Chương 12

Ông Ngọ, tự vệ phố Hàng Khoai, một người thợ mộc đã đứng tuổi, từ trong phố ra, tay phải giữ lấy hai tấm phản trên vai, đầu ngoẹo vào để giữ riết lấy cái vật nặng. Ông chạy bành bạch đến đầu phố, trước cái hố dài đã đào ngang đường. Ông số 6 lần lượt đỡ hai tấm phản xuống, bắc lên miệng hố như hai cái cầu. Ông Ngọ bảo hai bác phu xe bò:
- Được rồi đấy, cho xe sang đi.
Một người phu nói:
- Cảm ơn các ông. Chúng cháu thế này là phiền các ông lắm. Các ông đang làrn việc công việc nước, chứ có phải là đứng chơi đâu…
Nhật Tân đứng trên hè, xua tay lia lịa, cái áo ra-gờ-lăng của anh xoè ra, để lộ nào kiếm Nhật, nào lựu đạn, nào súng lục lủng củng chung quanh cái thắt lưng Mỹ. Cái mũ nhung đen đội lệch sát một bên mắt. Hôm nay anh đeo kính cho thêm vẻ bí mật. Miệng phì phèo một điếu thuốc lá. Mặt anh dài ra, anh cười tít mắt, hai cái răng nanh chìa ra, to quá khổ át cả hàm răng. Anh dương dương tự đắc. Đến chơi một người bạn ở phố Hàng Khoai, thấy ở đầu phố tự vệ đang xẻ đường, anh đứng lại hoan hô anh em. Một cái xe bò chở nước mắm đi tới. Tự vệ bắt quay lại. Anh can thiệp, đòi anh em phải bắc cầu cho cái xe đi qua. Luôn mồm anh nói:
- Chúng ta là người Hà Nội, chúng ta phải lịch sự anh em ạ. Tự vệ phải giúp đỡ nhân dân. Chúng ta đào hố để ngăn giặc, nhưng không được làm phiền cho đồng bào.
Anh đứng trên miệng hố, hoa chân múa tay, giục mọi người như chính anh là một cấp chỉ huy. Lúc này, thấy người phu xe bò cảm ơn rối rít, anh gạt đi:
- Không. Tự vệ Hà Nội lấy việc giúp đồng bào làm vui. Chúng tôi không sợ phiền. Chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ của chúng tôi thôi.
Anh hô mọi người xúm vào đẩy cái xe bò. Còn anh thì hút thuốc lá tràn, con Lu lu đứng bên anh, cúi mình xuống miệng hố cào đất bằng hai chân trước. Ông Ngọ vùa đẩy xe bò, vừa làu bàu:
- Anh ta ở đâu mà cứ như ông tướng, làm đ… làm, đốc công không bằng!
Lòng ông nóng như lửa đốt, ông vẫn chưa lo được tiền cho vợ tản cư. Sinh hẹn ngày mai mới vay được một món, đề cho ông và bà Ngọ về quê. Nhưng tình hình thì mỗi lúc một găng. Tuy đào hố với anh em, nhưng ông chẳng bụng dạ nào vào công việc cả. Trên đầu, máy bay của Pháp lại lượn rầm rầm, y như vào lúc xảy ra vụ Yên Ninh hôm qua. Thỉnh thoảng lại vang lên những tiếng súng liên thanh. Ông nơm nớp cảm thấy có một việc gì nguy hiểm sắp xảy tới. Đã quá trưa. Trời âm u như muốn đổ mưa. Sau khi lính mũ đỏ vào bắt mấy chị ở chợ Đồng Xuân, phố xá vắng lặng một chốc lát, rồỉ bà con lại nhộn nhịp đổ ra đường. Trước cửa chợ, mấy thanh niên đang leo lên tường treo lại cái khẩu hiệu. Trên mặt đường, dọc theo đường xe điện, một tốp tự vệ đang lúi húi đào những lỗ nhỏ để chôn mìn. Trong phố Hàng Khoai, bà con đang tới tấp chạy ra úp các nồi đất vỡ xuống đường. Một chuyến xe điện ở Bưởi đi xuống, từ từ qua đầu phố Hàng Khoai, rung chuông lanh canh, inh ỏi. Trên xe chỉ lơ thơ một vài người. Anh em đang đào lỗ tránh sang hai bên để nhường lối cho xe chạy. Một bà, dáng người ngoại thành, lấm lét nhìn ra hai bên phố, rồi ngó đầu ra khỏi toa xe hỏi xuống:
- Trong phố vẫn yên chứ các cậu?
