc và quá trình Mỹ hóa cuộc chiến tranh, ông cũng tạo dựng được danh tiếng có lẽ là nhà báo Việt Nam Ẩn tới dùng cơm tối tại nhà của họ. Ẩn nhớ lại rằng gia đình đó rất ủng hộ Richard Nixon(*), trong phòng khách có treo tấm hình lớn kèm chữ ký của phó tổng thống. Trong bữa tối, Ẩn được biết rằng con trai họ đóng tại một đơn vị không quân ở Sài Gòn. Gia đình Mendenhall muốn Ẩn tới thăm con trai của họ khi ông trở lại Sài Gòn. “Là một điệp viên, tôi đã cân nhắc việc khai thác mối quan hệ này và đã có thể làm điều đó, tuy nhiên tôi quyết định không làm thế và không bao giờ hé lộ chuyện này với cấp trên. Tôi giữ im lặng bởi thật không công bằng nếu tôi lợi dụng những người này trong khi con gái một người bạn của họ, là một thiên thần thực sự, đã cứu tôi trong đêm hôm ấy. Tôi chỉ có một mình và rất lạnh, và ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra với tồi, thế rồi cô ấy xuất hiện và bảo vệ tôi”.
Ẩn lái xe từ Buffalo về Arlington, Virginia, để tái ngộ với gia đình Brandes, ngụ tại ngôi nhà của họ trên phố South Joyce. Mills đưa Ẩn sang Washington để tham quan tòa nhà FBI(**), Quốc hội, sau đó tới Nghĩa trang Quốc gia Arlington. Lúc rảnh rỗi, Ẩn thường xem ti vi vào các buổi sáng với Jud, đặc biệt là các chương trình đố vui và phim viễn Tây. Chương trình ưa thích của Ẩn gồm Dough Re Mi, Truy tìm kho báu, Chọn giá đúng, Ai tập trung hơn?, Tích Tắc Dough, Thử thách thời gian, các phim viễn Tây như Maverick, Wagon Train, Gunsmoke và Have Gun Will Travels(55)
______________________
(*) Richard Milhous Nixon (1913-1994) là Tổng thống Mỹ từ năm 1969 cho đến tháng 8 năm 1974, khi ông từ chức theo sau vụ bê bối Watergate. Trước đó, ông làm phó tổng thống năm 1953 đến năm 1961, dưới thời Tổng thống Dwight Eisenhower
(**) Federal Bureau of Investigation (FBI), tức Cục Điều tra Liên bang, ra đời năm 1908. Cơ quan điều tra tội phạm và phán gián này nằm dưới sự quản lý của Bộ Tư pháp Mỹ.
______________________
Sau đó Ẩn lái xe lên New York để tập sự tại Liên Hiệp Quốc, đến vừa đúng lúc để theo dõi bài phát biểu của Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng Liên Xô Nikita Khrushchev trước Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc. Trong thời gian đang dồn sức cho việc tập sự, Ẩn nhận được tin Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 tại Hà Nội (Khóa 3) đã thông qua Nghị quyết 15, đánh dấu cuộc chiến tranh du kích ở miền Nam bắt đầu. “Khi nhận được tin Cộng sản đã bắt đầu cuộc chiến, tôi biết rằng mình phải trở về”. (56)
Đặc điểm của cuộc chiến tranh bên trong Việt Nam hiện đang ở thời kỳ chuyển tiếp. Mùa hè năm ấy, một vụ tấn công khủng bố nhằm vào Trung tâm huấn luyện của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Biên Hòa đúng vào dịp kỷ niệm năm năm ngày Tổng thống Diệm lên nắm quyền tại Việt Nam đã dẫn tới thiệt hại về nhân mạng đầu tiên của Mỹ trong cuộc chiến.(57) Vụ tấn công là hành động táo tợn nhất của Cộng sản kể từ năm 1957 khi tòa nhà thư viện của Cơ quan Thông tin Mỹ (USIS) bị đánh bom tại Sài Gòn.(58)
Ẩn bán chiếc xe của mình ở New York và bay trở lại California để họp tại Tổ chức Á Châu nhằm chuẩn bị cho chuyến trở về của ông. Tổ chức này đã đưa ra một đề nghị hấp dẫn: ông có thể nhận một công việc với mức lương rất cao tại Cơ quan Thông tin Mỹ theo một chương trình mà sau đó ông sẽ được trao học bổng toàn phần làm nghiên cứu sinh tiến sĩ, hoặc ông có thể dạy tiếng Việt tại trường ngôn ngữ ở Monterey cho những cố vấn Mỹ sắp sang Việt Nam.
