Người của ngày xưa

     ôi và Nghĩa là đôi bạn vong niên, hắn kém tôi những 14 tuổi, lại vì hai gia đình quen biết nhau đã trên nửa thế kỷ nên còn coi nhau như anh em. Bắt đầu từ tình bạn giữa hai bà cụ, họ đều là con nhang đệ tử của đền Yên Thái, gần chợ Hàng Da bây giờ. Bà ngoại tôi năm đó đã ngoài bảy mươi, còn bà nội của Nghĩa mới sáu chục, tôi thì mười hai. Dầu là hơn cả chục tuổi nhưng bà tôi không dám xem mình là nền chị vì địa vị xã hội của họ khác nhau. Bà nội Nghĩa là vợ một ông tuần phủ, là cụ lớn, còn bà ngoại tôi chỉ là mẹ vợ một ông tri huyện, lại là vợ lẽ nên cũng chẳng danh giá gì nhiều. Người ở địa vị thấp thường hay tự ái nên thích khoe mẽ, thích làm ra vẻ từ ăn mặc trang điểm đến cung cách cư xử nói năng. Nhìn bên ngoài thì bà tôi như vợ ông thượng thư, còn bà nội Nghĩa như vợ ông chánh tổng. Bà không được đẹp, ăn mặc xuềnh xoàng, tên gọi cũng không sang, tên là Mặm, cụ tuần Mặm. Nhưng đã ngồi trò chuyện giữa đám đông bà luôn luôn được mọi người chú ý vì cách ăn nói tự nhiên và nhũn nhặn, lại rất hay pha trò. Bà không hề cười nhưng người nghe thì cười nghiêng ngả, phun cả nước cốt trầu vào áo nhau. Sau này tôi được nghe mẹ tôi kể, bà Mặm còn một người chị ruột tên là Mắm, mẹ mất sớm, ở với bố là canh điền, chuyên đi làm thuê cho các nhà giàu ven sông Nhuệ. Những tháng nông nhàn, cả ba bố con lại đi riu tép, chăn vịt, đan rổ rá và làm miến dong là nghề của làng. Năm mười sáu tuổi cô Mặm theo cô ruột là người nấu cơm cho một ông án để giúp việc vặt trong dinh. Ông án năm ấy còn trẻ, chưa tới bốn mươi, cũng có ý gạ gẫm cô bé, ngoài hầu thuốc hầu trà còn muốn hầu thêm cả việc chăn gối. Nhưng cô cự tuyệt và lời nói của cô không rõ là hư hay thực nhưng giới mệnh phụ đều biết cả: “Chúng con tuy nghèo nhưng là con nhà thi lễ chứ không phải phường mèo mả gà đồng, xin cụ lớn xá lỗi cho”. Một năm sau ông án cưới cô làm thiếp, có trầu cau đưa về trình làng hẳn hoi. Năm mười tám tuổi cô sinh người con trai đầu, cũng là người con duy nhất, là bố của anh em Nhân và Nghĩa thì bà chánh thất bị bệnh thương hàn mất. Cô Mặm thành vợ chánh mặc dầu còn hai bà thứ thất. Các con của mấy bà đều gọi bà kế thất là dì, về sau gọi là mẹ vì cái đại gia đình ấy từ ngày ông tuần nghỉ hưu đều trông cậy vào một tay bà chèo chống. Bà Mặm lấy chồng được năm năm mới đưa chồng về làng nhận họ, người chồng lúc này đã là tuần phủ của chính tỉnh nhà. Bà bảo xe hơi đỗ ngoài đường cái cùng chồng đi bộ về làng, thẻ ngà của chồng phải nhét phía trong vạt áo sa, là rể làng chứ không phải quan trên về kinh lý. Lại gặp lúc các cụ kỳ mục đang họp bàn việc làng ở đình, bà đưa chồng ra chào. Các cụ mời ngồi, bà ngăn lại, bảo: “Ông nhà tôi chỉ là rể làng thôi, rể làng chưa khao vọng gì thì không có chỗ ngồi ở đình, là tục lệ từ xưa, xin các cụ chớ bỏ”. Vợ chồng bà thắp hương rồi cúng một món tiền lớn để làng xây lại hai dãy nhà Tả Mạc và Hữu Mạc. Cách cư xử