Tuy đứng ở sau nhiều người, Nhật Tân cũng tranh lấy trả lời. Anh nói một cách hãnh diện:
- Yên lắm. Có gì đâu. Bà không lo gì cả. Chúng tôi còn ở cả đây kia mà.
Xe điện đi khỏi. Anh quay lại nhìn bọn ông Ngọ đang xúm lại giúp hai người phu đẩy cái xe bò qua hố. Anh gọi: “Lu lu! Lu lu!” và huýt sáo miệng định đi. Bỗng phố xá lại ầm ầm lên. Một người đi xe đạp phóng như bay ở phía Hàng Giấy xuống, nói sang hai bên đường một cách tuyệt vọng:
- Nó chiếm sở Tài chính rồi! Nó chiếm sở Tài chính rồi!
Tiếng kêu râm ran:
- Nó chiếm sở Tài chính rồi! Nó giở mặt thực sự rồi!
Người chạy tới, người chạy lại. Có những tiếng súng nổ ở phía Cửa Đông.
- Nó chiếm sở Tài chính rồi!
Như lửa cháy lan đi, tiếng kêu truyền hết miệng người này đến miệng người khác. Một chú bé bán báo nhảy nhót giữa đám đông, cất tiếng rao như gào:
- Ta đánh đắm một tàu chiến Pháp ở Nam Bộ ơ! Ở Hải Phòng, quân Pháp không qua được cầu Niệm ơ!
Nhanh như chớp, Nhật Tân đã chạy ra nắm được càng xe của anh chàng về báo tin, hỏi chuyện một lúc, anh lại huýt sáo gọi con Lu lu quay về đầu phố Hàng Khoai. Mặt anh tái lại. Anh nói:
- Nó chiếm sở Tài chính rồi! Nó đem hơn một chục xe thiết giáp đến dàn hàng ngang trước sở, chĩa súng vào. Rồi nó hạ lệnh cho tất cả viên chức trong mười lăm phút phải ra hết. Thế là nó chia quân ra đóng. Thế là cả khu Cột Cờ xuống Cửa Nam vào trong tay nó. Nó khiêu khích hay ta khiêu khích? Không, không. Không thể để như thế được mãi. Phải chuẩn bị gấp mới được. Cái xe bò kia đi nhanh lên, để người ta còn đào. Sắp đánh nhau rồi còn chở nước mắm đi đâu cho khổ người ta! Mau mau lên các anh ạ. Có thể đánh nhau đến nơi. Được, đánh thì đánh. Cho nó biết tay người Hà Nội.
Nhật Tân ngả mũ chào mọi người rồi biến vào một nhà giữa phố.
Xe bò đã gần sang được bên kia đường thì một tiếng rao cất lên, ồ ồ, cộc lốc, như gào thét chứ không có cái ngân vang trầm bổng của kẻ rao hàng:
- Bánh cuốn nóng ra mua! Bánh cuốn nóng…
Ông Ngọ kêu:
- Nó vào đấy.
Ông cố đẩy cho cái xe bò sang nốt, trong khi mọi người đã lẩn hết. Khi ông chạy trở về thì phố xá đã vắng tanh. Một thằng Tây mũ đỏ say rượu ở đầu cầu chạy lại, chĩa súng vào một người đàn bà, miệng quát tháo, tay ra hiệu cho chị kia trở ra với nó.
Người đàn bà kêu rú lên:
- Đồng bào cứu tôi với! Đồng bào cứu tôi với! Nó bắt tôi đây này!
Vừa kêu người đàn bà vừa chạy về phía ông Ngọ, nấp sau lưng ông. Ông Ngọ vốn người chậm chạp, chưa biết làm thế nào thì thằng Tây đã tiến lại. Ông xua xua tay một cách vụng về. Nó bấm cò, một tiếng nổ. Ông giơ tay ôm lấy ngực, loạng choạng bước về phía tên giặc. Chị đàn bà đã chạy vào trơng cái ngõ bên đền Huyền Thiên. Tên lính mũ đỏ, cắm đầu cắm cổ chạy trở ra, giày đinh của nó rít trên con đường vắng, lổng chổng những nồi đất úp.
