Chương 7
Gavroche

Từ năm 1823, gia đình Thénardier thêm ba đứa con trai. Thế là quá nhiều: giờ đây cả thảy hai gái ba trai, trong đó có Gavroche.
Mụ Thénardier giũ được hai đứa con trai út nhỏ xíu và mới tí tuổi đầu một cách sung sướng không ngờ.
Giũ được là một cách nói thôi. Mụ đem để chúng ở nhà mụ Magnon giả làm hai đứa con của mụ này đã bị chết trong trận dịch hạch. Bằng cách này mụ Magnon vẫn nhận được món trợ cấp nhỏ mà lão Gillenormand, chủ cũ của mụ, chu cấp.
Sau đó vài năm và trước lúc Eponine nhận được mẩu giấy liên quan đến căn nhà phố Plumet, trong một cuộc vây ráp cảnh sát đã bắt mụ Magnon và bạn gái của mụ là "Cô Miss". Hai đứa trẻ, đang chơi trong sân sau,.khi muốn vào nhà thì thấy cửa đóng. Một người hàng xóm đưa cho chúng một mảnh giấy và nói: - Chúng mày hãy đến địa chỉ này, từ nay không ở đây nữa.
Dọc đường hai đứa trẻ đánh mất mảnh giấy quý báu và thế là chúng lang thang ngoài phố.
Mùa xuân ở Paris hay có những cơn gió bấc lạnh buốt làm cho người ta không những tái tê mà cóng người lại. Những cơn gió bấc này khiến những ngày đẹp nhất cũng đâm buồn chẳng khác gì một gian phòng ấm áp bị những luồng gió lạnh ngắt luồn vào qua khe cửa sổ hoặc qua khe cửa ra vào đóng không chặt.
Hầu như cánh cửa u ám của mùa đông khép không kín nên từ đó gió mới lùa vào.
Vào mùa xuân năm 1832, mùa xảy ra trận dịch lớn nhất thế kỷ ở châu OEu, những cơn gió bấc này càng lạnh ngơ lạnh ngắt hơn bao giờ hết.
Đó là cánh cửa khép hờ của nơi còn rét buốt hơn cả mùa đông tháng giá: cánh cửa của nấm mồ. Người ta cảm thấy trong những cơn gió bấc này luồng gió của dịch tả.
Về mặt khí tượng mà nói thì những cơn gió lạnh này rất đặc biệt vì trong đó như có điện áp mạnh. Thời kỳ này bão luôn xảy ra kèm theo sấm chớp ầm ầm.
Một buổi tối gió rét căm căm, đến mức tưởng như tháng giêng lại trở lại, dân tư sản lại phải đem măng tô ra khoác, chú bé Gavroche, lúc nào cũng run lập cập một cách vui nhộn dưới mớ quần áo rách tả rách tơi, đứng ngây ngất trước tủ kính một cửa hàng cắt tóc ở vùng phụ cận Orme - Saint - Gervais, cổ quàng chiếc khăn san phụ nữ nhặt ở đâu không biết. Chú có vẻ đang ngắm nghía một cách say mê cô dâu bằng sáp, mặc áo hở vai, đầu đội vòng hoa cam đang quay giữa hai ngọn đèn trong tủ kính và mỉm cười với mọi người qua lại, nhưng thực ra chú đang quan sát cửa hàng xem liệu có "thó" được gì trong tủ kính bày hàng không, một bánh xà phòng chẳng hạn, để rồi đem bán cho bác "thợ cắt tóc" ở ngoại ô lấy một xu. Thường chú ăn bữa sáng từ một trong những chiếc bánh này. Chú gọi loại công việc mà chú rất thiện nghệ này là "sửa râu các lão thợ cạo".
Vừa ngắm cô dâu vừa tăm bánh xà phòng, chú lẩm bẩm giữa hai hàm răng: - Thứ ba. Không phải thứ ba rồi. Có phải thứ ba không? Có lẽ thứ ba. Đúng rồi. Thứ ba..Người ta không bao giờ biết cuộc độc thoại này liên quan đến cái gì.
