Chương 30

Cơ hội thành công là rất hạn chế. Gunther Hartog đã nói với Tracy - nó đòi hỏi một tài năng lớn lao.
Đó là một khẳng định sai lầm, nàng nghĩ.
Tracy đang đứng bên cửa sổ càn phòng khách sạn nhìn xuống mái bảo tàng Prado, nhớ lại những gì nàng đã biết. Nó được mở cửa cho khách từ 10 giờ đến giờ, trong thời gian đó, hệ thống báo động ngừng hoạt động, nhưng mỗi cửa phòng tranh đều có người gác.
Ngay cả khi gỡ được bức tranh xuống khỏi tường Tracy nghĩ - càng không có cách nào mang thoát ra. Tất cả đồ xách tay đều bị khám xét ở các cửa ra vào.
Nàng quan sát mái nhà và cân nhắc về một vụ đột nhập ban đêm. Có vài trở ngại:
thứ nhất là khả năng bị lộ rất cao. Tracy đã thấy các ngọn đèn chiếu bật sáng về ban đêm; các mái nhà rực sáng đến mức có thể nhìn thấy nó từ xa hàng mấy dặm. Cho dù có thể lọt vào nhà êm thấm, thì lại còn vấp phải hệ thống báo động hồng ngoại và những người gác đêm.
Bảo tàng Prado dường như là bất khả xâm phạm.
Jeff đang tính toán gì đây? Tracy tin rằng anh ta cũng muốn đoạt bức họa của Goya kia. Giá mà biết được cái đầu xảo quyệt của anh ta đang mưu tính chi thì mất gì mình cũng chịu, Tracy nghĩ. Nàng chỉ biết quyết tâm:
không để anh ta đạt tới cái đích đó trước nàng. Nàng phải tìm ra một giải pháp.
Sáng hôm sau, Tracy trở lại bảo tàng Prado.
Không có gì thay đổi, trừ những khuôn mặt của du khách. Tracy cẩn thận để ý tìm Jeff nhưng không thấy.
Tracy nghĩ, hẳn là anh ta đã nghĩ ra cách đánh cắp bức tranh.” Đồ khốn kiếp.
Tất cả sự quyến rũ mà anh ta thể hiện chỉ cất làm cho mình bị phân tán, và ngăn không để mình lấy trước được bức tranh mà thôi.
Tracy tiến lại bức Puerto một lần nữa, và đảo mắt nhìn các bức tranh khác gần đấy. Những người gác vẫn đầy vẻ cảnh giác các họa sĩ nghiệp dư ngồi trên các ghế đẩu trước giá vé của họ, đậm đông đi vào rồi đi ra liên tục, và đột nhiên tim nàng bắt đầu đập nhanh hơn lên.
Mình biết cách phải làm rồi nàng thầm reo trong lòng.
Nàng gọi Gunther gọi từ một buồng điện thoại công cộng trên phố Gran Via và Daniel Cooper - đang dời nhìn từ cửa ra vào của một tiệm cà phê gần đấy - xem chừng sẵn sàng trả cả một năm tiền lương để biết được Tracy đang gọi cho ai, và nói gì, nhưng tin chắc đó là một cú điện thoại gọi ra nước ngoài và cũng chẳng ai thêm ghi âm lại câu chuyện đó. Ông ta thấy nàng lần đầu tiên mặc chiếc váy màu xanh nhạt, lô ra cặp chân trần. Để bọn đàn ông có thể nhìn ngắm mà. Ống ta nghĩ. Đồ đĩ thõa.
Và giận sôi lên.
Trong khi đó Tracy đang kết thúc câu chuyện trên điện thoại. “Phải bảo đảm đó là một người nhanh nhẹn nhé, Gunther. Anh ta chỉ có tất cả là hai phút.
Thành công hay không phụ thuộc vào hai phút ấy thôi”.
Gửi:J.J Reynolds Hồ sơ số Y - 72 - 830 - 412. Người gửi:
D. Cooper. Mật.
trích yếu:
Tracy Whitney. TÔI CHO RẰNG ĐỐI TƯỢNG ĐANG Ở MADRID ĐỂ MƯU TÍNH THỰC HIỆN MỘT VỤ TỘI PHẠM LỚN. MỤC TIÊU CÓ THỂ LÀ BẢO TÀNG PRADO. CẢNH SÁT TÂY BAN NHA CÓ THÁI ĐỘ BẤT HỢP TÁC NHƯNG TÔI SẼ ĐÍCH THÂN THEO DÕI ĐỐI TƯỢNG VÀ SẼ BẮT GIỮ CÔ TA VÀO THỜI ĐIỂM THÍCH HỢP.
Hai ngày sau, vào lúc 9 giờ sáng, Tracy ngồi trên chiếc ghế băng trong vườn Retiro một công viên xinh đẹp nằm giữa thủ đô Madrid - và đang cho những con chim bồ câu ăn. Công viên này cuốn hút người dân Madrid với hồ nước đầy, trong veo, cây cỏ sum suê được chăm sóc chu đáo và những sân khấu nhỏ để biểu diễn cho trẻ em.
Cesar Porretta, một ông già tóc đã điểm bạc, lưng hơi gù, bước dọc theo lối mòn trong vườn, và khi đến bên chiếc ghế, ông ta ngồi xuống cạnh Tracy, mở chiếc túi giấy và lấy ra những mẩu bánh mì vụn ném cho đàn chim. “Xin chào tiểu thư”.
“Xin chào. Ông có thấy khó khăn gì không?”.
Không cô ạ. Thời gian và thời điểm là tất cả những gì tôi cần”.
“Hiện thì chưa có”, Tracy nói. “Nhưng sẽ có ngay thôi”.
Ông ta cười một nụ cười móm mém. “Cảnh sát chắc sẽ phát điên. Chưa ai làm thế này bao giờ”.
“Do vậy mà sẽ thành công đấy”. Tracy đáp. “Tôi sẽ thông báo với ông sau”.
Nàng tung mẩu vụn cuối cùng cho đàn bồ câu và đứng dậy, bước đi, làn váy lụa đong đưa trên hai đầu gối sao mà khêu gợi.
Trong lúc đó, Daniel Cooper đang lục soát căn phòng khách sạn của nàng.
Ông ta đã thấy Tracy rời khách sạn đi về phía công viên và vì nàng không” yêu cầu mang đồ ăn lên phòng nên Cooper cho rằng nàng đi ăn sáng đâu đó. Ông ta tự cho phép mình có ba mươi phút. Việc đột nhập phòng Tracy chỉ đơn giản là tránh né các cô hầu và sử dụng một chiế móc đặc biệt để mở khóa. Ông ta biết mình đang phải tìm kiếm cái gì:
Một bản sao của một bức họa. Không thể đoán biết Tracy định đánh tráo nó bằng cách nào, nhưng ông ta tin chắc mưu đồ của nàng phải là như vậy.
Ông ta lục soát một cách thành thạo, nhanh chóng và hoàn toàn trong im lặng, không để lọt qua mắt một thứ gì Sau cùng lả phòng ngủ. Ông ta ngó vào tủ áo, xem xét từng chiếc váy, áo và rồi quay sang chiếc tủ com mốt, rút ra từng ngăn kéo một. Tất cả đầy những quần lót, xu chiêng và tốt chân. Ông ta nhặt một chiếc quần lót màu hồng lên và áp nó vào má, mơ màng từ mùi thơm quyến rũ của da thịt nàng. Và đột nhiên ở khắp nơi đều có mùi thơm ấy cả. Ông ta đặt chiếc quần lót lại chỗ cũ và nhanh chóng ngó qua các ngăn kéo khác. Không thấy bức tranh nào hết.
