Phần Hai
Nàng tiên trên cung quảng và con chó vàng

Mấy ngày sau ông ngoại lại vào. Sau khi thăm bệnh cho tôi, ông gọi mẹ tôi vào bảo:
- Thằng Vững nó bị bán thân bất toại rồi.
Mẹ tôi sầm mặt lại nhăn nhó đến khó coi. Nỗi thất vọng hiện ra rõ nét. Như thế có nghĩa là nó mang tật nguyền suốt đời sao?
Nó nằm chết gí một chỗ, phải mất một người hầu hạ, nâng giấc.
Bà mếu máo:
- Thầy bảo con phải làm thế nào bây giờ? Lộc con lộc của ở đâu thì chẳng biết, chứ tai vạ suốt từ ngày đó cho đến nay còn gì. Tất cả là tại nhà con hết. Giờ đâm ra một nách ba đứa con mọn, chồng lại đi công tác thoát ly chẳng đỡ đần được gì. Có chú Thìn ở nhà trông nom chúng nó giúp con thì bố thằng Thành lại cho đi tòng quân. Nay cái bệnh bắt nó nằm liệt đấy, ai là người hầu hạ?
Rồi mẹ tôi khóc òa lên:
- Sao cái thân tôi khổ sở thế này! Nào tôi có ăn ở bất lương mà ông giời đầy ải đời tôi long đong lận đận gian truân như vậy. Con với cái! Sống thì nuôi, chết thì chôn cho rảnh. Chứ sống như thế, sau này cũng chỉ ăn báo cô thôi...
Ông ngoại gắt lên:
Bán thân bất toại: Bại liệt nửa người.
- Ô hay con mẹ thằng Thành lạ nhỉ? Có con thì phải khổ với con chứ.
- Nhưng nó có phải... lại dở sống dở chết như vậy thì ai hầu hạ suốt đời được.
- Thì cứ cố chạy chữa thuốc men đã.
Mẹ tôi phân trần:
- Thì thầy tính chạy chữa đến bao giờ? Cắt thuốc như uống nước vối ròng rã hơn năm trời rồi có ít ỏi gì đâu. Kiếm được đồng nào là đội nón ra đi sạch, lại còn mang công mắc nợ nữa.
Nói rồi bà sụp xuống bậc cửa khóc hu hu, than thân trách phận, kể lể mọi công lao khó nhọc bấy lâu nay làm cho ông ngoại cũng phải mủi lòng. Ông vê điếu thuốc lào tra vào nõ điếu, rồi châm lửa hút. Ông ngồi ngẫm nghĩ hồi lâu mới nói:
- Để thầy lo liệu vậy. Giờ các con lớn đều đã ra ở riêng cả rồi. Mẹ mày qua đời đã đoạn tang. Nay chỉ còn thằng Tùng, con Thảo, con Chín và thằng Phùng ở với thầy. Con Chín với thằng Phùng thì bé quá. Công việc đồng áng dồn lên vai thằng Tùng với con Thảo thì làm không xuể. Nên thầy tính chia ruộng đều cho các con. Gái cũng như trai. Ruộng nhà ta cả thảy có ba mẫu, con nhận lấy mấy sào mà cấy.
Mẹ tôi nói xen vào cắt ngang lời ông:
- Con đi chợ suốt ngày bán hàng nuôi các cháu, làm sao mà cấy được?
- Để thầy nói hết đã nào! - Giọng ông ngoại hơi sẵng - Thì con cứ nhận. Thầy sẽ bảo thằng Tùng con Thảo nó làm giúp.
