Dịch giả: Đỗ Hùng
Chương 1 (tt)

     uộc tấn công vào Campuchia gây ra hoảng sợ đối với cộng đồng người Việt thiểu số. Chính phủ Lon Nol bắt đầu khơi lên cơn sốt bài Việt. Một trong những cuộc tàn sát của Lon Nol diễn ra tại thị xã Takeo, vốn được cho là căn cứ địa của Cộng sản bởi nơi đây từng nổ ra nhiều cuộc biểu tình chống chế độ Lon Nol. Hơn hai trăm người, bao gồm nhiều trẻ em, bị người Campuchia nhận diện là Việt Cộng, đã bị quây lại và nhốt trong một trại giam ở Takeo. Ba tiểu đoàn dân quân phụ trách canh giữ số người Việt đó. Lúc bấy giờ Anson đang ở Campuchia để tường thuật sự kiện này, và vào mỗi buổi sáng, anh cùng cộng tác viên Tim Allman lái xe từ Phnom Penh lên Takeo để kiểm tra tình hình vụ bắt giữ người Việt.
Kế hoạch có vẻ ốn trong một thời gian, nhưng rồi vào một buổi tối, lính Campuchia đã xả súng vào toàn bộ số người Việt nói trên. Đó là một cuộc thảm sát. Buổi sáng hôm sau, Anson và Allman lái chiếc Ford Cortina màu trắng tới. “Các thi thể được xếp chồng lên nhau giữa một vũng máu lớn đã đông lại. Thoạt đầu tôi tưởng họ chết hết rồi. Nhưng khi vữa bước lên bậc thềm của trại giam, suýt chút nữa trượt chân vào vũng máu, tôi thấy nhiều người cử động và nghe tiếng rên rỉ. Trấn tĩnh lại một chút, tôi bất đầu đếm; hơn hai chục người đàn ông và bé trai còn sống, nằm giữa đống khoảng sáu mươi xác chết”, Anson hồi tưởng.
Ngoài tiếng rên của người bị thương và âm thanh của ruồi nhặng, còn lại mọi thứ đều im lìm. Một ông già với một chân đã bị nát gắng gượng kể lại chuyện đã xảy ra: “Chúng bảo tất cả tụi tôi là Việt Cộng, nhưng tụi tôi chỉ là dân bản quán. Anh phải đưa tụi tôi khỏi nơi đây nếu không tối nay chúng lại giết hết. Xin hãy đưa chúng tôi đi”.
Anson quỳ xuống cạnh một đứa bé trai chừng tám tuổi. “Mặt nó trắng bệch. Tôi đặt tay lên ngực nó; chỉ thấy nó thoi thóp nhẹ. Khẽ kéo chiếc xà rông quấn quanh cơ thể cậu bé, tôi thấy lỗ chỗ cả chục vết đạn, kéo dài từ hông xuống tới mắt cá”. Anh và Allman quyết định chở cậu bé tới bệnh viện ở Phnom Penh và kêu gọi các phóng viên khác tới đây cứu người bị thương. Anson cho rằng chẳng bao lâu nữa đám lính kia sẽ trở lại để kết thúc cuộc tàn sát.
Anson và Allman cố gắng chất thật nhiều người bị thương lên xe rồi phóng về Phnom Penh. Bệnh viện Pháp ở đấy tiếp nhận các nạn nhân trẻ em. Allman ở lại với lũ trẻ và hứa rằng sẽ trở lại Takeo ngay khi các bệnh nhi có dấu hiệu hồi phục. Anson thì trở về khách sạn để kiếm các nhà báo khác. “Ở dưới Takeo, người ta đang bắn người Việt. Hãy kêu mấy người khác cùng đi”, anh hét lên giữa đám đông các nhà báo.
Henry Kamm của báo New York Times và Kevin Buckley của tờ Newsweek chở Anson quay lại Takeo; khi họ tới nơi thì đám lính Campuchia cũng đã trở lại. “Chúng tao chẳng có gì phải che giấu cá”, một người có vẻ như là cầm đầu đám lính nói. “Chúng tao phải làm thế. Tất cả bọn chúng đều là Việt Cộng”.(19) Khi Anson hỏi ở quanh đấy có bệnh viện nào không, anh đã nhận được câu trả lời, “Có đấy, nhưng không dành cho lũ rác rưởi này”. Anson yêu cầu chấm dứt tàn sát trẻ em vô tội. Những người Campuchia cười lớn, bảo rằng họ chỉ giết Việt Cộng thôi.(20)
Trời tối dần. Lúc này Allman đã lái chiếc Cortina trở lại và bắt đầu chất người bị thương lên xe, nhiều phóng viên khác cũng trở lại để đưa tin. Anson năn nỉ từng người giúp đưa các trẻ em tới Phnom Penh. “Cậu không được can thiệp vào nội dung câu chuyện”, Keyes Beech, một phóng viên khả kính của tờ Chicago Daily News và là người từng nhận giải Pulitzer về phóng sự quốc tế vào năm 1951, đáp. “Nếu đưa những người này đi là cậu đã can dự vào vụ việc rồi. Đấy không phải là công việc của cậu”.