Nếu vô tình mà nó liên quan đến lần cuối cùng chú ăn bữa tối thì cách đây đã ba ngày. Lão thợ cạo trong cửa hiệu có cái lò sưởi rất ấm đang cạo râu cho một khách hàng, thỉnh thoảng lại ném một cái nhìn vào tên kẻ thù tức là thằng nhóc trâng tráo đang rét cóng, hai tay thủ túi nhưng rõ ràng là đầu óc không để vào cái áo dài bó sát người kia một chút nào.
Trong khi Gavroche đang ngắm nghía cô dâu, tủ kính bày hàng và những bánh xà phòng thì có hai đứa bé, một đứa lớn hơn đứa kia, ăn mặc khá sạch sẽ, đều nhỏ tuổi hơn chú, vẻ như một đứa lên bảy một đứa lên năm, mở quả đấm cửa hàng vào nói cái gì đó, có lẽ là xin bố thí chăng, giọng thì thầm than vãn giống như một tiếng rên hơn là một tiếng cầu xin. Cả hai đứa nói cùng một lúc, chúng nói gì không ai hiểu được vì những tiếng nức nở luôn ngắt giọng thằng bé và cái rét làm răng thằng lớn va vào nhau lập cập. Lão thợ cạo quay lại, mặt sát khí bừng bừng và vẫn không rời lưỡi dao cạo, tay trái đẩy thằng lớn ra, đầu gối thì huých vào thằng bé, tống chúng ra khỏi cửa, vừa đóng cửa lại vừa nói: - Vào làm người ta lạnh thêm chẳng được ích gì! Hai đứa trẻ lại tiếp tục đi, vừa đi vừa khóc.
Trong lúc đó một đám mây dày đặc bay đến, trời trở mưa.
Chú bé Gavroche chạy theo hai đứa, bắt chuyện: - Có chuyện gì thế, hai chú mày? - Chúng cháu không biết ngủ ở đâu. - Đứa lớn trả lời.
- Tưởng gì? - Gavroche bảo. - Có thế thôi à? Có thế mà cũng khóc. Chúng mày là bọn ngốc ư? Rồi với bẻ bề trên nhạo báng, chú lấy giọng quyền uy đến mủi lòng và giọng che chở bảo hai đứa trẻ: - Đi theo tao.
- Thưa ông vâng. - Thằng lớn đáp.
Thế là hai đứa trẻ đi theo Gavroche như đi theo một vị tổng giám mục. Chúng thôi không khóc nữa.
Gavroche đưa chúng lên phố Saint - Antoine về phía ngục Bastille..Khi đi qua một lưới mắt cáo dày bằng sắt chứng tỏ đây là hiệu bánh mì bởi vì người ta đặt bánh mì đằng sau nó như đặt vàng sau lưới sắt, Gavroche quay lại: - Bọn bé này, các chú mình đã ăn cơm chưa nhỉ? - Thưa ông, - Thằng lớn đáp. - từ sớm nay chúng cháu chưa ăn gì ạ.
- Thế các chú mình không cha không mẹ ư? - Gavroche nghiêm trang nói.
- Thưa ông, xin ông tha lỗi, chúng cháu có ba mẹ nhưng chúng cháu không biết ba mẹ ở đâu.
- Nhiều khi thế mà lại hay hơn là biết cơ đấy. - Vốn là một nhà tư tưởng, Gavroche nói.
Thằng lớn nói tiếp: - Chúng cháu đi lang thang đã hai tiếng đồng hồ, tìm xem có gì ở góc các cột mốc không nhưng chẳng thấy gì cả.
- Tao biết rồi. - Gavroche nói. - Chó ăn hết rồi.
Tuy nhiên chú dừng lại, và từ vài phút nay chú lục lọi hết các ngóc ngách của mớ giẻ rách mặc trên người.