Đang ngồi nói chuyện với người bạn, thấy có một thằng Tây lọt vào phố, Nhật Tân reo lên: “Trời giúp ta rồi!” và nhảy bổ ra cửa để rình. Từ hôm qua, anh đi lang thang hết phố này sang phố khác, không phải để làm cái nhiệm vụ trinh sát của anh, mà để có một cơ hội bắn một thằng mũ đỏ. Cái tin nó chiếm sở Tài chính càng làm cho anh ngứa ngáy muốn ra tay. Thấy Nhật Tân rút khẩu côn-bát của anh ra, anh bạn van vỉ:
- Đừng khiêu khích nó, Nhật Tân.
Nhật Tân mắt vẫn không rời thằng Tây, tay đẩy người bạn:
- Nó khiêu khích hay mình khiêu khích? Không được sợ, không được sợ. Sợ là hèn nhát.
- Con mẹ kia chỉ là một con nhà thổ.
- Nhà thổ còn quý gấp trăm một thằng Tây mũ đỏ! Phải bảo vệ cả một con nhà thổ.
Đến khi ông Ngọ bị giết, Nhật Tân nhún vai nói với người bạn:
- Tu vois, mon vieux? Laisse moi en finir avec ce misérable. (1)
Người bạn chưa kịp giữ thì Nhật Tân đã nhảy ra đường, dẻo dang như một anh hùng trong phim ảnh, Lu lu cũng nhảy theo anh.
Anh chỉ còn cách thằng Tây không đầy hai thước. Nó tái mặt định chạy. Anh quát:
- À bas les colonialistes! (2)
Và anh nghiến răng, chĩa súng bắn thẳng vào ngực nó. Anh từ từ đút súng vào túi. Nhìn thằng Tây giãy giụa, cái mồm lút dưới mớ râu xồm đen ngáp ngáp, anh mỉm cười khinh bỉ, lấy giày hất cái xác sang một bên và lững thững đi về phía Đồng Xuân. Anh bạn kêu lên:
- Nó vào thì nó triệt hạ cả phố! Chết hết cả rồi! Bà con ơi!
Anh bạn cuống cuồng giục vợ con đi trốn. Ngoài cái phố nhỏ vắng tanh, chỉ có ông số 6. Ông đang ôm xác ông Ngọ, nghĩ thế nào lại đặt xuống, chạy tới ôm cái xác to lớn của thằng Tây, xốc lên vai, rồi biến vào trong đền Huyền Thiên. Một lúc ông lại chạy ra, ôm xác ông Ngọ về nhà. Mấy anh tự vệ liều mạng ra đường, quét sạch những vết máu để phi tang tích. Tiếng đóng cửa ầm ầm.
°

*

Ra khỏi lớp học, Sinh chạy hộc tốc về phố. Nhưng anh không về thẳng nhà, mà rẽ vào dền Huyền Thiên trước. Xác thằng Tây đã được đem giấu vào một cái hòm bốn chân, lẫn lộn với nhiều đồ lặt vặt không dùng đến. Bà cụ từ, già bảy mươi tuổi, mắt đã loà, hai tay ôm cái đầu trọc, ngồi trong buồng kêu khóc và nhiếc móc ông số 6.