Anson chẳng thể kiếm ra người trợ giúp, cho tới khi Kevin Buckley tiến lên và nói, “Để tôi giúp”. Anh này là người duy nhất ra tay. “Những phóng viên khác nhìn chúng tôi một chốc, rồi từng người rời đi”, Anson nhớ lại. Buckley, Anson và Allman nhét năm đứa trẻ và ba người lớn vào chiếc Cortina. Allman chở họ về bệnh viện và hứa sẽ trở lại trước lúc tảng sáng. Vẫn còn người sống sót ở đây và Anson biết rằng để họ lại một mình là không an toàn. Họ cần nhân chứng và sự bảo vệ. Kevin Buckley quyết định ở lại với Anson bởi “đã thương thì thương cho chót”.(21)
Trời về đêm và toán lính Campuchia chuẩn bị cho cuộc tàn sát cuối cùng. Anson phát hoảng khi nghĩ rằng sự có mặt của hai phóng viên Mỹ không thể ngăn cản nổi những người Campuchia kia. Ngay lúc ấy thì có tiếng xe chạy tới. Bernard Kalb của hãng CBS cùng đồng nghiệp lái xe từ Phnom Penh lên để đón những người bạn của họ rời khỏi Takeo. “Cậu thực sự tin rằng chỉ với hai người đứng đây mà có thể ngăn chặn được tụi nó à? Nếu chúng đã muốn xử mấy người này thi chắc chắn chúng sẽ xử thôi, khi đó thì ngay cả các cậu cũng khó sống nổi”. (22)
Anson từ chối rời đi, nói rằng anh khống thể bỏ lủ trẻ Việt ở đây được. Kalb đặt tay lên vai Anson như muốn an ủi và thuyết phục, nhưng bất ngờ người đàn ông bự con này dùng tay khóa đầu Anson rồi cùng nhóm làm phim khiêng anh vào xe.
Henry Kamm, người vào năm 1978 sẽ nhận giải Pulitzer về đề tài thuyền nhân Việt Nam và dân tị nạn từ Lào và Campuchia, đã viết một bài báo về cuộc thảm sát này đăng trên trang nhất tờ New York Times, trong đó kể chuyện Anson đã đưa một trong những người bị thương nặng nhất tới bệnh viện ở Phnom Penh. Tin tức về vụ thảm sát đã làm dấy nên làn sóng giận dữ tại Sài Gòn, đặc biệt là trong giới phi công không lực Việt Nam Cộng hòa. Những phi công này, vốn thường làm nhiệm vụ tấn công các căn cứ của Bắc Việt tại Campuchia, “giờ lại rất muốn xả súng và ném bom vào làng mạc Campuchia để trả thù”. (23)
BOB ANSON CÒN SỐNG nhưng trải qua một phen suýt chết. Anh kể mình đã bị một toán quân Bắc Việt bắt sống bên một dòng sông cách thị trấn Skoun vài cây số. Trên đường đi, anh không dừng lại tại hai hoặc ba trạm kiểm soát. “Cậu ấy quá bất cẩn”, sau này Ẩn nói với tôi. “Cậu ấy thường phóng xe rất nhanh, một người đàn ông đã có gia đình trẻ mà lại cứ lao vào quá nhiều rủi ro”.
Tường thuật chiến sự ở Việt Nam và Campuchia rất khác nhau. Ở Việt Nam, phóng viên di chuyển bằng phương tiện của quân đội Mỹ hoặc Việt Nam Cộng hòa và họ luôn được các binh sĩ che chở, hỗ trợ. Tại Campuchia, phóng viên tự thuê các loại xe hơi như Ford Cortina hoặc xe Mercedes chạy dầu. Họ không được quân đội hỗ trợ. Nếu xe hỏng giữa đường thì phóng viên coi như chết dí. Sẽ không có ai tới đón. “Mục tiêu trước tiên tại Campuchia là phóng xe tới điểm chiến sự lấy tin rồi về mà không dính đạn hoặc bị bắt. Để thực hiện điều này, anh phải lái xe từ Phnom Penh, vượt qua những con đường dài không có sự bảo vệ an ninh để tới nơi mà anh tin là chiến sự sẽ xảy ra. Anh sẽ không biết được khi đến nơi thì mình sẽ gặp điều gì, nếu như anh thực sự đến được nơi đó. “(24)
Anson bị bắt rồi bị đẩy xuống một cái hố đã đào sẵn, bị ấn vào tay một cái xẻng và bảo đào cho hố sâu hơn. Anh cảm thấy như đang đào huyệt để chôn mình. Anh mong sẽ chỉ bị bắn vào ngực chứ không phải đầu, rồi cầu nguyện là người ta sẽ tìm thấy thi thể của anh. Rồi anh nghĩ về Diane: “Nàng còn trẻ và phải sống xa nhà, không có chút kỹ năng bươn chải nào, lại phải nuôi hai con nhỏ… Lạy Chúa, con rất hối tiếc về điều mà con đã gây ra cho gia đình nhỏ của con”. Anh nghĩ về hai đồng nghiệp mất tích là Sean Flynn và Dana Stone; anh nguyện cầu Đức Mẹ đồng trinh. Rồi người ta lệnh cho anh đứng sang bên miệng hố. Một họng súng AK chĩa vào trán anh, tiếng mở khóa cò nghe lách cách, anh sợ đến mức đái ra cả quần. Anson hét lên những từ cuối cùng bằng tiếng Việt - “Hòa Bình, Hòa Bình”. Sự im lặng đột nhiên bao trùm, rồi có tiếng đáp lại “Hòa Bình”. Hôm đó Anson không chết.(25)
Không khí kinh sợ bao trùm ngày kế tiếp. Những người bắt giữ không tin anh là nhà báo, mà cho rằng anh là một phi công Mỹ có máy bay bị bắn cháy. Lúc ấy Anson đang mang theo bên mình cuốn sổ có ghi lại cuộc phỏng vấn gần đấy với một lính đặc nhiệm Lục quân Mỹ. Trong đó, anh viết hoa USAF(*) để đánh dấu các chi tiết nói về chiến dịch ném bom của Mỹ tại Campuchia. Nhóm người bắt giữ dễ dàng nhận ra những chữ viết ấy. Những ngày đêm kế tiếp, người ta trói tay và dẫn Anson đi qua các vùng rừng rậm dọc Đường mòn Hồ Chí Minh, lúc thì chạy, lúc đi bộ. Anh nghĩ quân Bắc Việt có thể đang đưa anh ra Hà Nội để nhốt vào “Khách sạn Hanoi Hilton”(*) cùng các phi công, nếu anh còn sống sót để đi đến nơi đó.