Tôi nằm im ắng nghe ông ngoại với mẹ tôi bàn tính lo toan cho số phận của tôi mà lòng những ngậm ngùi buồn tủi xen lẫn giận hờn. Tôi bỗng cảm thấy tai họa thật sự đã giáng xuống cuộc đời mình ngay từ khi bắt đầu ốm cơ. Và bi kịch ngày càng hiện ra một cách khủng khiếp thê thảm. Giả sử nếu có sống, sau này lớn lên tôi cũng chỉ là con người vô dụng. Giờ đây tuy đã có hy vọng sống lại mà sao tôi lại muốn chết quách cho xong! Bởi sống mà suốt đời ăn bám bố mẹ, anh em thì sống làm gì? Sống như vậy thì tủi hèn lắm, cay đắng lắm.
Ông ngoại chia ruộng cho các con thật. Không những thế, ông còn chia đều tài sản từ cái bát cái đũa trở lên. Ông cho người đi gọi cha tôi về. Cha tôi chỉ nhận ba sào ruộng thôi. Còn tài sản cha tôi nhường phần của mẹ tôi cho thêm cậu Phùng, là em rốt mới mười một tuổi. Nhưng ông ngoại vẫn ép cha tôi phải nhận cái đỉnh, một cái nồi mười lăm cùng với đôi mâm đồng và cái chậu thau lớn. Ngoài ra ông ngoại còn cho cha tôi tất cả những cuốn
sách thuốc của mình. Để đầy một cái hòm gỗ lớn. Ông ngoại bảo cha tôi là người hiếu học, sáng dạ, lại có đức nên ông muốn truyền lại nghề thuốc cho. ít lâu sau, ông ngoại gửi thuốc và miếng cao hổ cốt bằng bao diêm vào cho tôi. Ông viết thư dặn dò tỉ mỉ và nhắc nhở tôi phải gắng sức uống hết nửa lạng cao đó.
Quả đúng như trong thư của ông ngoại. Uống cao hổ rất tanh. Thỉnh thoảng ợ nước miếng lên miệng thì tanh lắm, vẫn không được khạc, được nôn ra. Khó hơn cả uống thuốc bắc. Tôi cố ráng sức chịu đựng. Chịu đựng một cách nhẫn nại. Sức khỏe của tôi hồi lại trông thấy, trong người nhẹ nhõm, đầu óc lúc nào cũng tỉnh táo. Tôi đã thấy đói và thèm ăn đủ thứ.
Ngày ngày mẹ tôi thức giấc từ sớm tinh mơ nấu cơm để lại cho ba anh em chúng tôi rồi gồng gánh đi chợ. Anh Thành sau khi bón cơm cho tôi ăn xong, đưa thằng Bền sang gửi bên nhà chị
Nhàn, đi học cho đến chiều mới về.
Nhà chỉ còn một mình tôi nằm ở phản. Nhớ lời ông ngoại dặn, tôi cố cử động tay chân. Thật khó khăn. Thân thể, tay chân tôi như thân cây chuối nằm thẳng đơ. Tôi cố lấy sức lăn toàn thân lật sang phải hoặc sang trái đều không thấy động đậy gì. Gắng sức
đến vã mồ hôi cũng chẳng ăn thua. Suốt sáng sang chiều, rồi tới tối. Đến lúc mệt quá là ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Cuối cùng tôi đành tìm cách tập khác. Tay chân bên phải có khá hơn bên trái. Vậy là cả ngày lẫn đêm, hễ lúc nào thức là tôi cử động chúng.
Thời gian nặng nề và chậm chạp trôi qua.
Thời gian trở thành một sự thử thách khắc nghiệt đối với tôi.
Nó câm lặng nhưng cám dỗ cuộc sống làm sao! Nó làm cho con người vui tươi, ham muốn, ước vọng. Song cũng sẵn sàng quật ngã con người đến thất bại, và làm họ nản chí đến rã rời.
Không còn cách nào khác, cuộc sống buộc tôi phải kiên trì, kiên trì một cách bản năng. Rồi đến một lúc, các ngón chân, ngón tay bên phải của tôi cử động được nhanh hơn, hoạt hơn. Tôi liền tập cả bên trái. Rõ ràng bên này thật khó suy suyển. Phải rất lâu mấy ngón tay mới động đậy còn các ngón chân vẫn "nằm ì ra" như chết rồi, như không phải là ngón chân nữa.