Ẩn đi thẳng từ văn phòng của Tổ chức Á Châu sang đài vọng cảnh cầu Cổng Vàng để cân nhắc các lựa chọn, ông mang theo một tấm bưu thiếp của Lee Meyer, trên đó in hình đảo Alcatraz(*). Là người mê tín, Ẩn tin rằng tấm bưu thiếp này chỉ cho ông biết tương lai của mình một khi trở về Việt Nam. Đảo Côn Sơn chính là Alcatraz, ông cũng phân vân liệu tấm bưu thiếp này có phải là một điềm báo rằng ông sẽ ở lại California và sống kề cận Lee. Cho tới lúc ấy, ông chưa nhận được lệnh phải trở về.
Ở giữa ngã đường quan trọng này, Ẩn đã quyết định rằng cách tốt nhất để phụng sự đất nước là trở về. Tôi rất lo lắng cho gia đình, cho các vị chỉ huy, và cho nhiệm vụ của tôi. Tôi đã tuyên thệ với đảng. Tôi cũng đã ba mươi hai tuổi rồi. Tôi biết rằng sớm muộn gì rồi cũng phải trở về. Nhiều người đang trông cậy vào tôi và sứ mệnh của tôi”.
______________________
(*) Một đảo đá rộng khoảng 10 ha nằm trong vịnh San Francisco. Trước năm 1970, nơi đây có các cơ sở quân sự và nhà tù
___________________________

CHÚ THÍCH
(1) Xin cám ơn Rosann Martin đã cung cấp thư và ảnh cá nhân.
(2) Về trục trặc trong khâu xin thị thực, ngày 18-12-1957, Brandes viết cho Ẩn: “Gửi ông Ẩn. Chúng tôi rất vui khi ông đã đến được nước Mỹ để học. Ngay cả khi chia tay ông tại phi trường ở Sài Gòn, chúng tôi cũng không chắc là ông sẽ đi suôn sẻ”.
(3) Nguyên Thái, Is South Vietnam Viable? (Manila, Philippines: Nhà xuất bản Carmelo and Bauermann, 1962), trang 209; William Colby, Lost Victory: A Firsthand Account of America's Sixteen-Year Involvement in Vietnam (New York: Nhà xuất bản Contemporary Books, trang 39).
(4) Robert Shaplen, The Lost Revolution (tái bản có sửa chữa, Nhà xuất bản Harper & Row), trang 158.
(5) A. I. Langguth, Our Vietnam: The War, 1954-1975 (New York: Nhà xuất bản Simon & Schuster, 2000), trang 105.
(6) “May mà ông đã không thể đi sớm hơn, bởi nếu như vậy thì ông đã không được nhìn cha mình lần cuối trước khi ông ấy nhắm mắt”, Mills Brandes viết cho Ẩn vào ngày 18.12.1957. “Ông đã nói với chúng tôi về sự kính trọng của mình dành cho cha. Chúng tôi cũng có sự kính trọng tương tự. Hy vọng rằng cái chết của thân phụ sẽ không tạo ra sự đau khổ lâu dài cho ông và gia đình ông”.
(7) Phỏng vấn ông Mai Chí Thọ. Ẩn nghĩ rằng số tiền này là mượn từ một chủ đồn điền cao su giàu có. Ông Ẩn cũng nhận được một khoản phụ cấp khiêm tốn từ Sở Thuế quan và Tổ chức Á Châu cũng có hỗ trợ.
(8) Trên thực tế, khi liệt kê danh sách tất cả các sinh viên quốc tế nhập học tại Trường Orange Coast (OCC) vào học kỳ mùa thu 1957, tờ báo của sinh viên đãle='height:10px;'>
(44) A Bright Shining Lie, 277.
(45) Tệp Ắp Bắc, Hộc 86, Tài liệu của Sheehan.