của bà không làm ai ngạc nhiên cả vì nhà bà tuy nghèo nhưng gia giáo rất nghiêm, con cái đi đâu, làm gì đều phải thưa trình. Bữa cơm đặt trên mẹt, trải chiếu ngồi đất nhưng ông bố xếp chân bằng tròn ngồi giữa, hai con gái ngồi gập gối hai bên hầu rượu, xới cơm. Bố ăn xong các con mới được ăn. Một đời ông bố mặc quần áo vá, sau này có con rể làm tuần phủ ông vẫn đóng khố chăn vịt, chỉ nhận quà của các con vào những ngày giỗ tết, không bao giờ nhận tiền. Ông vẫn nói: “Chúng tôi tuy nghèo nhưng không hèn”. Hai người con gái đều đọc được truyện Kiều bản chữ Nôm do bố dạy. Sau này khi ông tuần đã già, trí nhớ kém, nói năng thiếu gãy gọn, nhiều việc phải nhờ vợ trực tiếp sang nói với bên tòa sứ, vì bà Mặm nói tiếng Pháp cũng thạo, đúng giọng và đúng mẹo, chỉ phải tội không nhận được mặt chữ vì bà học truyền khẩu. Cũng trong thời gian chồng bà làm tuần phủ tỉnh H. mới nảy sinh ra mấy ông chánh tổng, lý trưởng mà cái đức của họ còn lưu danh đến tận bây giờ. Mới có lắm chuyện kỳ khôi, quan trên về làng, lý trưởng người thì nhảy xuống ao, người thì đắp chiếu giả bộ ốm vì họ chỉ có một manh khố trên người, bộ quần áo làm việc quan họ phải mượn hoặc vừa giặt chưa khô. Những người ấy đều do bà Mặm tuyển chọn cả nhưng không có một ai là anh em hoặc thân thuộc. Nghe chuyện bà Mặm tôi mới thật tin những người đàn bà tài giỏi trong sử sách nước Nam ta là có thật chứ không phải chuyện thêu dệt của các đời sau.

2.

Những người con của bà vợ trước của ông tuần đều do bà Mặm nuôi ăn học và dựng vợ gả chồng. Có hai người học ở Pháp rồi ở lại và lấy vợ đầm. Còn ba người học trong nước, có người đỗ tri huyện, có người làm chủ báo và một cô con gái được về làm dâu một ông thượng thư. Riêng người con trai bà lại theo học trường Canh Nông vì ông thích nghề nông. Quê ngoại gần Hà Nội nên tuần nào ông cũng về làng thăm ông ngoại và dì ruột. Rồi ông yêu một cô gái làng, bố là giáo học có dính líu vào cuộc khởi nghĩa của binh lính ở Thái Nguyên do các ông Đội Cấn và Lương Ngọc Quyến cầm đầu, phải đi tù hai năm rồi được tha về. Nhà có hai cha con chỉ trông cậy vào gánh hàng xén của cô con gái. Ông ngoại thấy cháu năng đi lại cũng biết ý. Cụ không ngăn nhưng vẫn e ngại con một ông quan đầu tỉnh lại lấy vợ là con chính trị phạm chả biết có rắc rối gì với nhà nước bảo hộ không? Nhưng bà Mặm bằng lòng ngay, bà còn khuyến khích nữa, bà bảo: “Con gái làng mẹ đều hiền thục, đảm đang. Nếu cô ta không chê là phúc cho mày”. Khi bà về làng ngỏ lời với bố cô gái, ông đỏ mặt từ chối: “Chúng tôi phúc phận nhỏ không dám với cao làm thông gia với cụ lớn”. Bà Mặm vừa cười vừa bảo: “Thưa cụ, cụ nói thế là coi rẻ gái làng ta quá. Xưa kia có bà chỉ mò cua bắt ốc mà lấy được vua. Như tôi đã xấu người lại vụng dại còn lấy được ông tuần phủ. Cô em nhà vừa được người vừa được nết chỉ vớ được một thằng kỹ sư quèn cũng là cái số không may”. Ông giáo bật phì cười rồi vui vẻ nhận lời.