Dần dà bàn chân phải, bàn tay phải, rồi chuyển tới cổ chân, cổ tay cử động. Tôi tập co vào, duỗi ra, rê đi rê lại. Rồi tiến cao hơn là thử nhắc tay chân lên. Đến khổ. Gắng sức nâng tay nâng chân lên vừa khỏi mặt phản thì nó rơi đến bịch xuống ngay. Cứ thế đến
hàng trăm hàng nghìn rồi hàng vạn lần, lặp đi lặp lại không biết chán, không biết mệt mỏi, chân tay bên phải của tôi mới tự nâng cao lên khỏi mặt phản được một chút, lâu chừng vài chục giây làcùng. Nhưng tôi không nản. Vả lại tôi cũng không còn biết cậy nhờ
ai xoa bóp và "khởi động" giúp cho tay chân co duỗi.
Chắc chắn là do công hiệu của thuốc cùng với tác dụng của cao hổ cốt và sự kiên trì luyện tập mà chân tay bên phải của tôi cử động co duỗi mau lẹ hơn, tay bên trái cũng bắt đầu chuyển biến.
Vậy là tay chân bên phải cứ đạp tứ tung quờ quạng loạn xạ. Và rồi tự đẩy thân thể di động xê dịch trên phản. Cổ cứng dần và đã nhấc nổi đầu lên. Lật được người bên này sang bên kia rồi. Sướng quá!
Lần đầu tiên lật úp được người xuống phản thì lại khốn, vì không thể nào xoay người lật ngửa lên được. Tôi tìm mọi cách. Nhưng chỉ có một bên tay chân phải cử động nên chẳng ăn thua gì.
Mệt rã rời và đói quá, tôi đành cứ nằm úp người xuống mặt phản như thế suốt ngày. ỉa đái dầm dề nhầy nhụa. Đến khi anh Thành đi học về thấy thế khiếp quá kêu chị Nhàn sang bế tôi ra vại nước tắm rửa cho mới thoát nạn.
Tôi vẫn cứ tập. Được cái là chị Nhàn thỉnh thoảng lại chạy sang lật người cho tôi nằm ngửa.
Cứ thế, tháng này nối tiếp tháng sau. Cho đến mùa con nước năm tới lại lên, tràn vào mép hiên nhà thì tôi ngồi dậy được. Lúc này tay bên trái co duỗi, giơ lên hạ xuống chỉ kém tay bên phải ba bốn phần. Chân trái bắt đầu có tín hiệu nhúc nhích cử động. Nỗi
khát vọng được đi lại, chạy nhảy, nô đùa như anh Thành, thằng Bền, như chúng bạn xóm Núi Ngang càng nôn nao rạo rực trong lòng tôi. Trí nhớ và sự nhận biết ngày càng hồi phục thì nỗi khát vọng, mơ ước được như mọi đứa trẻ có tay chân khỏe mạnh ngày càng cháy bỏng, thôi thúc và dằn vặt tâm can tôi. Tròn một năm sáu tháng tôi nằm bệt trong xó nhà nên thèm lê từ phản sang giường, từ góc nhà này tới bên góc nhà kia, thèm ra tới ngoài hiên nhìn cánh đồng ngập nước mọc đầy cỏ bái, được trông thấy núi Cháy ở bên kia cánh đồng nom giống như con gà trống vươn cổ gáy đánh thức mặt trời buổi sớm. Trước khi tôi bị ốm, buổi tối nào, lũ trẻ con xóm Núi Ngang cũng tụ tập nhau ngồi nhìn những đốm sáng di động, lúc ẩn lúc hiện lạ kỳ trên sườn núi đen kịt để dứ dọa đứa nhát gan, bảo đó là "ma trơi", làm nhiều cu cậu và bọn cái hĩm sợ té đái ra quần; hoặc ngồi nghe tôi kể chuyện. Tôi thèm được leo lên sườn núi bắt chim, nằm trên hang đá cao lưng chừng núi hóng mát. Thèm đi hái sún đá vào những ngày mưa rào tháng ba mang về nấu canh chua, hoặc luộc lên ăn sần sật như mộc nhĩ, lại có vị chua chua. Thèm được chèo thuyền chơi trên cánh đồng nước hái những bông hoa súng tim tím đến là đẹp. Thèm được cắp sách tung tăng đến lớp học với chúng bạn, nghe ông giáo Kỳ giảng bài, hoặc nghe ông kể những chuyện về người thổ dân da đỏ châu Mỹ, người Eskimô ở Bắc Cực, hay những con đười ươi ngửng mặt cười nhăn nhó với ông trời. Tôi yêu quý và kính phục sự hiểu biết của
ông giáo. Không hiểu bây giờ ông có còn kể nhiều chuyện cho lũ học trò cứ há hốc mồm, nghếch mặt ngồi nghe nữa không?