(46) The U.S. Army in Vietnam. Trích từ ấn phẩm tái bản của loạt Tài liệu về Lịch sử Quân đội Mỹ, Trung tâm Lịch sử Quân sự của Lục quân Mỹ, trang 634; Đánh giá của Lục quân Mỹ về Ấp Bắc nêu “Tầm quan trọng của trận Ấp Bắc vượt ra ngoài khuôn khổ một trận đánh. Thất bại này là một điềm báo cho những gì sẽ xảy đến. Với việc giờ đây đã có thể thách thức các đơn vị VNCH với sức mạnh tương đương trong các trận đánh mang hơi hướng chính quy, Việt Cộng đang tiến tới một bước quyết liệt hơn trong cuộc chiến tranh cách mạng”.
(47) Tài liệu Việt Cộng về trận Ấp Bắc, 2-1-1963, Tệp Ấp Bắc, Hộc 86, Tài liệu của Sheehan.
(48) A Bright Shining Lie, trang 277-8.
(49) E-mail, 10-10-2006
(50) Xem David Halberstam, The Making of a Quagmire (New York: Nhà xuất bản Ballantine Books, 1968).
(51) Trích lời trong Once upon a Distant War, trang 13.
(52) The Powers That Be, trang 450. Xem Daniel C. Hallin, The “Uncensored War”: The Media and Vietnam (Berkeley: Nhà xuất bản University of California Press, 1989), trang 41.
(53) Sheehan có lần hỏi Bà Nhu rằng bà ta có nghĩ là Cộng sản đã xâm nhập vào báo chí Mỹ hay không. “Chắc chắn rồi”, Bà Nhu đáp. Cộng sản “luôn chọn những tổ chức nổi tiếng hoặc nghiêm túc nhất như Đại học Harvard hoặc báo New York Times”. Bà nói, “Tạp chí Time thì thường nịnh tôi”. Once upon a Distant War, trang 121-122.
(54) Trích dẫn trong Thomas B. Morgan, “Reporters of the Lost War”, tạp chí Esquire, 7-1984, trang 52.
(55) Ông Ẩn nói, “Tôi biết ổng là Nguyễn Văn Tá, sĩ quan của Phủ Đặc ủy Trung ương tình báo”. Trang mạng của báo Thanh Niên, 21-3-2004, truy cập ngày 21-3-2004 tại địa chỉ http://www!thanhnien.com.vn/TinTuc/Xa-Hoi/2004/3/21/11594/. Merle Pribbenow dịch.
(56) Robert Shaplen, The Road from War (New York: Nhà xuất bản Harper & Row, 1970). Xem bài viết ngày 20-3-1965 của shaplen, trang 1-9.
(57) “In Vietnam, the Enemy Was Right Beside Us”, báo Washington Star, 22-3-1981.
(58) Trương Như Tảng, A Vietcong Memoir (New York: Nhà xuất bản Vintage), trang 60.
(59) Hộc 8, Việt Nam, Tài liệu của McCulloch. Đây là các ghi chú phỏng vấn của McCuiloch.
(60) Tài liệu năm 1975 của Shaplen có câu trả lời của Tuyến về tình trạng nhà tù thời đó: “Tuyến: bị bắt, biệt giam, trân truồng, 5 tuần, 2 bát cơm mỗi ngày, mới chín tới, không có thức ăn nào khác, một chai nhỏ nước máy, nôn ra máu, rất ốm yếu. Ngồi tù 73 ngày, ra ngày 2-11” Hộc 93, Tài liệu của Shaplen.
(61) Xem Larry Berman, Planning a Tragedy (New York: Nhà xuất bản W. W. Norton, 1982).
(62) “ẨN: Mặt trận Dân tộc Giải phóng “đề nghị điều tương tự với Nguyễn Khánh vào năm 1964 (tham gia chính phủ) và Khánh sẵn sàng thực hiện điều đó, đã viết cho Nguyễn Hữu Thọ. CIA bắt được - lá thư thứ hai - và loại Khánh. Lúc đấy Khánh sẵn sàng nói chuyện”. Tài liệu của Shaplen, Ghi chú phỏng vấn. Hộc 93.
(63) Planning A Tragedy, 109
(64) Ẩn nói điều này với phóng viên ảnh Ted Thái. Tác giả cũng phỏng vấn Thái.