Cuộc hành quân cưỡng bách đưa Anson đến một khu làng nhỏ, để một sĩ quan biết tiếng Anh thẩm vấn. Anson được yêu cầu cung cấp mọi chi tiết liên quan tới đời tư cũng như nghề nghiệp của mình. Anh chẳng giấu giếm điều gì. Tất cả các chi tiết về cuộc đời, gia phả, học vấn của anh được phơi bày. Có lúc người thẩm vấn hỏi có phải con gái của Anson, cô bé Christian Kennedy Anson, được đặt theo tên của John Kennedy, vị tổng thống đầu tiên điều quân tới Việt Nam. Không phải, Anson nhanh trí đáp, con gái tôi được đặt theo tên của Robert Kennedy(***), người phản đối cuộc chiến.
Anson khai anh là phóng viên tờ Time, không phải là lính chiến, và cung cấp đầu mối liên hệ để kiểm chứng. “A”, người thẩm vấn nói. “Đấy là một ấn phẩm rất quan trọng của Mỹ. Có lẽ không quan trọng bằng New York Times, nhưng hơn hẳn Newsweek. Tôi nói vậy có đúng không?” “Đúng rồi”. Anson cười, và hình dung ra cảnh Arnaud de Borchgrave(****) sẽ phản ứng như thế nào nếu anh còn có cơ hội sống để kể lại với ông ta câu chuyện này.(26)
______________________
(*) Viết tắt của United States Air Force, nghĩa là Không lực Mỹ.
(**) Là cách gọi mà quân Mỹ thường dùng để chỉ nhà tù Hòa Lò, nơi thường giam giữ các phi công Mỹ bị bắt trong chiến tranh.
(***) Robert Kennedy, sinh 1925, là em trai của Tổng thống John F. Kennedy, ông từng là Bộ trưởng Tư pháp Mỹ (1961-1964); năm 1965, ông trở thành Thượng nghị sĩ liên bang, đại diện cho tiểu bang New York cho đến khi bị Sirhan Sirhan, một người Công giáo Palestine, bán chết vào tháng 6 năm 1968 do ủng hộ Israel, ông từng chống các chính sách của Tổng thống Lyndon B. Johnson liên quan tới Chiến tranh Việt Nam.
(****) Ông là nhà báo nổi tiếng người Mỹ lúc bây giờ làm cho tờ Newsweek. Năm 1972, ông đã tới Hà Nội thực hiện bài phỏng vấn Thủ tướng Phạm Văn Đồng.
______________________
Ở Sài Gòn, Phạm Xuân Ẩn trở về sau cuộc gặp đầy cảm xúc với Diane Anson. Đêm hôm đó, sau khi các con đã ngủ, Ẩn lấy ít cơm bỏ vào thìa nước rồi đun cho đến khi gạo nhão ra thành một thứ hồ sền sệt. Trong khi chú chó bẹc giê Đức và bà Thu Nhàn đứng xem, Ẩn nhúng đầu cây bút vào thứ chất lỏng đó rồi viết lên một tờ giấy thường dùng để gói. Trong chốc lát, vệt mực biến mất nhưng Ẩn vẫn viết, như ông đã từng làm vài tuần một lần trong suốt thập kỷ qua.
Ẩn gặp Thu Nhàn lần đầu khi bà đang làm việc tại một trung tâm hàng thủ công mỹ nghệ gần tiệm Givral. “Lúc mới gặp, tôi nghĩ anh chàng này rất thông minh, có học vấn và có phong cách lịch lãm”, sau này bà Thu Nhàn kể lại với tôi.