Ông này đang quét cái sân đã sạch bóng. Đây là lần đầu tiên ông phải nghe những lời mắng mỏ của một người mà ông vẫn chịu ơn sâu sắc. Trong cuộc đời tứ cố vô thân của ông, – quê quán, bố mẹ, anh em, ngay cả tên tuổi của mình, ông đều không biết, – cụ từ như cha như mẹ. Ông đã đi ở cho nhiều nhà, nhưng chỉ vài hôm là ông xin thôi vì không chịu được mắng chửi. Ông đã đi phu đi phen, ông đã làm cho Nhật, nhưng rút cục ông đều trốn cả. Nhà cửa không có, ông chỉ tìm đến những ngôi chùa, ngôi đền để nương thân. Cuối cùng ông đến hầu cụ từ trong cái đền này, đã được vài năm. Ngày ngày ông vào phố quét tước các vỉa hè, thu dọn những đống rác do các hàng rong bày ra đường, và chờ bà con có việc gì sai thì làm. Năm đói, ông được người ta cho vào đoàn khất thực, và được đeo thẻ số 6. Đêm đêm, những cái đêm nghĩ đến còn rùng mình, ông đi nhặt những xác chết trần truồng chỉ còn đa bọc xương, trong đám những người đói nằm la liệt ngoài đường, dồn lại một đống để chờ xe xác đến mang đi. Tờ mờ sáng, sau khi những người đói còn sống sót toả đi các phố, xin ăn, ông lại rửa ráy sạch sẽ những chỗ vỉa hè, họ vừa nằm vừa bậy ra hôi thối đến lộn mửa. Sau đấy ông trở về đền quét dọn. Cái đền sạch sẽ đến nỗi ai vào lễ cũng thấy nhẹ lâng lâng. Rồi ông cầm cái rá đi lấy cơm của bà con sẻ cho. Những ngày cầu cúng trong phố, ông đi mượn hương án, cờ quạt, bát hương, cây nến. Hàng phố tin ông vì khi ông đem những đồ đạc ấy trả lại những nhà cho mượn thì không bao giờ lầm lẫn, mất mát. Sau cách mạng, khi bà con chuyển sang dựng cổng chào, bày bàn thờ Tổ quốc, thì ông số 6 lại đi mượn bàn, mượn ghế, mượn ảnh, mượn cờ, và cũng như trước, đâu lại trả về đó. Cũng từ đấy, ông không đi xin cơm nữa. Ông đi làm xe ba gác. Làm xe chẳng phiền luỵ ai, mà vẫn được chở nặng. Ông số 6 chỉ thèm những công việc nặng. Những ngày không được khiêng vác vất vả thì ông ăn không thấy ngon, ngủ không đẫy giấc. Tối tối, ông về đền quét dọn lần cuối cùng trong ngày rồi dù mưa dù gió ông cũng cắp chiếu ra ngoài cổng ngủ, vì trong đền, đêm nào cũng có khách buôn về trọ. Ngày rằm mồng một cụ từ thường cho ông cái oản, quả chuối, góc chè kho. Đấy là những món ăn ông quý nhất. Cũng từ cách mạng, người ta không gọi thằng số 6, bác số 6 nữa mà gọi là ông.
Hôm nay, ông số 6 không hiểu làm sao cụ từ lại gắt gỏng, nhưng ông không dám cãi. Với ai ông còn chẳng cãi, huống chi là cụ từ. Hai cái tai to của ông số 6 vảnh ra, như nuốt cả cái đầu bé phình trên thót dưới đúc từ một cái khuôn méo mó.
Sinh vào bàn với cụ từ, rồi trở ra bảo khẽ ông số 6:
- Ông chịu khó mang cái xác nó đi, để đây nó uế tạp cửa đền. Đưa lên Chèm hay vào Ngã Tư Sở tuỳ ông.
Ông số 6 nghĩ mãi mới nói được một câu, vì ông chỉ quen làm, không quen nói, quen chịu đựng, không quen suy nghĩ:
- Cháu cho lên cái xe ba gác của cháu. Vừa nặng đủ sức kéo.
Nói xong, ông khuân cái hòm ra xe của ông. Ônbảy, mặt bừng như hơ lửa, đôi mắt bồ câu lấp loáng cái sáng hồn nhiên của tuổi thơ và cái e thẹn của tuổi dậy thì. Tóc loà xoà trên hai vai mảnh khảnh, khuôn lấy cái mặt trái xoan hơi gầy, nhưng cái gầy ấy chỉ làm sắc sảo thêm, gãy gọn thêm những đường nét trong sáng sinh động dưới làn da tươi mát như nhung. Chân tay chưa nảy nở hết còn lọng khọng, vụng về, luôn luôn cử động. Hương như con chim nhỏ bỡ ngỡ trước cuộc đời lúc nào cũng như giật mình muốn vỗ cánh bay. Khác với Hương, Lan tuy mới ngoài hai mươi đã có cái dáng nặng nề xộc xệch của một người đứng bóng. Nước da trắng, mai mái, xoa phấn nhẹ, không còn cái nhuỵ ánh lên của những người đương độ. Đôi mắt nhỏ buồn buồn, mặt vô vị và không chuyển động như Phật, phản ánh một cuộc sống cấm cung, cách biệt với cuộc đời, khép nép và giả dối, âm thầm và lạnh lẽo. Đôi vú lép, do bà giáo bắt phải ép dẹp xuống, làm cho thân hình Lan thẳng tuột, cứng đờ. Những nốt trứng cá mọc dày trên hai má bì bì, càng tăng cái vẻ vô duyên, đồng thời cũng để lộ ra, ngoài ý muốn của Lan, một đời sống quạnh hiu đầy khát khao và thèm muốn. Qua những buổi sinh hoạt trong phố mà gần đây Lan được dự, con người nặng nề ấy đã có ít nhiều đổi khác. Cử chỉ đã bắt đầu nhanh nhẹn; môi đã nhếch cười, điều mà bà giáo thường nghiêm cấm. Những buổi sinh hoạt ấy đã mở cho Lan một cuộc đời mới. Như một chén rượu nhỏ cũng đã làm cho những người không quen uống say ngay, cuộc tiếp xúc với một thế giới khác lạ có một sức hấp dẫn đặc biệt đối với Lan. Ở đây, không có cái bóng của bà giáo trùm lên. Ở đây không có những buồn tẻ hàng ngày. Ở đây có một cái gì mà Lan sờ sợ nhưng nó vẫn đẩy Lan đi, ấy là sự gần gũi những anh em thanh niên, những cặp mắt nhìn Lan, những lời nói ý nhị có duyên, nó kìm Lan hơn nữa trong thế giữ mình, đồng thời nó làm rạo rực xác thịt, và làm nảy lên trong đầu nóng hổi của Lan những ước vọng vấn vương.