Ít phút sau ông ta bỏ ra ngoài, cũng nhanh như khi đến, và cắm đầu cắm cổ đi tới một ngôi nhà thờ gần đấy.
Sáng hôm sau Tracy rời khách sạn Ritz, Daniel Cooper bám theo. Giờ đây, Cooper thấy giữa họ có một sự gần gũi chưa từng tồn tại trước đó. Ông ta đã biết mùi da thịt nàng, đã thấy nàng tắm, đã được ngắm thân thể trần truồng của nàng ngập trong làn nước ấm. Nàng như đã hoàn toàn thuộc về ông ta, để ông ta mặc sức hủy hoại.
Cooper đã quan sát nàng đi bộ dọc theo phố Gren Via, xem hàng hóa bày trong các cửa hiệu, và theo nàng vào một cửa hiệu bách hóa lớn, thận trọng dừng ở ngoài tầm mắt nàng. Ông ta thấy nàng nói gì đó với một nhân viên rồi đi về phía phòng vệ sinh nữ. Conper đứng gần đó, thất vọng. Đó là nơi mà ông ta không hề theo vào.
Giá mà Cooper lọt được vào trong thì ông ta đã có thể thấy Tracy đang nói chuyện với một người đàn bà to béo trạc tuổi trung niên.
“Bà luu ý nhé”, đững trước gướng, Tracy vừa nói vừa bôi thêm son lên môi, “Sáng mai, 11 giờ”.
Người đàn bà lắc đầu. “Không nên, thưa cô. Ông ta sẽ không thích như vậy đâu. Không còn ngày nào tồi tệ hơn ngày đó cả. Ngày mai, Thái tử Lucxembourg sẽ đến đây trong một chuyến thăm cấp nhà nước, và báo chí đưa tin rằng ông ta sẽ được đưa tới thăm bảo tàng Prado. Vậy là sẽ có thêm cảnh vệ và cảnh sát canh gác trong khắp bảo tàng”.
“Càng đông càng tốt. Ngày mai”.
Tracy bước ra khỏi cửa, và người đàn bà nhìn theo, lẩm bẩm, “Thật kỳ quái...”.
Phái đoàn Hoảng gia Lucxembourg được dự kiến sẽ đến bảo tàng Prado vào đúng lúc 11 giờ, và các đường phố quanh đó đều bị cảnh vệ Quốc gia chặn lại. Do sự chậm trễ của buổi lễ tại dinh Tổng thống, mãi đến gần giữa trưa phái đoàn mới đến. Các xe mô tô cảnh sát xuất hiện cùng với tiếng còi hú rầm rĩ, hộ tống đoàn xe gồm năm, sáu chiếc chạy tới trước cửa thềm bảo tàng Prado.
Tại cổng vào, giám đốc Christian Machada nóng lòng chờ đợi khách quý.
Trong buổi sáng, Machada đã kiểm tra cấn thận để bảo đảm rằng mọi thứ đều chu đáo, còn những người gác đều đã được nhắc nhở phải đặc biệt cảnh giác. Viên giám đốc vốn rất tự hào về bảo tàng-tranh của mình, và ông ta muốn gây một ấn tượng tốt đẹp với Thái tử.
Có bạn bè ở những vị trí cao thì bao giờ mà chẳng có lợi, Machada nghĩ, và có khi tối nay mình còn được mời tới cùng ăn với Thái tử tại dinh tổng thống cũng nên.
Điều hối tiếc duy nhất của Machada là việc không có cách nào chặn cái đám khách du lịch đang lang thang khắp chỗ trong bảo tàng. Tuy vậy, các cảnh vệ tùy thân và nhân viên an ninh của bảo tàng sẽ đảm bảo việc giữ gìn an toàn cho Thái tử. Tất cả đều đã sẵn sàng.
Phái đoàn Hoàng gia bắt đầu thăm tầng lầu chính.
Viên giám đốc đón vị thượng khách rất nồng nhiệt và tháp tùng ông ta, theo sau là các cảnh vệ vũ trang, đi qua căn phòng có mái vòm lớn vào các căn phòng trưng bày tranh của các họa sĩ Tây Ban Nha hồi thế kỷ 16:
Juan de Juanes, Pedro Machuaca, Fornande Yanos.
Vị Thái tử bước chậm rãi, thưởng thức những gì đang trưng bày trước mặt.
Ông là người bảo trợ cho, nghệ thuật và thực sự yêu quý các họa sĩ - những người có thể làm cho quá khứ sống động và trở nên vĩnh hằng. Thậm chí, vì bản thân không có năng khiếu hội họa, ông còn thấy ghen tỵ khi thấy các họa sĩ nghiệp dư đứng trước các giá vẽ đang cố chộp lấy những nét thiên tài của các danh họa.
Khi phái đoàn đã thăm hết lầu trên, Machada tự hào nói. “Và bây giờ, nếu ngài cho phép, tôi xin đưa ngài xuống tầng dưới thăm Goya”.
Tracy đã trải qua một buổi sáng hết sức căng thẳng. Khi vị Thái tử không đến được bảo tàng Prado vào lúc 11 giờ như dự định, nàng đã bắt đầu lo lắng.
Tất cả các sắp đặt của nàng đã được tính được từng giây, và cẩn có sự có mặt của Thái tử để giú vào kế hoạch này.
Tracy đi từ phòng này sang phòng khác, lẫn vào đám khách tham quan và cố tránh không gây bất kỳ sự chú ý nào. Ông ta không đến mất, Tracy nghĩ, mình sẽ phải hoãn lại thôi. Nhưng đúng lúc đó nàng nghe tiếng còi xe cảnh sát vọng lại từ ngoài đường.
Đang theo dõi Tracy từ một vị trí thuận lợi ở phòng kề bên, Daniel Cooper cũng đã nghe thấy tiếng còi. Về lý thì ông ta tin rằng không ai có thể đánh cắp một bức tranh ở bảo tàng này, nhưng linh tính thì mách bảo với ông rằng Tracy đang âm mưự làm việc đó, và Cooper tin vào lính tính của mình. Ông ta tiến lại gần nàng hơn, cố lẩn sau đám đông, quyết không rời mắt một lây nào hết.
Tracy đang ở cạnh phòng bày bức Puerto. Qua khuôn cửa để ngỏ, nàng có thể nghe thấy tiếng ông già gù lưng, Cesar Porretta, ngồi trước một giá vẽ đang sao lại bức tranh Maja mặc quần áo của Goya, treo cạnh bức Puerto. Một người gác đứng cách đó có ba bước chân. Trong căn phòng có Tracy, một nữ họa sĩ đứng trước giá vẽ đang mê mải sao lại bức tranh Người phụ nữ vắt sữa bò cố gắng bắt chước các nét vẽ kỳ diệu của Goya.
Một nhóm du khách Nhật Bản đổ vào phòng, ồn ào như một bầy chim lạ.
Nào? Tracy tự nhắc mình. Đầy chính là thời điểm mà nàng chờ đợi, và tim nàng dập mạnh tới mức nàng sợ người gác kia cũng có thể nghe thấy. Nàng nhường lối cho nhóm khách Nhật Bản đang tiến tới, lưng quay về phía người họa sĩ.
Đúng lúc một người Nhật Bản bước qua chạm lướt vào phía trước, Tracy ngả người ra sau, dường như là bị đẩy vậy, đè vào người nữ họa sĩ kia, xô chị ta cùng giá vẽ, bức tranh và màu vẽ xuống sàn.
“Ôi, tôi xin lỗi?” Traey kêu lên. “Xin để tôi giúp”.