“Anh cũng thích giao thiệp và hay đùa”. Sau sáu tháng tìm hiểu, họ kết hôn vào ngày 25 tháng 2 năm 1962. “Rất nhiều ký giả bạn bè đã đến dự đãm cưới chúng tôi”, bà Thu Nhàn nhớ lại.
Sáu tháng sau, Ẩn thổ lộ với vợ rằng ông làm việc cho cách mạng, khiến con tim bà như rung lên. “Hồi tiểu học, tôi rất thích môn lịch sử và những bài học về các cuộc khởi nghĩa chống ngoại xâm… Với tình yêu Tổ quốc sẵn có trong huyết quản, tôi rất thích và đã ghi nhớ cho tới tận hôm nay nhiều bài thơ ca về lòng ái quốc“. (27) Thu Nhàn sẵn sàng làm bất cứ điều gì để hỗ trợ sứ mệnh của chỏng. “Khi biết rằng chồng mình đang làm việc bí mật và lãnh nhận những nhiệm vụ rất nặng nề và nguy hiểm để phụng sự sự nghiệp giành độc lập cho đất nước, tôi ngay lập tức chấp nhận điều đó bằng cách giúp chồng làm việc hiệu quả và an toàn nhất, như chúng tôi thường nói 'thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Bà Thu Nhàn thường đi theo ông Ẩn để cảnh giới mỗi khi ông chuyển giao tài liệu và khi cần thì bà “thức suốt đêm cùng chồng để sao chụp tài liệu dưới những bóng đèn 500 watt, làm mọi việc để chồng khỏi bị phân tán tu tưởng bởi chuyện con cái gia đình”. (28)
Bà Thu Nhàn kể với tôi rằng ông Ẩn đã dặn bà nếu ông bị bắt, thì bà đừng có cố chạy chọt xin xỏ, vì ông không bao giờ phản bội nguồn tin và đã sẵn sàng cho cái chết. “Anh ấy mang theo một viên thuốc độc”, bà Thu Nhàn kể, tái khẳng định điều mà ông Ẩn đã đề cập với tôi nhiều lần trước đó. “Là phụ nữ, tôi rất lo sợ. Tôi luôn sống trong tâm trạng sẵn sàng đối mặt với tình huống xấu nhất, khi nào cũng cảm giác như 'cá nằm trên thớt' vậy”.
Ông Ẩn tin vào vận may và đó là một ngày may mắn đối với Bob Anson, bởi Ẩn đã dự định sáng hôm sau sẽ gặp người giao liên của mình, bà Nguyễn Thị Ba, người về sau được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang vào năm 1976.(29) Ông Ẩn đã chọn bà Ba làm giao liên với niềm tin rằng chỉ có một nữ sứ giả mới bảo vệ được một người sinh nhằm cung xử nữ trước những điều tà ác. Lớn hơn ông Ẩn mười hai tuổi và thường bỏm bẻm nhai trầu, bà Ba ít gây chú ý đối với mọi người. Trước khi chọn bà Ba thì ông Ẩn đã loại tới chín ứng viên khác.(30) “Trước lúc tôi đi gặp ông Ẩn lấn đấu, người ta bảo tôi rằng 'cha này hổng giống ai' nên có bị loại thì cũng đừng thất vọng”, bà Ba kể với tôi. “Ông ấy rất đặc biệt và luôn đòi hỏi cao”. Nhớ lại lần đầu gặp mặt, lúc đó bà Ba giả làm người mang hoa đi lễ chùa. Theo mật khẩu đã giao ước, ông Ẩn cất tiếng, “chào chị Bảy Ba”, và bà đáp lại, “chào anh Ba Ẩn”. Nếu hai con số trong các lời chào có tổng là mười, cả hai sẽ biết họ đều là người của cách mạng.
Từ năm 1961 tới 1975, bà Ba là giao liên duy nhất của ông Ẩn.(31) “Mỗi tháng tôi gặp ông Ẩn ba hoặc bốn lần đề nhận tài liệu”, bà Ba, bí danh là Nữ tình báo viên B3, nhớ lại. “Khi tình hình khẩn cấp, ông ấy có thể gặp tôi năm tới sáu lần mỗi tháng. Khi đi gặp ông ấy để nhận tài liệu, tôi thường giả trang thành người bán hàng rong, khi thì bán rau, khi thì bán tạp hóa, nhằm dễ trà trộn vào đám đông. Nếu tài liệu ở dạng các cuộn phim, ông Ẩn sẽ cuộn thành từng cuộn rất nhỏ và cho vào bánh xà bông hoặc thỏi nem”. Bà Ba muốn tôi hiểu chính xác món ăn gọi là nem chua (thịt gói trong lá chuối) để hình dung rõ hơn cách ông Ẩn giấu phim.(32)
Vận may của Anson chính là việc Hà Nội đang chờ đợi bản phân tích của Ẩn về kế hoạch tiến quân vào Campuchia của Nixon cũng như thông tin cập nhật về tinh thần và công tác huấn luyện của quân lực Việt Nam Cộng hòa. Ông Ẩn quyết định chỉ gửi một bức thư và vài cuộn phim, ông mô tả chi tiết về một phóng viên người Mỹ, một đồng nghiệp tại tờ Time và là một người bạn của nhân dân Việt Nam, bị bắt gần đây. Ẩn yêu cầu nếu Bob Anson chưa chết thì phải thả ngay, không hỏi thêm điều gì, ông giải thích rằng đây chính là người Mỹ đã cứu trẻ em người Việt ở Takeo. Ẩn đã chấp nhận đối mặt với rủi ro lớn, bởi nếu như bà Ba hoặc bất cứ ai trong đội ngũ giao liên bị bắt, vỏ bọc của ông sẽ bị lộ ngay tức thì.