Lan cúi xuống, nhìn đôi giày da bụi bậm của Phúc, mỉm cười:
- Giày của anh thế kia kìa?
Phúc nói, hãnh diện:
- Còn đi đất nữa kia.
- Khiếp. Anh cứ nói.
- Còn các cô, nếu ở đây thì không được mặc áo dài nữa đâu.
- Con gái lại không mặc áo dài? Em biết rồi. Anh doạ chúng em. Nhưng chúng em chẳng sợ. Anh đi đâu chúng em đi đấy.
- Thế không về nữa à?
- Chúng em đợi cho cậu mợ và bà giáo tản cư rồi mới về nhà.
Một con chuột cống chạy vụt sát chân Lan. Chị rú lên, ôm chặt lấy em gái. Hương cười đắc chí, tiếng cười trong vắt. Hương ngửa mặt nhìn chị, vênh cái cằm hơi nhọn:
- Chị Lan ơi, có thế mà cũng sợ ư? Anh Phúc này, em đã xem chị Lan học tiêm rồi. Chị ấy cứ rờ rờ, cầm ống tiêm lên rồi lại bỏ xuống, rồi lại cầm lên, rồi rùng mình, nhắm mắt, nhắm mũi lại. Mấy hôm rồi cơ.
Lan quàng hai tay sang hai vai Hương, khẽ nói bên tai nó:
- Hương hẵng cứ làm được như chị.
Phúc nói:
- Không nói đùa nữa. Bây giờ hai cô nhất định phải đi. Anh nói thật. Hai cô không chịu đựng được như anh đâu.
Hương bĩu môi, rung rung:
- Em chịu được.
- Cậu mợ mắng anh chết.
- Đi đi chị Lan, không anh Phúc anh ấy lại bắt chúng mình tản cư. Chị Oanh chị ấy cười chết. Chị ấy đã hứa cho em dự lớp tuyên truyền xung phong rồi cơ.
Hương kéo tay Lan, định luồn qua cái lỗ tường, tà áo len dài của Hương quét cả xuống đất. Lan ngần ngại quay ra. Hương cười khanh khách. Phúc nói:
- Phải mặc gọn vào. Súng sính áo dài không được đâu.
- Thế là anh Phúc đồng ý cho chúng em ở lại Hà Nội rồi mới nói thế đấy nhé.
- Ra ngoài cửa mà đi. Lúc nào cần chui hẵng chui.
Hai chị em đứng bên cái lỗ quay lại nhìn Phúc. Người anh nói, nhân nhượng với hai em:
- Khổ thì đừng có trách ai, các cô nhớ đấy.
Bỗng Lan và Hương kêu lên, lùi lại. Một bóng đàn ông thấp thoáng đằng sau lỗ. Hai chị em né sang một bên. Một thanh niên đã lách mình chui qua lỗ. Cái mũ cát két, bộ quần áo vải tím của anh ta lấm tấm vôi cát, đôi giày da thuộc trắng xoá như bị vùi bột. Anh ta trạc tuổi Phúc, người cao cao, xương xương, nước da ngăm ngăm đen, mắt một mí, không nhỏ lắm, ẩn dưới bộ lông mày rậm. Anh định phủi bụi, nhưng thấy có hai cô gái sang trọng đứng đấy, anh lại thôi.