Và khi hối hả giúp người nữ họa sĩ đang thẩn thờ, gót giày của Tracy giẫm lên những chỗ màu vẽ vương vãi dưới sàn và bôi lung tung khắp nơi. Daniel Cooper, người đã trông thấy tất cả vội lại gần, mọi giác quan đều căng lên vì tập trung chú ý. Ông ta tin chắc Tracy đã thực hiện hành đ, Tracy hỏi, “làm sao tôi chui vào được?”.
“Với những chuyến hàng đến ở phút cuối cùng”, Vauban đáp, “Công ty chúng tôi sử dụng thứ mà chúng tôi gọi là thùng mềm, nghĩa là những thùng gỗ lớn một mặt bịt vải bạt, chỉ được chằng bằng những dây thừng thôi. Vì những lý do an ninh, các hàng hóa quý, như kim cương chẳng hạn, thường thường được chuyển đến vào phút sau cùng để thời gian nằm lại là ngắn nhất”.
Tracy hỏi. “Vậy là chỗ kim cương kia sẽ ở trong thùng mềm à?”.
“Thưa cô đúng thế. Và cả cô nữa. Tôi sẽ thu xếp để chiếc côngtenơ có cô ở trong được đặt cạnh thùng hàng chứa kiện kim cương kia. Khi máy bay đang ở trên không thì tất cả việc mà cô phải làm chỉ là cắt mấy sợi dây thừng mở thùng hàng đựng kim cương, đánh tráo cái hộp quý giá kia, chui trở vào cái côngtenơ của cô và đóng kín lại.
Gưnther nói thêm. “Khi máy bay hạ cánh xuống Amstecđam, đám bảo vệ sẽ bốc cái hộp bị đánh tráo và giao cho bên gia công. Cho đến khi mà họ phát hiện ra việc đánh tráo thì chúng tôi đã thu xếp để cô đang ở trên một chuyến bay ra nước ngoài rồi. Hãy tin tôi, không thể trục trặc gì được”.
“Tôi sẽ không chết cóng ở trên ấy chứ?”.
Vauban mỉm cười. “Thưa cô, ngày nay thì trong các máy bay chở hàng cũng có hệ thống sưởi ấm vì chúng thường chở hàng tươi sống mà. Không sao cả đâu, cô sẽ hoàn toàn cảm thấy dễ chịu. Dĩ nhiên là hơi lạnh một chút, nhưng nói chung là chịu được thôi”.
Sau cùng thì Tracy đã bằng lòng ngồi nghe họ trình bày. Một vài giờ hơi khó chịu để đổi lấy nửa triệu đô la?
Nàng xem xét kỹ góc độ cái kế hoạch được vạch ra. Nó có nhiều khả năng thành công, Tracy nghĩ. Giá mà nó đừng dính đến Jeff Stevensl Các cảm giác về anh ta là một thứ tình cảm lẫn lộn làm nàng luôn bối rối và cáu kỉnh”với chính mình. Anh ta đã làm cái việc ở Madrid chỉ cất để giỡn mặt nàng, đã phản bội, lừa gạt nàng và giờ đây, anh ta chắc đang cười thầm.
Ba người đàn ông nhìn nàng? chờ đợi câu trả lời. Con thuyền đang đi qua chiếc tàu Pent Nenf, cây cầu cổ nhất Paris mà đám người Pháp trái thói cứ khăng khăng gọi là. Cầu Mới. Ngang phía bên kia, trên bờ sông, một đôi tình nhân đang ôm ấp nhau, và Tracy có thể thấy rõ vẻ mãn nguyện trên gương mặt cô gái. Cô ta thật ngốc nghếch, Tracy nghĩ. Nàng đã có quyết định của mình, vừa nhìn thẳng vào mắt Jeff vừa nói “Được. Tôi nhận lời tham gia”, và cảm thấy không khí căng thẳng dịu hẳn đi.
“Chúng ta không có nhiều thời gian đâu”. Vauban tiếp tục”, anh ta đưa cặp mắt đục ngầu nhìn Tracy. “Ông anh tôi làm việc cho một đại lý vận tải, sẽ để chúng ta chất hàng vào thùng hàng có cô trong đó ở khu nhà kho của ông ấy.
Tôi hy vọng là cô sẽ không thấy có gì trở ngại”.
Đừng lo về tôi... Chuyến bay sẽ kéo dài bao lâu?”.
“Cô sẽ phải chờ đợi vài phút ở khu bốc dỡ hàng và sau đó là một giờ bay tới Amstecđam”.
“Côngtenơ rộng bằng ngần nào”.
“Đủ để cô có thể ngồi đàng hoàng. Sẽ còn vài thứ hàng hóa khác nhằm che giấu cô - ngừa bất trắc...”.
Không thể có trực trặc gì được - họ đã cam đoan với nàng. Vậy mà... ngừa bất trắc...
“Tôi lập một danh mục những thứ mà cô sẽ cần đến”, Jeff nói, “Tôi đã lo liệu chu đáo cả rồi”.
Đồ khốn kiếp láu lỉnh. Anh ta đã tin chắc nàng nhập cuộc.
“Anh Vauban đây sẽ lo liệu để hộ chiếu của cô được thị thực xuất nhập cảnh thích hợp, do vậy cô có thể rời khỏi Hà Lan một cách dễ dàng”.
Con thuyền bắt đầu cập bến.
“Sớm mai tôi sẽ cân nhắc lại toàn bộ kế hoạch này một lần nữa!”. Ramon Vauban nói. “Bây giờ tôi phải trở lại nơi làm việc... Tạm biệt”. Anh ta bỏ đi.
Jeff hỏi “Sao chúng ta không cùng ăn tôi để chúc mừng nhau nhỉ?”.
“Rất tiếc”, Gunther xin lỗi, tôi mắc hẹn mất rồi”.
Jeff quay sang Tracy. “Cô sẽ...”.
“Không, cám ơn. Tôi mệt”, nàng nói nhanh.
Đó là lý do để tránh phải cùng ngồi với Jeff, nhưng quả thật là Tracy cũng cảm thấy kiệt sức. Có thể là vì suốt thời gian qua, nàng đã luôn luôn ở trong tình trạng căng thẳng, kích động. Hơi chóng mặt. Xong vụ này, nàng tự hứa với mình, phải trở lại London nghỉ một thời gian dài mới được. Nàng bắt đầu cảm thấy đầu nằng nặng.
Đúng là mình phải nghỉ ngơi thật rồi - nàng nghĩ.
“Tôi có mang cho cô một chút quà”, Jeff nói. Anh đưa cô một chiếc hộp được gói cẩn thận. Trong đó là một chiếc khăn lụa tinh tế, nó có đính hai chữ cái TW.
“Cảm ơn anh”. Anh ta có thể mua nó quá đi chứ, Tracy bực bội nghĩ, bởi đã mua bằng số tiền nửa triệu đô la của mình mà.
“Chắc là cô không đổi ý kiến về việc cùng đi ăn chiều chứ”.
“Đúng vậy”.
Tại Paris, Tracy đặt buồng tại khách sạn Plaza Athenee, một căn phòng đáng yêu nhìn xuống khu vườn khách sạn ở đây có một phòng ăn sang trọng nhưng tối nay Tracy quá mệt mỏi, chẳng muốn thay một bộ váy chỉnh tề hơn làm gì. Nàng đi vào Ralais, một quầy cà phê của khách sạn, và gọi bát xúp.
Nàng ăn được nửa chừng rồi bỏ về phòng.
Daniel Cooper, ngồi ở đầu kia của gian phòng, đã lưu ý cử chỉ này của nàng.