Cuối cùng chú ngẩng đầu lên với một vẻ tuy chỉ muốn tỏ ra mãn nguyện thôi nhưng thực tế hóa thành chiến thắng: - Các ông nhãi ơi, yên trí rồi. Có thứ chén cho cả ba đây rồi.
Và chú lôi từ một cái túi ra một đồng xu.
Không đợi cho hai đứa trẻ có thời giờ sửng sốt, chú đẩy hai đứa lên trước vào trong cửa hàng bánh mì, đặt đồng xu của mình lên quầy, la lên: - ông bán hàng đâu, cho năm xu bánh mì đây! Người làm bánh, cũng chính là ông chủ cửa hàng, lấy ra một chiếc bánh mì với một con dao.
- Cắt làm ba, ông bán hàng! - Gavroche nói tiếp và thêm vào một cách oai nghiêm: -Bọn này ba.
Thấy ông bán bánh sau khi ngắm nghía ba khách ăn tối lấy ra loại bánh mì nâu, chú thọc sâu ngón tay vào lỗ mũi hít mạnh một cách hống hách chẳng khác gì đầu ngón tay cái của chú là nhúm thuốc lá của Fréderic vĩ đại, ném vào mặt ông hàng bánh câu hô ngữ giận dữ sau đây: - Đolacaigi?.- Đó là bánh mì chứ còn cái gì nữa, bánh mì ngon loại hai đấy.
- ông muốn nói bánh mì đen chứ gì? -Gavroche lạnh nhạt và khinh khỉnh nói tiếp. -Bánh mì trắng, hiểu không, ông bán hàng! Bánh mì trắng! Hôm nay tôi đãi khách cơ mà! ông bán bánh không ngăn nổi một nụ cười, vừa cắt bánh mì trắng ông vừa nhìn Gavroche một cách thương hại khiến Gavroche bị chạm nọc.
- ái chà, cái ông thợ phụ lò bánh này, làm gì mà ông nhìn chúng tôi từ đầu đến chân như muốn đo xem chúng tôi cao bao nhiêu thế hả? Cả ba đứa bé chồng lên nhau chưa đủ được hai mét.
Bánh cắt xong ông bán bánh thu đồng xu, Gavroche bảo hai đứa trẻ: - Nhẵn đi! Hai đứa bé trai nhìn Gavroche sững sờ.
Gavroche bèn cười: - à phải, đúng đấy, chúng còn bé quá hiểu sao được! Và chú nói: - †n đi! Đồng thời chú đưa cho mỗi đứa một mẩu bánh.
Nghĩ rằng đứa lớn đáng để chú chuyện trò hơn do đó cũng đáng được động viên đặc biệt hơn cho nên phải được xua tan mọi ngần ngại mà ăn cho thỏa cái bụng đói, chú nói thêm với đứa lớn trong khi đưa nó phần to nhất: - Tọng vào họng súng đi! Có một phần nhỏ nhất, chú giữ lại cho mình.
Mấy đứa trẻ khốn khổ đói quá, kể cả Gavro-che.
Nhồm nhoàm ngoạm bánh, chúng làm trở ngại cửa hàng bánh mì, cho nên bây giờ khi chúng đã trả tiền xong, ông hàng bánh nhìn chúng có vẻ bực bội.
- Ta ra ngoài phố. - Gavroche nói.
Chúng nhằm hướng ngục Bastille mà đi.
Vừa ăn xong miếng bánh và đến góc con phố Ballets rầu rĩ, cuối phố có cái cửa con thấp đầy thù nghịch của sức mạnh thì có tiếng ai nói: - Này, mày đấy hả Gavroche? - Mày à, Montparnasse? - Gavroche nói.
Montparnasse và Gavroche kể cho nhau nghe những chuyện lặt vặt: tin tức nhà tù, một thằng cướp đã xổng tên là Babet, biện pháp ẩn thân ở.đất Paris khi người ta không nhà không cửa...
Qua đó Montparnasse biết Gavroche hiện nay đang ngụ trong bụng một con voi cao một mét hai, được xây dựng bằng "xương người và phấn xây" chắc thuộc một tổng thể tượng đài theo sáng kiến của Napoléon.