Phúc đứng dậy giới thiệu:
- Lan và Hương, em tôi. Các cô biết anh Sinh chứ?
Lan và Hương không nói, và Sinh khẽ gật đầu. Trước đây, anh quan niệm họ là những tiểu thư kiêu kì, thâm nghiêm kín cổng đối với anh xa vời vợi. Nhưng trong lời giới thiệu thân mật, Phúc lại coi Sinh như cùng ở trong một hoàn cảnh xã hội với anh. Sinh ngượng như người bị mắc cỡ. Vốn là một người nhát đàn bà, anh càng lúng túng, không dám nhìn hai cô tân thời. Phúc nói với hai em:
- Bây giờ thì anh đi với anh Sinh đến lớp. Anh không về nhà nữa đâu. Nếu cậu mợ tản cư thì anh mới về.
Anh quay sang nói với Sinh:
- Lan, Hương cứ đòi ở lại, không chịu về với cậu mợ tôi.
Sinh vẫn không nhìn hai người con gái:
- Các cô các cậu rất đáng quý…
Anh vẫn gọi những con nhà giàu sang là cô và cậu, với cái giọng lễ phép của một người dưới họ về phương diện tiền của, địa vị và học thức. Trong thâm tâm anh không có cảm tình với những người buôn bán, sang trọng, mà anh cho toàn là bọn lừa lọc. Nhưng anh rất mừng khi thấy một số công tử và tiểu thư trong phố ở lại để kháng chiến. Những người như anh thì kháng chiến đã đành. Nhưng còn họ là những người ăn trắng mặc trơn mà cũng ở lại thì thật anh không sao hiểu được. Trong cái ngạc nhiên có lẫn cả tình thương. Những người khổ thường thương người hơn chính thương mình. Hình như họ cho cái khổ là phần riêng của họ, và họ phải gánh lấy hết. Từ khi Phúc vào t bảo tôi.
Phố Đồng Xuân, người đi lại càng nhốn nháo. Những mảnh gạch ngói vãi tung cả khúc đường rộng. Bụi bốc mù trời. Nhưng phố xá không bị thiệt hại lắm. Năm cái vòm chợ vẫn đứng nguyên sừng sững. Khói bốc lên cuồn cuộn, phủ kín cả lá cờ trên nóc. Cái trụ của vòm giữa bị đánh băng đi, một nửa vòm sạt xuống. Mấy cái cáng khiêng người đầm đìa máu len lỏi trong đám đông. Trước cửa cái nhà ba tầng của Cự Lâm, ba cái xe ô tô chờ sẵn. Sinh rảo bước. Vừa tới đầu phố Hàng Đường, Sinh quay lại. Một người hớt hơ hớt hải kêu:
- Nó kéo vào chùa Tây đen rồi!
Sinh nhìn ra thì là Phú, anh thợ giặt trong trung đội mình. Anh giữ anh bạn lại. Phú giằng ra:
- Bỏ ra! Cứ bảo người ta ở lại, chẳng giữ gì cả. Nó phả tơi bời ra rồi. Nó vào thì chết hết.
Sinh nói:
- Mình là tự vệ phải ở lại chứ.
- Tự vệ cái con… Tự vệ này…
Phú nắm tay đấm thẳng vào mặt Sinh và cắm đầu chạy. Sinh nổ đom đóm mắt, loạng choạng một lúc mới định thần lại. Chợt anh trông thấy ông Tiến Lợi, anh mừng quá. Ông ta là một người to béo, mọi ngày lúc nào cũng mũ ca-lô sao vuông, mặc toàn ka-ki, đeo súng lục, rõ ra một ông đại đội trưởng tự vệ. Nhưng lúc này, ông đội khăn xếp, đánh cái áo bông dài, không cài được cúc, người ông như một nồi cơm đầy lè. Sinh chạy đến hỏi:
- Ông đi đâu đấy?
Ông không nhìn Sinh, vì đang lo trông cho người nhà khiêng hòm xiểng lên xe xích lô. Ông ta nói:
- Ừ, đi. Đi cả đây mà.
Ông lên xe, giậm chân ình ình.
- Chạy nhanh lên. Ra ga Hàng Cỏ.