Việc Ẩn đưa ra đề nghị này cho thấy ông đã tự thấy được giá trị của mình trong vai trò là một sĩ quan điệp báo. Trong cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân năm 1968, thượng cấp trực tiếp của ông là Tư Cang, người mới được đưa vào Sài Gòn để làm việc cùng Ẩn nhằm xác định các lộ trình xâm nhập vào thành phố, đã thông báo rằng ông vừa được trao huân chương đặc biệt vì những đóng góp trong chiến thắng Ấp Bắc vào năm 1963 và những báo cáo của ông được cấp trên đánh giá cao. Chính Tư Cang là người đã viết đơn đề nghị tặng thưởng cho Ẩn. Ẩn đã giải thích với tôi, “Ông biết đấy, lần đầu tiên tôi nhận được phản hồi về các báo cáo của mình là lúc ông Tư Cang kể với tôi về huân chương liên quan đến Ấp Bắc. Tôi biết mình sẽ không có cơ hội đeo tấm huân chương đó cho đến khi cuộc chiến kết thúc, nhưng ngay lúc ấy tôi muốn tận dụng giá trị của nó”. (33)
Ngày hôm sau, ông Ẩn dắt chú chó bẹc giê Đức tới chợ chim kiểng Sài Gòn. Ông nổi tiếng là người chơi chim kiểng và huấn luyện chó giỏi nhất Sài Gòn, và những con thú cưng này đã tạo ra một vỏ bọc tuyệt vời cho nhà tình báo. Ông thậm chí còn huấn luyện con chó chạy tới đái đúng vào cái cây được dùng làm hộp thư chết trong những lần trao đổi tin tức. Những lúc Ẩn bỗng nhiên biến mất một vài ngày thì ai cũng nghĩ rằng ông tới chợ chim kiểng hay đi huấn luyện hoặc mua chó.
Khu chợ luôn tấp nập, bán đủ thứ từ khỉ, cầy hương, mèo rừng, thỏ, chó, mèo, cá và đủ thứ chim, ông Ẩn xem kỹ mấy chú cu cu châu Phi, bồ câu Pháp, sơn ca, gà lôi và chim yến. Biết rằng bà Ba sắp đến nên ông Ẩn đứng đợi ở quầy bán dơi. Một lát sau, bà Ba tới và hai người bắt đầu trò chuyện; họ nói về cách lấy tiết dơi pha với rượu đế để trị bệnh lao. Ẩn chỉ dẫn tỉ mỉ cho người quen của ông cách cắt cổ con dơi, lấy tiết để pha chế thuốc.(34)
Trong lúc trò chuyện, ông Ẩn thỉnh thoảng mời bà Ba chút đồ ăn; bà Ba có vẻ như muốn để dành mang về bởi bà khỏng thể ăn hết tất cả số nem cuốn gói trong giấy trắng này. Bà Ba cám ơn và cũng mời lại ông một vài thứ. Rồi hai người chia tay - ông Ẩn trở về tòa soạn Time còn bà Nguyễn Thị Ba xuống Củ Chi, một vùng đất ngoại vi Sài Gòn, nơi có một mạng lưới tinh vi đang chờ những miếng nem của bà. Trong bọc tài liệu, ông Ẩn còn ghi thời gian và địa điểm cho cuộc gặp kế tiếp. Bà Ba kể với tôi rằng “mỗi tháng chúng tôi chọn một cuộc hẹn chính và hai cuộc gặp phụ, thường cách nhau mười ngày. Thường thì mọi thứ được định trước cho các ngày 10, 20 và 30 hàng tháng, nhưng mỗi tháng lại thay đổi nên không bao giờ có một khuôn mẩu nào. Nếu có chuyện khẩn cấp, tôi sẽ tới trường học đứng đợi cho tới khi ông ấy đưa bọn trẻ tới học. Không cần chào hỏi gì, chỉ cần thấy bóng tôi là ông ấy biết trên đang cần thông tin gấp, rồi sau đó ông ấy sẽ liên lạc với cơ sở”.
Thường thì bà Ba chỉ cần mang gói tài liệu của ông Ẩn tới Hóc Môn, khoảng nửa đường tới Củ Chi, rồi giao cho liên lạc viên khác. “Tôi chỉ tới Củ Chi một vài lần”, bà kể. Bà Ba và ông Ẩn không có kiểu liên lạc nào khác; không điện thoại, không vô tuyến sóng ngắn, không thư từ. Thời đó, bà Ba chưa biết chữ và cũng không biết ông Ẩn sống ở đâu. Họ thực sự là một trong những nhóm tình báo kỳ lạ nhất và hiệu quả nhất trong lịch sử.