Sún đá: một loại địa y mọc ở vách đá vôi, mùa hanh khô teo đi, gặp mưa rào tháng
ba nở như mộc nhĩ.
Tới kỳ nghỉ hè, anh Thành ở nhà nên tôi đỡ buồn. Nhưng anh ấy ham chơi nên chốc chốc lại tót sang nhà hàng xóm, có hôm đi biệt đến trưa mới về. Cố nhiên là tôi không dám mách mẹ. Lơ mơ là anh Thành dọa đánh liền. Chẳng riêng gì tôi, thằng Bền mà đòi theo phá thối cũng ăn bạt tai, đá đít... Thành thử vẫn chỉ có mình tôi ở nhà, vẫn tự luyện tập một mình.
Cũng may là cái Dung thường sang chơi với tôi luôn. Có hôm ở cả ngày. Tôi nói với nó:
- Từ khi ốm dậy đến giờ tớ quên không biết đứng nữa rồi.
- Không phải đâu. Tại đằng ấy còn yếu quá đấy.
Tôi thú nhận:
- Tớ như đứa bé mới mười tháng ấy, phải tập lẫy tập bò đến
khổ.
- Cứ chịu khó tập đi, đã có tớ giúp.
Thế là nó giúp tôi tập đứng. Hôm đầu cái Dung hăm hở bặm môi bế xốc tôi dậy, nặng nhọc lễ mễ như con cóc tha con nhái. Tôi hơn nó chừng một tuổi là cùng. Giá như tôi không bị ốm chắc nó chỉ cao đến tai tôi thôi. Nhưng bây giờ nó đã nhỉnh bằng đầu tôi
rồi. Nó để cho hai bàn chân tôi chạm xuống mặt phản thì buông tay ra định xốc lại cái quần của nó bị tụt. Không ngờ hai ống chân tôi dài ngoằng giống đôi ống nứa tép mềm nhũn như bún. Nó không kịp đỡ, đành để cái quần tụt giải rút tuột xuống đầu gối mà
tôi thì vẫn cứ ngã đổ chổng kềnh xuống phản, hai chân trẹo ra, đau điếng đến nỗi tôi bật khóc òa. Cái Dung càng hoảng hốt và sợ hãi. Nó lúng túng quên khuấy kéo quần lên, và cũng chẳng biết làm gì, òa lên khóc theo.
Nghe thấy tiếng hai đứa trẻ khóc, chị Nhàn chạy sang nom cảnh ngộ chúng tôi đến tức cười. Cái Dung quần tụt xuống đến chân, đứng mếu máo. Còn tôi hai chân ống giang xoạc ra, mặt nhăn nhó, miệng sụt sịt.