Daniel Cooper có chút rắc rối. Khi quay lại Paris, ông ta yêu cầu gặp thanh tra Trignant. Người đứng đầu Interpol đã tỏ ra kém thiện cảm. Ông đã vừa mất cả tiếng đồng hồ nghe cảnh sát trưởng Ramore, qua điện thoại, phàn nàn về người Mỹ này.
“Ông ta thật điên rồ?” Ông cảnh sát trưởng không nén được giận dữ. “Tôi đã phung phí người, tiền và thời gian để theo sát “cô Tracy Whitney này, người mà ông ta quả quyết là sẽ cướp bảo tàng Prado và sau cùng té ra chỉ là một khách du lịch vô hại - đúng như tôi đã nói”.
Cuộc trò chuyện đã dẫn thanh tra Trignant tới chỗ tin rằng Daniel Cooper có thể đã nhầm lẫn về Tracy ngay từ đầu Không một mảy may bằng chứng gì chống lại người phụ nữ này. Việc cô ta có mặt tại thành phố vào thời gian xảy ra các vụ tội phạm không thể được coi là bằng chứng.
Và do vậy, khi Daniel Cooper tới gặp viên thanh tra và đề nghị, “Tracy Whitney hiện đang ở Paris. Tôi mong muốn cô ta bị đặt dưới sự giám sát 24 trên giờ”, thì viên thanh tra đáp “Trừ khi có thể cho tôi thấy bằng chứng nào đó rằng người phụ nữ này đang mưu toan thực hiện một hành vi tội phạm, tôi không thể làm gì hơn được”.
Cooper đã nhìn ông ta chằm chằm bằng cặp mắt nâu giận dữ và nói. “Ông là một thằng ngốc”, và hậu quả là bị tống ra khỏi phòng.
Vậylà từ lúc đó Cooper bắt đầu một mình theo dõi đối tượng. Ông ta lần theo Tracy đi mọi nơi:
các cửa hiệu, nhà hàng, dọc theo các đường phố của Paris, Ông ta gần như không ngủ và có lúc không cả ăn. Daniel Cooper không thể để Tracy Whitney vượt mặt mình Nhiệm vụ của ông ta chưa thể hoàn thành nếu chưa đưa được nàng vào tù.
Đêm đó, nằm trên giường, Tracy cân nhắc lại kế hoạch. Nàng mong cái đầu mình nhẹ nhõm hơn một chút. Người nàng đẫm mồ hôi và căn phòng dường như nóng đến mức không thể chịu được. Ngày mai là xong – nàng nghĩ - Thụy Sĩ. Mình sẽ đi đến đó. Tới những vùng núi mát lạnh của Thụy Sĩ, trong một biệt thự nào đó.
Nàng đặt chuông báo thức vào lúc 5 giờ. Chuông reo, nàng thấy mình đang trong một phòng giam quen thuộc nghe Mụ Váy sắt đang hò hét, “Mặc xống áo vào. Mau lên” và khắp dẫy hành lang vang vang tiếng chuông réo.
Tracy choàng tỉnh, thấy tức ngực, và ánh sáng làm nàng chói mắt. Nàng gắng gượng đi vào phòng tắm. Trong gương, mặt nàng đỏ rực và mụ mị. Mình không thể ốm vào lúc này được, Tracy nghĩ, hôm nay thì không thể được. Còn quá nhiều việc phải làm.
Chậm chạp mặc quần áo, Tracy cố quên đi cái cảm giác nặng trịch trong đầu.
Nàng mặc bộ áo liền quần màu đen có túi sâu, đi giày đế cao su, và một cái bê rê Basque. Tim nàng đang đập loạn xạ, và không thể biết đó là vì hồi hộp hay do cơn sốt nữa. Nàng thấy run run, mệt mỏi. Cổ họng khô đắng. Nhìn thấy trên bàn chiếc khăn quàng mà Jeff Stevens tặng, nàng cầm lên và cuốn nó vào quanh cổ.
Cửa chính vào khách sạn Plaza Athenee mở ra trên đại lộ Mentaighe, nhưng cửa phụ cho nhân viên thì mở trên phố Beeador. Từ một vị trí quan sát gần cổng chính, Daniel Cooper không nhìn thấy Tracy đi ra qua cổng phụ, nhưng không hiểu sao, ngay khi nàng vừa đi khỏi thì ông ta cảm giác thấy điều đó, vội vã chạy ra lề đường nhìn ngược nhìn xuôi, song không hề thấy bóng dáng Tracy đâu.
Chiếc xe Reláult màu xám đón Tracy ở ngay cổng phụ của khách sạn và chạy về khu Etoile. Vào giờ này đường phố vắng vẻ, và lái xe, một người trẻ tuổi mặt đầy tàn nhang, cho xe chạy như bay vào một trong số mười hai đại lộ tạo thành khu Etoile. Mình ước gì anh ta chạy chậm lại, Tracy suy nghĩ, Tốc độ nhanh quá làm nàng có cảm giác say xe.
Ba “mươi phút sau chiếc xe quành gấp trước một khu nhà kho. Tấm biển ở cửa đề BRUCERE ET CIE. Tracy nhớ rằng đây là nơi làm việc của người anh Vauban.
Anh chàng lái xe mở cửa xe và giục. “Mau lên”.
Một người đàn ông tuổi trung niên với tác phong nhanh nhẹn, kín đáo xuất hiện khi Tracy vừa bước ra khỏi xe. “Theo tôi”, ông ta nói. “Nhanh lên”.
Tracy hấp tấp bước theo ra phía sau khu nhà kho, nơi có dăm bảy chiếc côngtenơ, phần lớn đã đầy hàng và “đã niêm phong, sẵn sàng để chuyển ra sân bay. Lẫn vào đó có một côngtenơ mềm, một mặt bịt vải bạt, trong đã có một ít hàng hóa.
“Vào đi Nhanh lên”. Chúng ta không có nhiều thời gian đâu”.
Tracy cảm thấy choáng váng. Nàng nhìn cái thùng hang và nghĩ - mình không thể cho vào đó được, sẽ chết mất.
Người đàn ông thấy lạ, nhìn nàng hỏi, “Cô có chuyện gì thế Bây giờ là lúc còn có thể rút lui, còn có thể ngừng mọi chuyện. “Tôi không sao”, nàng lẩm bẩm. Sẽ qua ngay thôi mà. Chỉ sau vài giờ nữa là nàng đã lên đường đi Thụy Sĩ.
Tốt! Cầm lấy cái này”. Ông ta đưa cho nàng một con dao hai lưỡi một cuộn dây thừng nặng trịch, một đèn pin, và một cái hộp nhỏ màu xanh da trời, ngoài buộc sợi dây lụa đỏ.
“Đây là phiên bản của chiếc hộp kim cương mà cô sẽ đánh tráo”.
Tracy hít một hơi thật sâu, bước vào, và ngồi xuống. Vài giây sau một tấm bạt lớn được trùm lên. Nàng có thể nghe tiếng những sợi thừng đang được chằng ngang trên mặt tấm bạt.
Loáng thoáng nàng nghe tiếng ông ta. “Từ lúc này trở đi, không nói chuyện, không cử động, không hút thuốc”.
“Tôi không hút thuốc” Tracy định đáp, nhưng không còn hơi sức nào nữa.
“Chúc may mắn. Tôi đã đục mấy lỗ ở bên thành để cô dễ thở. Đừng có quên thở đấy nhé”. Ông ta cười và bỏ đi.
Trong bóng tối, chỉ còn lại mình nàng.