Bà Mặm tuy là vợ chánh một ông tuần phủ nhưng không mấy khi bà ở dinh cụ tuần để hưởng cái vinh dự được thuộc hạ bẩm báo, kính trình cụ lớn. Bà thường ở quê chồng là đất trồng thuốc lào, mua ruộng, học nghề trồng tỉa vò ủ thuốc lào, lại biết canh cải thêm tí chút nên thuốc lào của cụ tuần Mặm nổi tiếng êm ngon một thời, các lái về mua phải chở bằng thuyền, tiền lãi bán thuốc đủ chi dùng cho việc quan của chồng và ăn tiêu của một đại gia đình hết sức đông đảo. Nhưng bà không bao giờ dám đưa tiền biếu bố đẻ và chị ruột. Họ nghèo nên rất khí khái, vả lại cái nghèo lúc này còn là niềm kiêu hãnh, đời nào ông lão chịu bỏ. Chung quy chỉ có ông tuần là sướng, sướng từ trẻ đến già, tuy vẫn canh cánh một nỗi lo: đông con trai mà trời chỉ cho có một thằng cháu trai nối dõi, là anh Nhân bây giờ vì năm ông tuần mất Nghĩa vẫn chưa sinh. Anh Nhân tham gia Việt Minh từ năm còn học trường Bưởi, được kết nạp vào Đảng Cộng sản trước ngày Tổng khởi nghĩa mấy tháng, là đại đội trưởng của trung đoàn Thủ đô ngày đầu kháng chiến, là chính ủy một trung đoàn pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ lúc kết thúc chiến tranh. Năm ấy anh mới 29 tuổi, đã có vợ là cán bộ phụ nữ huyện Đoan Hùng và có một đứa con trai. Đầu năm 55, Nhân mới đưa được vợ con về quê để trình với bà nội và mẹ, ra mộ thắp hương cho bố đã bị Pháp giết trong trận càn. Cô cháu dâu tâm sự với bà nội chồng: “Chúng cháu lấy nhau trong kháng chiến, bây giờ hòa bình rồi, các cô gái ở thành phố cô nào cũng đẹp, chả biết anh ấy còn thương yêu mẹ con cháu như xưa không?” Bà lão cười chảy cả nước mắt, nắm tay cháu dâu mà bảo: “Đàn ông nhà này như cái ngọn, đàn bà nhà này như cái gốc. Có bao giờ ngọn bỏ được gốc mà con lo”. Trong mấy năm phát động giảm tô và cải cách ruộng đất, ai cũng nghĩ bà cụ tuổi đã cao lại phải lo nghĩ buồn phiền nhiều sẽ khó thọ. Nhưng bà lão vẫn vui, vẫn thích nói đùa, vì bà cụ có lý lẽ riêng, có sự từng trải riêng. Cụ bảo: “Tôi nghiệm ra cứ dăm ba chục năm hay năm bảy chục năm lại có một lần thay đổi thời thế để chia lại của cải và danh vị trong thiên hạ, để có dịp ơn đền oán trả cho thuận với cái lẽ chuyển vận bù trừ của trời đất. Tôi ngày nhỏ ở với bố chỉ có cái váy đụp, bây giờ về già sống với con cháu lại được mặc cái quần lành tức là phúc đức nhiều rồi”. Năm cụ Mặm 79 tuổi trước ngày mất chừng vài tháng, nhân có giỗ ông tuần, con cháu về đông đủ, bà cụ nhờ vợ Nhân nhai giập miếng trầu rồi nhón lấy miếng trầu đã nhừ nhuyễn, thật tươi thật đỏ cho vào mồm ngậm, căn dặn con cháu:
- Cái họ nội nhà này giống thì tốt nhưng phúc đức đã cạn kiệt. Mấy chục đời đều có người làm quan, oán nhiều ơn ít, lấy đâu ra phúc. Được cái các nàng dâu đều là con nhà thanh bạch, phúc đức rất dầy nên giống tốt mới đơm hoa kết quả cho tới tận bây giờ!!!15779_6.htm!!! Đã xem 10783 lần.

Đánh máy: kuzor
Nguồn: Tve-4u.org
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 10 tháng 12 năm 2015