Chị Nhàn bế tôi lên, nắn nắn hai chân:
- Không sao... không sao! Cả hai đứa nín đi nào. Dung, mày kéo quần lên thắt lại giải rút đi chứ.
Rồi chị kéo cái Dung ngồi xuống sát vào mình:
- Thôi nín đi. Chị nắn lại chân thằng Vững rồi. Mày là con bé ngoan lắm. ở chơi với nó nhé.
Ngồi với chúng tôi một lúc thì chị về nhà. Nhà chị Nhàn chỉ có hai mẹ con. Tôi không rõ mẹ con chị ở đâu mà chạy vào tản cư tới ở trong núi Ngang này. Và tôi cũng không được biết mẹ con chị sinh sống bằng cách gì. Mẹ chị đi suốt ngày. Bà hiền lành phúc hậu lắm. Tối tối bà vẫn sang bên nhà tôi chơi. Có hôm ngồi bế tôi suốt buổi. Chẳng mấy khi thấy bà nói chuyện. Chị Nhàn giống mẹ như đúc, tuổi mới mười lăm, mười sáu là cùng. Dáng người chị mảnh khảnh, bộ ngực bắt đầu nở nang, không vấn tóc như các bà các cô ở đây mà chị buộc túm lại phía sau bằng một sợi len đỏ.
Gương mặt trái xoan, hơi gầy, xanh xanh, được đôi mắt tròn to và sáng lúc nào cũng như đang cười. Chị ở nhà băm bèo nấu cám nuôi hai con lợn, chẳng hề đi chơi đâu. Chỉ tới mùa cấy, khi lúa đang thì con gái chị mới đi kéo vó te, kiếm được rõ nhiều cá vụn và tôm
tép, ăn không hết, đem phơi khô la liệt mẹt nọ giần kia rồi cho vào hũ đậy kín bằng lá chuối khô, để làm thức ăn phòng ngày mưa bão chứ không đem bán.
Tôi không dám tập đứng tênh tênh như đứa trẻ mười tháng, và cũng không chịu để cho cái Dung bế thốc đứng lên rồi buông tay ra nữa. Sau cái lần ngã đau điếng người ấy, tôi hoảng sợ thực sự.
Có lẽ không bao giờ tôi có thể đứng được chứ đừng nói đến chuyện đi lại, chạy nhảy. Thành thử khi mót đi tiểu hay muốn ra ngoài hiên ngắm nhìn bầu trời, đồng nước, núi non... tôi chỉ còn cách bò ra mép phản, tụt người ngồi bệt xuống đất lê đít "đi" thôi.
Cái Dung không chịu bó tay. Nó loay hoay tìm cách. Ngày nào cũng xăng xái một cách nhiệt thành. Nhưng cũng chả tìm được cách gì. Nó ngồi đần mặt ra, rồi nựng tôi như nựng em bé:
- Đằng ấy không chịu tập đứng thì chẳng bao giờ đứng được đâu, chẳng bao giờ đi lại được như tớ đâu. Đằng ấy chịu khó để cho tớ bế lên vậy. Tớ không để đằng ấy ngã nữa đâu mà sợ.
Nó nói rõ nhiều. Rằng nó sẽ đứng ôm chặt lấy tôi để cho hai bàn chân của tôi đặt xuống mặt phản cho quen. Thật quen đã. Rằng sau đó nó mới buông tay, nhưng để tôi vịn chặt vào người nó.
Như thế sẽ không bao giờ ngã. Giọng nó thân thiết dịu ngọt lạ
lùng:
- Như thế sẽ không ngã đâu. Thật mà. Đằng ấy đừng sợ.