Côngtenơ vốn chật hẹp, và bộ bàn ghế dùng trong phòng ăn lại đã chiếm mất phần lớn không gian. Tracy thấy cứ như đang bị lửa dốt vậy. Người nàng nóng bừng, và rất khó thở. Chắc lả mình bị một thứ vi rút nào đó tấn công, nàng nghĩ, nhưng chúng phải chờ đã. Mình còn có việc phải làm. Hãy nghĩ tới chuyện gì khác thì hơn.
Giọng nói của Gunther như vang lên:
“Không có gì để cô lo ngại cả, Tracy ạ.
Khi họ đưa hàng tới một gara tư nhân kề sân bay, Jeff sẽ đón cô ở đó. Giao chỗ kim cương cho anh ta và quay lại sân bay. Có một vé máy bay đi Giơnevơ đã được đặt sẵn cho cô ở phòng bán vé của Hàng không Thụy Sĩ. Rời khỏi Amstecđam càng nhanh càng tốt. Ngay khi cảnh sát biết vụ trộm, họ sẽ đóng cửa thành phố đấy. Sẽ không có trục trặc gì cả, nhưng để dự phòng, đây là địa chỉ và chìa khóa của một ngôi nhà an toàn ở Amstecđam. Hiện không có ai ở đó”.
Chắc là nàng đã thiếp đi vì bỗng choàng tỉnh khi côngtenơ bị nhấc lên. Tracy thấy mình bị lắc lư và vội đưa tay bám chặt vào một bên thành. Chiếc côngtenơ được đặt mạnh xuống. Tiếng cửa xe đóng đánh rầm, tiếng động cơ nổ và giây lát sau, xe tải bắt đầu chuyển bánh.
Họ đang trên đường ra sân bay.
Toàn bộ kế hoạch đã được tính toán đến từng giây từng phút. Chiếc côngtenơ chứa Tracy sẽ phải được chở đến khu xếp hàng hóa gần như cùng lúc với thùng hàng của hãng De Beers. Người lái xe chở Tracy đã nhận được chỉ thị:
Giữ vững tốc độ 51 dặm một giờ.
Sáng hôm đó mật độ giao thông trên con đường dẫn tới sân bay có vẻ cao hơn thông thường nhưng người lái xe không hề lo ngại. Thùng hàng sẽ đến kịp thời và anh ta sẽ được 50 ngàn phrăng tiền thưởng, đủ để đưa vợ con đi nghỉ một chuyến. Chúng ta sẽ đi Mỹ - thế giới của Disney.
Anh ta nhìn đồng hồ trên xe và mỉm cười một mình. Không có vấn đề gì.
Sân bay chỉ còn cách ba dặm và anh ta thì còn những hai mươi phút nữa.
Đúng lịch trình, anh ta tới chỗ rẽ vào khu vực của bộ phận vận tải hàng hóa, cho xe tiếp tục chạy ngang qua khu nhà ga thấp, qua cổng hành khách và hướng tới phlaá khu vực hàng hóa. Đúng lúc chiếc xe tới sát bức tường vây quanh khu hàng hóa rộng lớn ngổn ngang những thùng hàng thì anh ta nghe thấy một tiếng nở và chiếc xe tải từ từ dừng lại. Cứt thật! Anh ta nghĩ. Một cú nổ lớn tai hại.
Chiếc 747 khổng lồ chở hàng của hàng không Pháp, đang được xếp hàng lên.
Phần mũi chiếc máy bay được nâng lên, để lộ các đường ray chạy suốt vào trong thân máy bay. Việc xếp hàng đã gần hoàn thành. Ramon Vauban nhìn đồng hồ trên tay và cau có. Chiêc xe tải đã trễ hẹn. Hàng của hãng De Beers đã được xếp vào thùng và các tấm bạt đã được chằng cẩn thận bằng thừa. Vauban đã bôi sơn đỏ lên mặt ngoài chiếc thùng để giúp người phụ nữ kia dễ nhận ra nó.
Lúc này, anh ta đứng trông theo chiếc thùng đang được đẩy vào trong khoang máy bay và sẽ được cố định bằng các chất hãm. Khoảng trống bên cạnh nó dành cho một thùng hàng nữa, trước khi máy bay cất cánh. Trong khi đó trong bãi hàng còn ba côngtenơ chở đến lượt. Lạy Chúa, người phụ nữ kia ở đâu cơ chứ?
Người phụ trách việc xếp hàng đang ở trong máy ba kêu lớn, “Nào, Ramón.
Cái gì làm ùn lại thế “Đợi một phút”, Vauban trả lời. Anh ta chạy ra phía cổng ngóng ra. Không thấy bóng dáng chiếc xe tải đâu hết.
“Vauban? Có trục trặc gì thế” “Anh ta ngoái lại. Một giám sát viên cấp cao đang tiến đến. “Kết thúc việc chất hàng lên và cho bay thôi”.
“Thưa ngài, vâng. Tôi đang đợi...”.
Đúng lúc đó chiếc xe tải của hãng Brucere et Cie lao vào khu kho và dừng gấp ngay trước mặt Vauban.
“Đây là kiện hàng cuối cùng”, Vauban lớn tiếng nói.
“Tốt, cho lên đi”, người giám sát nói nhanh.
Vauban trông coi việc bốc hàng ra khỏi xe tải, đưa nó lên chiếc cầu trượt vào trong máy bay.
Anh ta vẫy tay ra hiệu với người phụ trách việc xếp hàng “Đủ cả rồi đấy”.
Giây phút sau, khi kiện hàng cuối được xếp xong và đầu mũi máy bay được hạ xuống, Vauban dứng nhìn các động cơ phản lực phụt lửa ra đằng sau, chiếc máy bay khổng lồ bắt đầu lăn bánh chạy ra phía đường băng, nghĩ bụng, giờ thì chỉ còn phụ thuộc vào người phụ nữ kia.
Có một cơn bão dữ dội. Một đợt sóng lớn ập vào và con tàu bắt đầu chìm xuống. Mình sắp chết đuối rồi, Tracy nghĩ. Mình phải thoát ra khỏi đây mới được. Nàng vung hai tay ra và đập phải một thứ gì đó. Đó là thành chiếc phao cấp cứu, bập bềnh và chao đảo. Gắng gượng nhỏm dậy, nàng đập đầu phải chân chiếc bàn. Trong một giây tĩnh trí nàng đã nhớ ra mình đang ở đâu. Mồ hôi ướt đầm mái tóc và gương mặt, nàng thấy chóng mặt, quay cuồng, người nóng rực.
Mình đang ở trong một cơn ác mộng. Mình đang ngủ trên chiếc giường ở London. Mình phải gọi bác sĩ mất. Không thể hít thở được, nàng cố với chiếc điện thoại, rồi lại tức khắc sụp xuống...
Chiếc máy bay qua một vùng khí loãng và Tracy bị xô bật vào góc, đầu mung lung, mơ hồ, cố gắng lấy lại sự tỉnh táo một cách tuyệt vọng. Mình có bao nhiêu thời gian nhỉ? Nàng lẫn lộn giữa một giấc mơ quỷ quái và một thực trạng khủng khiếp. Phải làm thế nào đoạt được chỗ kim cương kia. Nhưng trước hết...
trước hết, phải cắt dây để chui ra khỏi cái thùng này đã. Nàng sờ tay vào túi quần lấy con dao và thấy cầm nó lên cũng là một việc nặng nhọc. Thiếu không khí, Tracy nghĩ. Mình phải có không khí để thở. Nàng vòng tay lần qua mép tấm bạt tìm kiếm một trong số những sợi thừng chằng bên ngoài và cắt đứt nó.