Gavroche dẫn hai đứa trẻ mà chú che chở tới đó, chú bắt đầu giáo dục hai đứa bằng cách dạy chúng những tiếng lóng.
Một buổi sáng Montparnasse đến tìm Gavro-che trong căn nhà kỳ quặc của chú và bảo: - Bọn tao đang cần mày đây. Đến giúp chúng tao một tay.
Thế là chú bé theo chúng, không hỏi nửa lời xem là chuyện gì.
Hóa ra chuyện giúp Brujon, Guenlemer và Thénardier đang thử vượt ngục.
Thénardier đã trốn ra khỏi xà lim nhưng đoạn dây thừng dùng để xuống phố quá ngắn.
Gravoche theo ống máng leo lên, đưa được cho Thénardier đoạn dây bị thiếu.
Vừa xuống đến đất tên chủ quán cũ hỏi ngay liệu có nên chơi một cú mới không, nghe nói có cái nhà ở phố Plumet chỉ có hai người đàn bà ở, khiến cả băng đã chú ý, chỉ riêng Eponine bảo là chỗ đó chẳng bõ bèn gì mà làm.
Gavroche bỏ bọn tù vượt ngục đấy quay về chỗ con voi, nơi hai đứa trẻ chú che chở vẫn đang ngủ ngon lành.
- Mày có nhìn cái thằng nhóc đó không thế? - Montparnasse hỏi Thénardier.
Không nhìn kỹ lắm.
- Này, tao không biết chắc lắm nhưng hình như nó là con trai mày hay sao ấy.
- Thế à, - Thénardier nói. - mày cho là thế à? Cosette và Marius tiếp tục gặp nhau mỗi buổi tối trong mảnh vườn nơi phố cổ Plumet mà Jean Valjean chẳng nghi ngờ mảy may.
Hai lần liền trong khi đi tới nơi hẹn hò Marius gặp Eponine.
Cô đi theo, ghi nhận chàng vào vườn.
Một đêm mấy tên cướp Brujon, Babet, Claquesous, Gueulemer, Montparnasse và Thénardier quyết định sẽ cướp ngôi nhà ở phố Plumet. Chúng đang chuẩn bị vượt rào sắt thì Eponine hiện ra chặn lại. Cô dọa sẽ kêu lên, gọi cảnh sát làm bọn chúng phải bỏ đi không thực hiện được cú làm ăn bẩn thỉu đó.
Trong khi cô con gái của Thénardier canh giữ hàng rào sắt thì Marius ở bên Cosette.
Chàng thấy nàng vừa mới khóc xong, nàng báo tin cho chàng biết nàng sắp đi Anh quốc.
Marius để lại địa chỉ cho Cosette khắc vào tường.
Marius nghèo, chàng không thể đi theo cô thiếu nữ được. Chính vào lúc đó chàng nghĩ đến ông chàng, lão Gillenormand, lúc này đã hơn chín mươi tuổi.
Chàng đến ông chàng, người mà thực ra trong bụng rất yêu chàng, xin phép ông được lấy vợ.
Thế là xảy ra một sự hiểu nhầm sâu sắc không sao tiêu tan được. Marius bỏ đi để không bao giờ trở lại nữa.
Mặt khác, tình hình chính trị ngày càng xấu đi và người ta đã bắt đầu nghe thấy những tiếng động khác lạ trong thành phố Paris giống như tiếng súng và tiếng la ó của quần chúng.
Cuộc nổi dậy sắp sửa chiếm lĩnh phố xá.
Vào đúng ngày hôm đó, khoảng bốn giờ chiều, Jean Valjean ngồi một mình bên bờ đoạn đất dốc trơ trụi nhất của thao trường Champ -de - Mars. Có thể vì cẩn thận, cũ!!!1802_6.htm!!! Đã xem 47234 lần.


Nguồn: NXB Kim Đồng
Được bạn: Thành Viên VNthuquan đưa lên
vào ngày: 27 tháng 12 năm 2003