Tôi buộc phải nghe theo nó chứ còn biết làm cách nào để tự đứng lên được mà tập đi. Anh Thành thì ham chơi quá không mấy khi nhòm ngó đến tôi. Anh ấy có cái thói biết mẹ tôi về vào lúc nào là anh ấy về trước một tí để dọn dẹp nhà cửa cho gọn kẻo mẹ tôi rầy la. Thành thử bà không thể biết ở nhà anh Thành như thế nào. Nhiều khi còn khen anh ấy nữa. Được thể anh Thành càng lên nước. Tôi và thằng Bền sợ anh bằng phép. Ngậm miệng không dám mách điều gì. Tôi chỉ còn nhờ được cái Dung thôi.
Hai đứa chúng tôi cứ ôm nhau đứng lên ngồi xuống suốt buổi. Bởi tôi vẫn sợ ngã, ôm chặt lấy cái Dung chứ không chịu để cho nó buông tay ra.
Ngày hôm sau. Rồi ngày hôm sau nữa. Cũng thế. Thực tình tôi nản lắm rồi. Song cái Dung vẫn không chịu buông tha. Đầu óc tôi trì độn quá không tìm được cách khác. Còn
cái Dung lại vẫn luẩn quẩn với cái trò bế tôi đứng lên. Cũng lạ. Nó không biết mệt hay sao?
Chị Nhàn đã sang gỡ thế bí cho chúng tôi. Chị mang chiếc ghế đẩu ra, đặt bụng tôi áp vào mặt ghế để thõng hai chân chạm xuống mặt đất cho quen dần đã. Có thế mà chúng tôi cũng không nghĩ ra! Tôi cảm thấy thoải mái chứ không gò bó như để cái Dung bậm môi gắng sức bế đứng dậy. Lúc nào mỏi, hoặc chán thì tôi mới tụt người ngồi bệt xuống đất chẳng hề đau đớn gì. Cứ thế thành quen.
Rồi tôi đủ sức từ từ vươn thẳng người đứng vịn chặt vào thành ghế. Thích quá! Tôi ngây ngất vì vui sướng. Và, lần đầu tiên tôi để ý đến cái Dung. Nhà nó chạy tản cư vào Núi Ngang cùng với nhà tôi. Bố nó cũng đi kháng chiến nên ở nhà chỉ có hai mẹ con nó thôi. Bác Vinh gái là dân thành thị nên thạo buôn bán lắm, nhà lại khá giả. Cái Dung cùng học với tôi một lớp. Tính nó nhẹ nhàng ít nói. Nó chơi với tôi đến thân và rất thích nghe tôi kể chuyện. Có bao giờ tôi để tâm đến nó đâu. Tôi cứ mải những chuyện đẩu đâu, hết sách lại vở, vùi đầu vào đọc truyện. Còn nó thì hễ rỗi rảnh lại sang chơi với tôi luôn. Tự nó đến chứ chẳng ai xui hay khiến mà tôi cũng không thể nài bắt nó được. Nó chẳng mấy khi rời tôi nửa bước.
Lúc này cái Dung đang ngồi ở phản nhìn tôi đứng vịn vào ghế đẩu. Hẳn nó cũng thấy vui thích nên gương mặt tươi tắn lắm. Hai núm đồng tiền bên má lộ rõ, đến xinh. Nó trắng trẻo, mặt trái mận, có mái tóc dài chấm gấu áo sau lưng đen nhánh.
Cả tôi lẫn cái Dung đều đã chín mười tuổi rồi. Bọn con trai như tôi vẫn mải chơi, ham nghịch và vẫn còn tắm truồng tồng ngồng ngoài vại nước. Nhưng cái Dung đã bắt đầu biết giữ ý tứ, e thẹn và xấu hổ. Nó ra dáng người lớn hơn tôi. Không hiểu sao tôi cảm nhận
mọi sự ân cần của nó, ngoan ngoãn như một đứa em trai với chị gái. Phải thế chăng mà cái Dung mỗi ngày một khẳng định thêm sự khôn lớn của nó bằng cách cư xử, chơi đùa với tôi và chúng bạn.
Cảm thấy mình đã đứng vững, tôi thử buông tay vịn ghế ra.