Hành trình đến Củ Chi, cách Sài Gòn khoảng ba chục cây số về phía tây bắc, là cực kỳ nguy hiểm bởi quân Mỹ ở đây rất dày đặc với nhiều trạm kiểm soát. Dưới mặt đất là hệ thống đường hầm hình mạng nhện nối các làng xã, quận huyện với nhau và kéo dài từ Sài Gòn tới tận biên giới Campuchia. Hệ thống địa đạo này ban đầu được lực lượng Việt Minh đào làm nơi trú ẩn trong các trận đánh với quân Pháp, đến giữa thập niên 1960, Củ Chi trở thành một hệ thống tự túc liên hoàn với đầy đủ các cơ sở như khu dân cư, nhà kho, xưởng vũ khí, bệnh xá và sở chỉ huy quân báo.
Tình báo Mỹ biết về sự tồn tại của hệ thống địa đạo này và quận Củ Chi trở thành một trong những nơi bị dội bom, rải hóa chất phát quang và bị tàn phá nặng nhất.(35) “Hầu như chẳng còn gì ở đấy. Vùng này bị rải hóa chất quá nhiều nên trông như vùng đất chết”, một nữ giao liên khác, bà Hà Thị Kiên (Tám Kiên), nhớ lại.(36) Hầu như toàn bộ cư dân Củ Chi từ lâu đã bị gom vào nơi gọi là ấp chiến lược, ngoại trừ một số thôn ở khu vực rừng Hố Bò, từ lâu được coi là “vùng giải phóng” và nằm dưới sự kiểm soát của Việt Cộng. Sau năm 1969, với việc quân Mỹ gia tăng nỗ lực tìm diệt các căn cứ Việt Cộng ở Củ Chi, ông Ẩn hiếm khi tới vùng địa đạo. Tới khu vực này là rất nguy hiểm bởi ông có thể bị bắt hoặc bị giết trong một cuộc tấn công của quân Mỹ.
Tại Củ Chi, người ta bôi dung dịch iốt lên tờ giấy gói để có thể dễ dàng đọc được các lời chỉ dẫn của Ẩn. Bên trong các mẩu nem cuốn còn có nhiều cuộn phim cũng như các chi tiết về cuộc hẹn kế tiếp - ngày, giờ, địa điểm, ông Ẩn luôn giữ quyền chủ động về vấn đề này. Phần quan trọng nhất trong báo cáo của Ẩn được chuyển tới Trung ương cục miền Nam bằng mật mã qua hệ thống liên lạc vô tuyến; các cuộn phim và bản tóm tắt báo cáo được một nhóm du kích Việt Cộng mang tới ban chỉ huy điệp báo vùng và cuối cùng được chuyển ra Hà Nội. “Nhiều người đã chết trên đường bảo vệ các báo cáo của tôi”, Ẩn nói với tôi. “Họ rất đũng cảm, và mãi sau chiến tranh tôi mới biết những điều đó”.
Lúc bấy giờ thì ông Ẩn chỉ có thể ngồi chờ tin tức về số phận của Bob Anson.
SAU VÀI TUẦN BỊ GIAM GIỮ, vào lúc nửa khuya một đêm nọ, một người thẫm vấn dựng Bob Anson dậy, thông báo rằng lời khai về việc anh là nhân viên của Time đã được kiểm chứng. Có thể mất một vài ngày nữa, nhưng anh sẽ được phóng thích sớm. Người thẩm vấn muốn biết tại sao Anson lại không khai hết mọi thứ khi bị hỏi cung. Anson không biết mình đã che giấu điều gì, nhưng trước khi kịp mở miệng, người thẩm vấn đã hỏi anh tại sao không nhắc tới chuyện xảy ra ở Takeo. “Theo truyền thống của Việt Nam, hễ ai đã cứu sống con em chúng tôi là chúng tôi mang một món ân nợ bằng máu. Mặt trận xin ghi tạc ơn ông. Ông sẽ được trả tự do… Ông là người của chúng tôi; một chiến sĩ cách mạng”. (37)
Bob Anson vô cùng vui mừng nhưng cũng hơi bối rối. Anh đã không nghĩ đến việc kể lại câu chuyện ở Takeo bởi có vẻ như nó chẳng liên quan tới nội dung lời khai của anh. Tuy nhiên, anh gác lại mọi thắc mắc để nghĩ đến ngày đoàn tụ với Diane và các con. Chín ngày sau, khi Anson rời nơi giam giữ, những người lính cách mạng tặng anh một đôi dép Hồ Chí Minh với đế làm từ lốp và quai làm bằng săm xe tải. “Chúng tôi xài toàn đồ xịn nhất. Hàng Mỹ đấy. Dày bốn lớp”, một người lính Việt Nam nói. (38)
Mười bảy năm sau, Bob Anson trở lại Việt Nam vì lý do cá nhân. Ông đến thăm ông Ẩn vào một đêm đã khuya, khi đó chủ nhà mặc quân phục với hàm đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam và đeo huân chương trên ngực ra đón ông. “Khi nào anh cũng mặc thế này à?” Anson há hốc miệng vì kinh ngạc, “Ừ, lúc nào cũng thế”, Ẩn cười. Sau này Ẩn kể với tôi rằng hôm đó Anson bị hơn chục nhân viên an ninh theo đuôi. “Cậu ấy không hề biết mình bị bám đuôi, nhưng hôm sau bên an ninh cho người sang. Tôi đã kể với họ câu chuyện ở Takeo, thế là họ để tôi yên”.