Sinh ngẩn người nhìn cái xe phóng như gió. Anh quay đi, định đi tìm anh em. Cự Lâm đang gắt người nhà lễ mễ khuân đồ đạc lên xe ô tô. Bà giáo đã ngồi trong cái xe trước với lũ trẻ con. Bà cáu kỉnh bảo Cự Lâm:
- Mau lên. Mau lên. Anh lên xe đi.
Cự Lâm nói:
- Thằng Phúc, con Lan, con Hương nó đi đâu chưa về.
- Kệ chúng nó. Mau lên. Tôi sốt ruột lắm rồi. Khổ lắm nữa. Xe này chạy trước đi vậy. Bảo chạy từ mấy hôm nọ không chạy kia.
Bà Cự Lâm chạy ra xe, nhưng chân ríu lại. Bà ngã khuỵu xuống. Bà kêu và nói như mấy đứa con cũng ở ngay đấy:
- Phúc, Lan, Hương ơi! Mợ bảo. Cái chỗ mợ dặn thì nhớ lấy, các con ạ.
Cự Lâm đỡ vợ dậy, đẩy vào trong xe. Thấy Sinh đi qua, bà khóc khóc mếu mếu, thò tay ra giữ lấy áo anh:
- Các ông trông nom các cháu hộ chúng tôi nhé. Chỗ bà con cùng phố với nhau. Có gạo đấy, các ông cứ dùng…
Bao cũng đưa Trinh và con Diễm lên xe. Anh lạnh lùng bảo người sốp-phơ:
- Bờ Hồ.
Người tản cư vẫn chạy tán loạn giữa cái phố xác xơ hoang tàn. Bụi khói đã tan dần, để lộ lá cờ trên nóc chợ quấn lấy cán, xo ro dưói bầu trời xám ngoét của buổi chiều. Một chú bé bán báo rao lanh lảnh. “Báo Cứu quốc ơ! Ông Võ Nguyên Giáp hiệu triệu thanh niên sống chết với thủ đô ơ! Sống chết với thành Hoàng Diệu ơ!” Nó không còn một tờ báo nào trong cái cặp của nó, nhưng nó cứ hát vang lên, át cả những tiếng ồn ào của những người hỗn loạn. Nó cầm lấy tay một thanh niên, kéo đi. Không rao nữa, nó nói: “Ê, ê! Thanh niên Hà Nội chạy giặc!” Rồi nó lại rao: “Sống chết với thủ đô ơ!” Anh thanh niên nói: “Thôi thôi! Đừng rao nữa. Đừng rao nữa!”
Giữa lúc ấy, có những tiếng reo vui làm ấm lòng Sinh, như một luồng nước nóng chảy vào một dòng nước lạnh. Một lá cờ đỏ loé lên. Một đơn vị bộ đội, mũ ca-lô sao vành lấp lánh, mình mặc áo trấn thủ xanh lá cây, chân đi giày, từ đầu phố tiến vào. Súng trên vai tua tủa, các chiến sĩ diễu qua phố, bước chân rầm rập, đều đặn và oai nghiêm như trong ngày kỉ niệm Quốc khánh lần thứ hai ở vườn hoa Chí Linh. Tiếng hát cất lên:
Đi là đi chiến đấu
Đi là mang mối thù thiên thu
Tiếng hát tràn ngập lòng mọi người, tràn ngập toàn khu phố. Nòng súng sáng biếc trong bóng chiều. Những người đang lố nhố trên đường vội giạt cả sang bên hè và cuống quýt vẫy tay chào đoàn quân diễu qua. Những cánh cửa đóng im ỉm bỗng mở toang. Thanh niên đang đục tường ở trong nhà, nhảy ra đứng trên thềm, người giơ thuổng, người giơ xẻng, nhảy nhót, rối rít. Một tiếng nói vang lừng:
- Hoan hô bộ đội Việt Nam. Chúng tôi cũng đang chuẩn bị để giữ nhà, giữ con đường phố của chúng tôi đây. Hoan hô!
Một bó hoa ở trên một nhà gác ném xuống. Tiếp đến nhiều bó hoa nữa bay xuống đám chiến sĩ. Tiếng hát vẫn vang lên. Hàng ngũ bước đi hùng dũng, cuồn cuộn, nhấp nhô, như dòng suối xanh mát giữa hai bờ cao oi ả. Sinh thở phào, nhẹ như đang mang nặng có người giúp sức.
Chú thích
(1) Mày trông thấy chưa? Cứ để tao kết liễu đời cái thằng khủng khiếp này.
(2) Đả đảo bọn thực dân!