Dường như phải mất một thời gian rất lâu cho cái việc đơn giản đó. Tấm bạt đã hé ra rộng hơn. Nàng cắt một sợi dây khác nữa và vậy là đủ rộng để chui ra ngoài. Không khí bên ngoài lạnh ngắt. Nàng bắt đầu run rẩy và độ rung của máy bay làm tăng cảm giác buồn nôn. Mình phải vững vàng lên mới được, Tracy nghĩ, mình phải tỉnh táo trở lại Mình đang làm gì ở đây nhỉ? Có việc quan trọng.
Đúng. Những viên kim cương.
Mọi thứ trước mắt nàng như nhòa đi, chao đảo. Mình sẽ không làm được chuyện đó, nàng nghĩ.
Chiếc máy bay đột ngột hẫng xuống và Tracy ngã ra. Nàng bám chặt tay vào mấy đường ray trong khi chiếc máy bay lắc lư và khi nó đã thăng bằng trở lại, nàng bắt mình phải đứng dậy. Tiếng gầm rú củạ các động cơ phản lực hòa lẫn với những tiếng ong ong trong đầu. Những viên kim cương. Mình phải tìm ra những viên kim cương, nàng thầm nhắc mình.
Loạng choạng lần tìm nàng nheo nheo mắt dõi nhìn từng côngtenơ để tìm vệt sơn đỏ. Ơn Chúa! Nó kia rồi.
Nàng đứng lặng, cố nhớ xem phải làm gì tiếp theo. Giá có thể nằm xuống và ngủ lấy vài phút, mình sẽ tỉnh táo ra nàng nghĩ. Mình chỉ cần được ngủ vài phút thôi mà.
Nhưng không còn thời gian. Bất kỳ giây phút nào máy bay cũng có thể hạ cánh. Tracy lấy dao ra cứa những st cao cấp của chúng tôi. Ông Renđell đang trên đường đi thăm các bảo tàng trên thê”giới và rất sốt sắng muốn được thấy bộ sưu tập không gì so sánh nơi của ông. Tôi mong ông tạo mọi điều kiện giúp đỡ ông ấy.
Bức thư đo ông giám đốc bào tàng kia ký.
Sớm hay muộn, v iên giám đốc sung sướng nghĩ, mọi người đều sẽ đến với ta.
“Đưa ông ta vào đây”.
Henri Rendell là một người cao lớn, hói đầu, vẻ mặt dễ gây ấn tượng và giọng nói Thụy Sĩ. Khi bắt tay nhau. Machada nhận thấy bàn tay phải của người khách thiếu mất một ngón trỏ. Henri Rendell nói. “Tôi rất vui mừng. Đây là lần đầu tiên tôi có cơ hội đến thăm Machada, và tôi mong mỏi được thấy các tác phẩm nghệ thuật nổi tiếng của ông”.
Christian Machada nhã nhặn nói. “Tôi không nghĩ là ông sẽ phải thất vọng, thưa ông Rendell, Xin mời đi cùng tôi Tôi sẽ tự đưa ông thăm các phòng tranh”.
Họ chậm rãi đi qua các phòng lớn có mái vòm trưng bày tranh của các danh họa Flemmitsơ, của Ruben và các họa sĩ cùng trường phái, và rồi thăm khu triển lãm chính với tranh của các danh họa Tây Ban Nha. Hean Rendell xem xét thận trọng từng bức một. Hai người đã trò chuyện với nhau như hai chuyên gia bậc thầy, đánh giá phong cách, nét phối cảnh và cảm nhận màu sắc của các họa sĩ.
“Bây giờ”, viên giám đốc tuyên bố, “Xin vì niềm tự hào của đất nước Tây Ban Nha”. Ông ta dẫn khách xuống tầng dưới, đi vào khu triển lãm tranh Goya.
““Thật là sướng mắt?”. Rendell kêu lên, ngỡ ngàng.
“Xin được cho tôi đứng mà ngắm thôi”.
Christian Machada vui lòng chờ đợi, thích thú trước sự thán phục của khách.
“Chưa bao giờ tôi được thấy thứ gì huy hoàng thế này”. Rendell thừa nhận.
Ông ta chậm rãi ngắm nghía từng bức tranh. Ngày nghỉ của các mụ phù thủy.
Rendell lẩm bẩm, “Một bức tranh tuyệt đẹp”.
Họ bước tiếp.
“Chân dung tự họa, thật kỳ lạ”.
Christian Machada mỉm cười.
Rendell dừng lại trước bức Puerto. “Một bức tranh giả thật khéo”. Ông ta toan bước đi.
Viên giám đốc chộp lấy cánh tay ông ta. “Cái gì? Ông vừa nói gì vậy?”.
“Tôi nói rằng đó là một bức tranh vẽ lại thật khéo”.
“Ông thật đã rất nhầm”, viên giám đốc cảm thấy bị xúc phạm.
“Tôi không cho là mình nhầm đâu”.
Chắc chắn là ông nhầm”, Machada quả quyết. “Tôi bảo đảm với ông đó là tranh thật. Tôi biết nguồn gốc của nó mà”.
Henri Rendell bước lại gần bức tranh và xem xét cẩn thận hơn. “Vậy thì nguồn gốc của nó cũng đã là giả mạo.
Đó là bức vẽ của đồ đệ Goya, Eugenie Lucas Padilla. Tất nhiên ông phải biết là Lucas đã vẽ hàng trăm tranh giả của Goya”.
“Chắc chắn là tôi biết vậy”, Machada gắt. “Nhưng đây không phải là một trong số các bức đó”.
Rendell nhún vai. “Tôi đành thua sự phán xét của ông”. Ông ta dậm chân định bước đi.
“Tôi đã đích thân mua bức tranh này. Nó đã được phân tích quang phổ và hóa nghiệm”. Ông giám đốc nói thêm.
“Tôi không nghi ngờ gì chuyện đó. Lueas vẽ ngay cùng thời với Goya và cùng dùng một thứ nguyên liệu, Henri Rendell cúi xuống xem xét chữ ký ở góc dưới bức tranh.
“Ông có thể tái bảo đảm một cách rất đơn giản, nếu ông muốn. Đưa bức tranh trở lại phòng phục chế và kiểm tra lại chữ ký này”. Ông ta bật cười. “Cái tôi của Lucas đã xui ông ta ký tên mình dưới bức tranh, nhưng túi tiền buộc ông ta phải ký mạo tên Goya” lên trên chữ ký của mình, cốt để tăng giá bức tranh mà”. Rendell nhìn đồng hồ. “Xin ông thứ lỗi. Tôi sợ rằng tôi sẽ trễ hẹn mất.
Cảm ơn ông đã chia sẻ kho tàng của mình”.
“Có gì dâu”, viên giám đốc lạnh nhạt. Thằng cha này rõ ràng là ngu xuẩn, ông ta nghĩ.
“Tôi đang ở biệt thự Magna, nếu ông thấy cẩn xin cứ gọi. Cảm ơn ông một lần nữa”. Henri Rendell ra về.
Christian Machada trông theo. Thế nào mà gã Thụy Sĩ ngớ ngẩn này lại dám cho rằng bức tranh quý giá đó là của dổm nhỉ?
Ông ta quay lại nhìn bức tranh một lần nữa. Một kiệt tác. Ông ta cúi nhìn chữ ký của Goya. Hoàn toàn bình thường. Nhưng mà, liệu có thể là thế không nhỉ? Nỗi nghi ngờ cỏn con không chịu mất đi. Mọi người đều biết, họa sĩ đương thời với Goya, Eugenie Lucas Padilla, đã vẽ hàng trăm tranh Goya giả, và trở nên nổi tiếng cũng nhờ thế.
Machada đã trả ba triệu rưỡi đô la để mua bức tranh Puerto này. Nếu như ông ta bị lừa thì đó là một vết nhơ ghê gớm, điều mà chỉ nghĩ tới cũng đã không thể chịu được.