“Này, Christian và Sam khỏe không, Diane thế nào?”, ông Ẩn hỏi khi vừa gặp lại bạn cũ. “Mười bảy năm trôi qua nhưng ông vẫn không quên chi tiết nào”, Anson nghĩ. “Sau mười bảy năm, ông vẫn biết cách làm cho tôi dễ chịu. Kỹ năng ấy đã khiến ông trở thành một bậc thấy trong sự nghiệp của mình”. (39) Sau chín mươi phút trò chuyện thân mật, Anson cuối cùng đã hỏi làm sao những người bắt giữ mình ngày xưa có thể biết về câu chuyện Takeo. Lần đầu tiên, Ẩn thừa nhận với Anson rằng chính ông đã báo cáo với Mặt trận về trường hợp bắt giữ này cũng như mô tả chi tiết hành động anh hùng của Anson ở Takeo. Nhưng đêm hôm đó, ông chỉ nói với Anson một phần câu chuyện, rằng ngày trước một thành viên Mặt trận đã tới nhà riêng của ông ở Sài Gòn để xác minh về công việc của Anson ở tờ Time. Sau đây là một đoạn trích trong cuốn Tin chiến sự của Anson:
“Nhưng tại sao? Tôỉ và anh, chúng ta ở khác chiến tuyến mà”.
“Ẩn nhìn tôi ngẫm ngợi, dường như cảm thấy thất vọng khi sau bao lần ông giảng giải mà tôi đã không ngộ được bài học căn bản nhất. 'Không, chúng ta là bạn bè”.
Câu chuyện này còn có một đoạn cuối nữa. Năm 1988, ông Ẩn đã không được chuẩn bị để kể lại sự thật với Anson. Lúc bấy giờ vẫn còn quá nguy hiểm đối với ông nếu tiết lộ phương thức hoạt động của một điệp viên. Mười tám năm sau đó, ông Ẩn kể với tôi điều gì thực sự đã xảy ra. Không thành viên Mật trận nào từng đến nhà riêng của ông cả, bởi như vậy rất dễ làm lộ bí mật. Thêm vào đó, hầu như không ai trong Mặt trận biết được sứ mệnh bí mật của ông và Mặt trận cũng không vì một người Mỹ nào đó mà để mất Ẩn.
Bob Anson được phóng thích là nhờ bản báo cáo bí mật về vụ Takeo được Ẩn viết rồi gửi qua bà Nguyễn Thị Ba cùng một giao liên khác tới Củ Chi. Đơn giản chỉ có thế. Anson sống sót là nhờ vào một vận may, khi ngay lúc ấy ông Ẩn đã có cuộc hẹn gặp với bà Ba, là nhờ anh đã kết bạn với Ẩn, và nhờ vào hành động dũng cảm của chính anh khi cứu các trẻ em Việt Nam ở Takeo cũng như sự hiệu quả của lưới tình báo H.63. “Cậu ấy không có nhiệm vụ phải cứu bọn trẻ, nhưng cậu ấy đã làm thế”, Ẩn chia sẻ với tôi. “Và sau đó cậu ấy còn giữ liên lạc với các nạn nhân, để biết rằng họ được an toàn, được chăm sóc tốt. Cậu ấy là người tốt, và cũng là người may mắn”.
CHÚ THÍCH
(1) Tài liệu về sau cho thấy “tọa độ mất tích” ở Campuchia là 12°04'00” Bắc 105°04'00” Đông. Tôi xin cảm ơn Robert Sam Anson và Phạm Xuân Ẩn đã giúp xâu chuỗi các sự kiện.
(2) http://www.pownetwork.Org/bios/s/s602.htm. Xem Richard Dudman, Forty Days with the Enemy: The Story of a Journalist Held Captive by Guerrillas in Cambodia (New York: Nhà xuất bản Liveright Press, 1971); Kurt Volkert và T. JeffWilliams, A Cambodian Odyssey and The Deaths of 25 Journalists (Lincoln, NE: Nhà xuất bản Writer's Showcase Press, 2001). http://www.mekong.net/cambodia/missing.htm.
(3) Robert Sam Anson, War News: A Young Reporter in Indochina (New York: Nhà xuất bản Random House, 1989), trang 27. Chương này lấy tư liệu từ câu chuyện kể của Anson trong cuốn War News (Tin chiến sự) cũng như từ các cuộc trao đổi với ông Ẩn và Anson.
(4) Sách đã dẫn, trang 15.
(5) William Tuohy, Dangerous Company (New York: Nhà xuất bản Morrow, 1987), trang 117.
(6) Larry Berman, Lyndon Johnson's War: The Road to Stalemate in Vietnam (New York: Nhà xuất bản W. W. Norton, 1989), trang 194-197.
(7) Xem Larry Berman, No Peace, No Honor: Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam (New York: Nhà xuất bản Free Press, 2001), trang 49-50.
(8) War News, trang 38-40.
(9) War News, trang 70.
(10) War News, trang 64; phỏng vấn riêng với Anson.
(11) War News, trang 64.
(12) Jason Felch & Marlena Telvick, “Unsung Hero”, tạp chi American journalism Review, tháng 6 và 7.2004. http://www.ajr.org/Article.asp?id=3699; xem thêm http://www.muckraker.org/ content/ néws_events/ McCullochBio.pdf#search='Frank%20 McCulloch'; Wallace Terry, “Time's Frank McCulloch: In the Eye of the Hurricane”, http://www.wa.org/TheVeteran/2002_ll/mcculloch.htm.
(13) Được trích dẫn trong David Halberstam, The Powers That Be (New York: Nhà xuất bản Knopf, 1979), trang 472.
(14) Sách đã dẫn; trang 475
(15) Khi McCulloch rời Việt Nam vào cuối năm 1967, chánh văn phòng của Time, chính là ông Đăng từng có thời gian khắt khe với Anson, đã gửi một lá thư cho Frank: “Tôi xin nhấn mạnh với ông rằng ông luôn chiếm được sự ngưỡng mộ, mến phục, kính trọng và biết ơn của chúng tôi. Lúc này đây tôi không biết nói gì hơn ngoài lời cảm ơn chân thành nhất đối với ông, người đáng kính phục nhất mà chúng tôi từng gặp trong đời. Một lần nữa, tôi mãi mãi ủng hộ ông”. Ngày 13.12.1967, trang 96-39, Hộc 6, Thư từ báo chí, Tài liệu của McCulloch.
(16) Trích từ Sydney Schanberg, http://www.crimesofwar.org/thebook/cambodia.html
(17) Sách đã dẫn; xem thêm Henry Kamm, Dragon Ascending: Vietnam and the Vietnamese (New York: Nhà xuất bản Arcade Publishing, 1996), trang 121-122.
(18) War News, trang 138, 164; Xem Robert Sam Anson, “Apocalypse Then”, tạp chi Washington Monthly, 1.10.1989.
(19) War News, trang 138.
(20) Xem T. D. Allman, “Massacre at Takeo”(Cambodia: 4.1970), trong tài liệu Reporting Vietnam, tập 2, tạp chi American Journalism 1969-1975 (New York: Nhà xuất bản Library of America, 1998), trang 129.
(21) War News, trang 140.
(22) War News, trang 141; phỏng vấn Bernard Kalb.
(23) Cambodian odyssey, trang 46-47.
(24) Sách đã dẫn.
(25) War News, trang 233, 242.
(26) War News, trang 249.
(27) “Các bài học về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Đinh Tiên Hoàng, Trần Hưng Đạo, Ngô Quyền, hoặc Lê Lợi, Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Quang Trung, hoặc Hoàng Hoa Thám, Phan Đình Phùng, Nguyèn Thái Học”. Bà nhắc tới các bài hát khơi gợi và ca ngợi lòng ái quốc như “Bông cỏ lau”, “Thăng Long thành”, “Du kích quân”, “Kim Đồng”, “Diệt phát xít”; bài vè “Đi quyên góp vàng ; thơ Nguyễn Trãi - Phi Khanh”, “Ngày tang Yên Bái”.
(28) Phỏng vấn bà Thu Nhàn.
(29) Lúc nhận danh hiệu này, bà Ba là Đại úy tình báo. Bà người làng Hậu Thạnh, quận Đức Hòa, tỉnh Long Ẩn. Bà gia nhập lực lượng vũ trang năm 1961 và được thăng lên cấp Thiếu tá vào năm 1993, cấp bậc cao nhất của bà. Bà vào Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1936.
(30) Phỏng vấn bà Nguyễn Thị Ba.
(31) Từ điển Bách khoa Quân sự Việt Nam, do Trung tâm Từ điển Bách khoa Quân sự (thuộc Bộ Quốc phòng Việt Nam) biên soạn; chủ biên: Trung tuớng Trần Độ (Hà Nội: Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, 1996), trang 567.
(32) Tình báo Việt Nam và những câu chuyện lạ. Báo Quân đội Nhân dân, 22.10.2004. http://www.quandoinhandan.org.vn./news.php?id_new=52089&subject=2. Đây là bản điện tử của báo Quân đội Nhân dân. Xem thêm Chương 29, “Ba, A Heroine”, (Bà Ba anh hùng) trong sách A General of the Secret Service.
(33) Phỏng vấn ông Ẩn và Tư Cang.
(34) Ghi chú về các cuộc phỏng vấn, 15.4.1972, tạp chí New Yorker, Hộc 1-2, Tài liệu của Shaplen. Chi tiết này cũng đã được đăng trên tạp chí.
(35) Xem Tom Mangold và John Penycate, The Tunnels of Cu Chi (Cavaye Place, Nhà xuất bản London sw. Pann Press, 1985). Xuất bản lần đầu bởi Nhà xuất bản Hodder và Stoughton, Ltd.
(36) Phỏng vấn bà Hà Thị Kiên.
(37) War News, trang 263.
(38) War News, trang 270.
(39) War News, trang 311.