Henri Rendell đã nói một điều có ý nghĩa:
thực sự có một cách đơn”giản để tái khẳng định tính xác thực của nó. Ông ta sẽ kiểm tra lại chữ ký rồi gọi điện cho Rendell và nhận xét một cách lịch thiệp nhất rằng có thể Rendell nên tìm một nghề chuyên môn khác thích hợp với khả năng của ông ta.
Viên giám đốc gọi người phụ tá và hạ lệnh “được tranh Puerto xuống để xét nghiệm lại.
Xét nghiệm một tác phẩm hội họa là công việc hết sức tinh tế, bởi lẽ chỉ thiếu thận trọng một chút là đã có thể phá hủy mất một tác phẩm vố giá, và không thể có lại được. Cánh phục chế của bảo tàng Prado đều là các chuyên viên, phần đông là đám họa bĩ, không thành đạt và xin vào làm việc ở đây để được gần gũi với môn nghệ thuật mà họ yêu thích. Họ bắt đầu với tư cách là thợ học nghề, dưới sự chỉ bảo của các chuyên viên, và phải làm việc nhiều năm trước khi trở thành thợ phụ, rồi mới được phép động tới các kiệt tác và luôn luôn dưới sự trông nom của các bậc thầy.
Juan Delgado, người phụ trách việc phục chế của bảo tàng Prado đặt bức Puerto lên một cái giá gỗ đặc biệt trước sự giám sát của Machada.
Tôi muốn ông kiểm tra chữ ký xem”, viên giám đốc nói.
Delgado không dám bộc lộ sự ngạc nhiên của mình. “Vâng, thưa ông giám đốc”.
Ông ta rót chút rượu izôprôpin vào miếng bông nhỏ rồi đặt nó lên chiếc bàn bên cạnh bức tranh. Miếng bong thự hai đựợc nhỏ lên đó vài giọt một thứ hóa chất có tác dụng trung hòa.
“Thưa ông, tôi đã sẵn sàng”.
“Vậy thì bắt đầu đi. Vẫn phải cẩn thận đấy”.
Đột nhiên Machada như cảm thấy khó thở. Ông ta theo dõi Delgado nhẹ nhàng chấm miếng bông thứ nhất lên chữ G trong chữ ký của Goya. Ngay tức khắc Dalgado dùng miếng bông thứ hai thấm lên đó để trung hòa cho rượu khỏi thấm sâu hơn xuống dưới. Hai người” cùng xem xét chất vải, nơi thấm hóa chất.
Delgado cau mày. “Xin lỗi nhưng tôi chưa thể nói gì được, ông ta nói. “Tôi sẽ phải dùng một hóa chất hòa tan mạnh hơn”.
“Làm đi”. Viên giám đốc hạ lệnh.
Delgado mở nắp một bình hóa chất khác:
ông ta thận trọng nhỏ chất đimantinpêtôn lên một miếng bông sạch rồi dùng nó thấm lại lên chữ cái đầu của chũ ký trên bức tranh. Căn phòng lập tức sặc mùi cay nồng của các hóa chất. Christian Machada đứng chết lặng, không thể tin “vào cái mà ông ta đang nhìn thấy nữa. Chữ G trong”tên của Goya mờ dần đi và ở vị trí của nó là một chữ L rõ ràng.
Delgado quay sang, mặt tái nhợt- “Tôi... tôi có tiếp tục không”.
“Tiếp tục đi Machada nói, giọng khản đặc.
Từng chữ một, chữ ký của Goya mê đi dưới tác dụng của chất hòa tan và chữ ký của Lucas hiện” ra. Mỗi chữ như một cú đấm thẳng vào bụng Machada. Ông ta, người đứng đầu một trong những bảo tàng lớn nhất thế giới, đã bị lừa. Ban giám đốc sẽ biết, nhà vua Tây Ban Nha sẽ biết, cả thế giới sẽ biết điều đó. Thật nhục nhã.
Ông ta lê gọi cho Henri Rendell.
Hai người ngồi trong phòng làm việc của Machada.
“Ông đã đúng”, giọng viên giám đốc nặng nhọc. “Đó là một bức tranh của Lucas. Khi chuyện này lan ra, người ta sẽ cười vào mũi tôi”.
“Lucas đã đánh lừa nhiều chuyên gia”, Renđell an ủi.
“Sự giả mạo của ông ta lại là sở thích của tôi đấy”.
“Tôi đã trả ba triệu rưỡi đô la để mua bức tranh đó”.
Rendell nhún vai. “Ông có thể đòi tiền lại được không?”.
Viên giám đốc lắc đầu thất vọng. “Tôi mua nó của một góa phụ - người đã quả quyết rằng đó là tài sản của gia đình chồng bà ta trong nhiều đời. Nếu tôi phát đơn kiện, vụ kiện sẽ giằng co hết phiên tòa này đến phiên tòa khác và dư luận sẽ là rất xấu. Mọi thứ trong bảo tàng này sẽ bị nghi ngờ hết”.
Henri Rendell trầm ngâm hồi lâu. “Đúng lả không nên để lộ ra công luận.
Sao ông không giải thích mọi chuyện với cấp trên, và lặng lẽ ném bức Lucas đi nhỉ. Ông có thể gửi nó cho hãng Sotheby hay Christian để họ đưa ra bán đấu giá”.
Machada lắc đầu, “Không được, vậy thì cả thế giới sẽ Gương mặt Rendel1 chợt sáng lên. “Ông còn gặp may cũng nên. Tôi có một khách hàng sẵn lòng mua bức này.
Ông ta sưu tầm tranh Lucas mà. Và là một người hành động tùy hứng”.
“Dứt bỏ được nó thì thật sung sướng. Tôi không muốn nhìn thấy nó nữa.
Một thứ của rởm giữa kho báu của tôi. Tôi thà cho không nó đi”. Ông ta cay đắng nói thêm.
“Chẳng cần phải thế. Người khách của tôi có thể sẵn sàng trả ông, chẳng hạn, 50 ngàn đô la để mua nó. Tôi sẽ báo cho ông ta chứ?”.
“Ông thật tốt bụng, ông Rendell”.
Tại một cuộc họp được triệu tập vội vã, ban giám đốc đang bối rối đã cho rằng việc để lộ ra một trong những bức tranh có giá trị cửa bảo tàng Prado là một thứ giả mạo cần phải tránh bằng bất cứ giá nào. Cuộc họp quyết định rằng, tốt nhất là dứt bỏ bức tranh, càng lặng lẽ, càng nhanh càng tết. Các thành viên dự họp, trong các bộ. Complê sẫm màu, im lìm bước ra khỏi phòng. Không ai nói một lời với Machada đang đứng lặng vì đau khổ.
Chiều hôm đó, vụ mua bán đã được thực hiện. Henri Renđell đến Ngân hàng Tây Ban Nha và trở lại với một tấm séc bảo đảm trị giá 50 ngàn đô la và bức Lucas đã được trao lài cho ông ta buộc trong một tấm vải mộc rẻ tiền.
“Ban giám đốc chúng tôi sẽ rất phiền lòng nếu sự cố này được công luận biết đến”, Machada tế nhị nói.
“Nhưng tôi đã bảo đảm với các vị kia rằng khách hàng của ông là một người biết giữ miệng”.
“Ông có thể tin vào điều đó”. Rendell hứa.
Sau khi ra khỏi bảo tàng, Henri Rendeii đi một chuyến tắc xi tới khu dân cư ở rìa phía Bắc của Madriđ, mang bức tranh lên một căn phòng ở tầng ba và gõ cửa. Tracy là người mở. Phía sau cô là Cesar Porretta. Tracy đưa mắt nhìn Rendell và ông ta mỉm cười.
Họ đã nóng lòng muốn ném nó đi dấy”. Henri Rendell đắc chí.
Tracy ôm lấy ông ta. “Xin mời vào đi”.
“Còn bây giờ”, người lưng gù nói. “Các vị sẽ thấy phép màu. Một Goya sống lại.
Ông ta lấy ra một lọ hóa chất và mở nắp. Mùi cay nồng lập tức tỏa ra tràn ngập căn phòng. Trước mặt Tracy và Rendell, Porretta để thứ rượu đó lên một miếng bông và lướt rất nhẹ lên chữ ký của Lucas, từng chữ cái một. Dần dần, nó biến mất. Dưới đó là chữ ký của Goya.
Renđell nhìn, đầy thán phục. “Tuyệt vời?”.
“Đó là ý của cô Whitney”, người lưng gừ thừa nhận.
“Cô ấy đã đặt vấn đề liệu có”thế phủ lên chữ ký ban đầu của họa sĩ một chữ ký rởm rồi lại phủ lên chữ ký rởm này một chữ ký nữa của họa sĩ?”.
“Ông ấy đã tính toán sẽ phải làm như thế nào”. Tracy mỉm cười.
Porretta khiêm nhường nói, “Thật quá sức đơn giản. Mất chưa đầy hai phút mà. Cái mẹo lã đi mất.
Tracy chỉ loáng thoáng biết những gì diễn ra sau đó.
Người ta thay quần áo cho nàng ở phía sau gian kho, và một người đàn bà nói. “Cô có vẻ ốm lắm, thưa cô. Cô có muốn tôi gọi một bác sĩ tới không”.
“Đừng, đừng gọi bác sĩ”, Tracy thều thào.
Lời Gunther loáng thoáng vọng về - Có một chiếc vé đi Giơnevơ đã được đặt sẵn cho cô tại phòng bán vé của Hàng không Thụy Sĩ. Rời khỏi Amstecđam càng sớm càng tốt Ngay khi cảnh sát biết vụ trộm, họ sẽ đóng cửa thành phố”.
đấy. Sẽ không có gì trục trặc đâu, nhưng dự phòng, đây là địa chỉ và chìa khóa của một ngôi nhà an toàn ở Amstecđam. Hiện không có ai ở đó cả”?
Sân bay. Phải ra sân bay ngay thôi. “Tắc xi”. Nàng lẩm bẩm. “Tắc xi”.
Người đàn bà lưỡng lự trong giây lát rồi nhún vai.
“Được thôi:
Tôi sẽ gọi xe. Đợi đấy”.
Người nàng như dâng lên cao, cao mãi, như gần sát tới mặt trời vậy.
“Tắc xi của cô đã đến”, giọng một người đàn ông nào đó.
Nàng chỉ muốn mọi người đừng quấy rối mình. Giờ đây nàng chỉ muốn ngủ yên thôi.
Người tài xế hỏi “Cô muốn đi đâu vậy, thưa cô?”.
Chiếc vé mấy bay đã đặt sẵn...
Nàng yếu quá, không thể lên máy bay được. Họ sẽ ngăn lại, gọi bác sĩ. Nàng sẽ bị tra hỏi. Lúc này nàng chỉ cần được nghỉ ít phút, rồi thì sẽ khỏe.
Giọng người tài xế bắt đầu sốt ruột. “Đi đâu, thưa cô?”.
Không có nơi nào để đến cả, nàng nới địa chỉ ngôi nhà an toàn.
Cảnh sát đang tra xét nàng về những viên kim cương và khi bị khước từ trả lời, họ đã trở nên giận dữ, ném nàng vào một căn phòng rồi mở hơi nóng vào cho tới khi tất cả nóng rực lên. Khi nàng không thể chịu nổi nữa, họ bèn hạ nhiệt độ trong xuống cho đến những hạt nước đá li ti ngưng tụ trên mặt các bức tường.
Tracy thấy lạnh quá, nàng mở mắt. Hóa ra nàng đang nằm trên một chiếc giường, người run lên bần bật. Phía dưới người cô là một tấm chăn mền, nhưng nàng không còn đủ sức để kéo nó phủ lên người nữa. Váy nàng ướt sũng, mồ hôi đầm đìa trên mặt và cổ.”.
Mình sắp chết mất. Đây là đâu nhỉ?
Ngôi nhà an toàn. Mình đang ở trong ngôi nhà an toàn. Ý nghĩ đó làm nàng bật cười, và tiếng cười chuyển thành chuỗi tiếng ho dữ dội. Thế là hỏng hết cả rời. Bây giờ thì hẳn cảnh sát đang sục sạo khắp Amstecđam để tìm nàng. Cô Whitney đã đặt vé đi Thụy Sĩ mà không dùng tới nó ư? Vậy thì cô ta vẫn còn ở Amstecđam.
Không biết là nàng đã nằm trên chiếc giường này bao lâu rồi, nàng nâng cổ tay lên để nhìn đồng hồ. Những con số cứ nhòe đi, mọi thứ nàng nhìn đều biến thành hai, thành bốn cả. Cơn run ngừng dần và toàn thân lại bắt đầu nóng rực lên. Nàng muốn mở một cánh cửa sổ quá, nhưng không nhúc nhích nổi chân tay, Căn phòng lại bắt đầu lạnh giá. “Em đã hoàn thành công việc. Em thật tuyệt vời Hãy đưa cho tôi cái hộp nào”. Jeff nói.
Jeff đã mang những viên kim cương đi, và có thể anh ta đang trên đường đi Brazln cùng với cả phần tiền của nàng nữa. Anh ta sẽ vui thú với những phụ nữ của anh ta, và cười nhạo nàng. Một lần nữa anh ta lại cho nàng một vố. Nàng thấy căm ghét anh ta. Không? Còn khinh bỉ anh ta nữa.
Hết cơn mê sảng này lại cơn mê sảng khác. Trái bóng Pơlôtta đang vun vút lao vé phía nàng. Jeff ôm choàng lấy và đẩy nàng xoài xuống đất, môi anh kề sát môi nàng và rồi họ đang ăn chiều tại tiệm Zalacain. Em có biết em là một cô gái đặc biệt không, Tracy? Jeff nói.
“Tôi đề nghị hòa”, giọng Boris Melnikov.
Toàn thân nàng lại run lên, không kìm được, và nàng thấy mình đang ở trong một chuyến tàu nhanh vùn vụt lao qua một đường hầm tối om. Tất cả các hành khách đều đã xuống tàu chỉ trừ có Alberto Pornati. Ông ta đang giận dữ la hét nàng và tóm lấy nàng lắc lấy lắc để.
“Hãy vì Chúa”, ông ta hét. “Mở mắt ra nào! Nhìn tôi đây này!”.
Bằng một cố gắng phi thường, Tracy mới mở mắt ra được, và Jeff đang cúi xuống nhìn nàng. Khuôn mặt anh trắng bệch và có vẻ cáu kỉnh gì đó trong giọng nói của anh ta. Hẳn cũng lạl là một phần eơn mê của nàng đây.
“Em đã thế này bao lâu rồi?”.
“Anh đang ở Braxin”, Tracy lẩm bẩm.
Sau đớ, nàng lại thiếp đi, không hay biết gì nữa.
Khi thanh tra Trigmant nhận được chiếc khăn quàng có hai chữ TW mà người ta nhặt được trên sàn máy bay chở hàng hóa của Hàng không Pháp, ông ta lặng nhìn nó hồi lâu.
Rồi ông ra lệnh, “Kiếm Daniel Cooper cho tôi”.