Một đứa trẻ chín mười tuổi lại tập đứng tênh tênh như đứa bé chín mười tháng. Chao ôi... đứng buông được tay ra đến là thích! Cái
Dung thấy thế mừng quá nhảy tót xuống đất, reo rối rít:
- Đứng được rồi! Đứng được rồi!...
Tôi nhìn nó, tít mắt cười khoái chí, cũng reo theo nên mất thăng bằng ngã bệt xuống ngay. May, cũng chỉ là đau đít thôi.
Sang bước tập cao hơn: tập đi. Lúc này đầu óc tôi cũng không đến nỗi đần độn lắm. Tôi tự tìm ra cách cho mình tập. Tôi lần quanh giường, quanh phản cho hai chân thêm cứng cáp, cho bàn chân bám vào mặt đất chắc chắn hơn, "thật " chân hơn. Tôi mê mải say sưa. Càng lần đi càng hăng càng vững hơn. Hai đầu gối bớt run hơn, chân bước mạnh bạo hơn. Tôi với cái Dung hoặc thằng Bền chơi trò đuổi nhau quanh giường. Chúng nó cứ đứng chờ cho tôi lần đi gần tới thì lại nhảo ra xa hơn, đến tức. Nhưng mà ham.
Lại còn thích nữa. Nhà lúc nào cũng vang tiếng la hét, tiếng reo cười nắc nẻ đến ồn ã. Không còn vắng lặng, tẻ nhạt, cô đơn nữa.
Sau đó, tôi bảo chúng nó xếp giúp cho mấy cái ghế đẩu cách xa nhau hơn từ phản ra cửa, rồi ra hiên.
Tôi đã đi ra được đến hiên, rồi xuống sân. Nói là "đi được" nhưng chỉ có chân bên phải là co bước được thôi. Còn chân bên trái vẫn còn quá yếu nên chỉ kéo lết trên mặt đất. Song dầu sao tôi vẫn tự đi được ra sân, mặc dù phải vịn vào ghế, cũng thấy khoái lắm rồi. Bầu trời đã hiện ra trước mặt. Tôi lại nom thấy núi Cháy và dãy núi đá vôi trùng điệp chẳng rõ nó bắt đầu từ đâu và đến chỗ nào mới kết thúc. Tôi thích thú ngắm nhìn thiên nhiên quanh
mình như là kẻ đầu tiên khám phá ra xứ sở màu mỡ và tươi xanh của chúng ta.
Con Vàng chạy đến. Nó đưa cái mũi hít hít hai chân tôi, ve vẩy đuôi mừng rỡ như được gặp lại chủ cũ, hay là nó mừng vì thấy tôi còn sống để nô đùa với nó? Tôi vỗ vỗ tay vào lưng nó trong tâm trạng hào hứng khó tả. Giống như trước ngày tôi bị ốm, mỗi khi đi học về nó đều đứng đón tôi trước cửa nhà, chồm lên giơ hai chân trước đặt trên ngực. Tôi nắm lấy chân con Vàng, lắc lắc, gật đầu với nó. Giá tôi có cái gì làm quà cho nó nhỉ? Tôi nói với con Vàng:
- Vàng ơi... mày vẫn còn nhớ tao à?
Cô Thắm ở Hệ Dưỡng cho nhà tôi con Vàng hồi nó được hơn một tháng. Cả nhà tôi ai cũng thích nó. Ăn khỏe, lớn nhanh, không cắn trộm nhưng lại biết giữ nhà, quyến luyến chủ. Càng lớn nom con Vàng càng đẹp mã. Nó cao to gần như chó lài, lông vàng mượt,
đôi tai vểnh lên hướng về phía trước đến thích, cái mõm vừa phải và cặp mắt sạch sẽ, tinh nhanh. Ai vào nhà tôi chơi cũng khen, đều dặn hễ nó đẻ thì để cho họ một con. Anh Thành với tôi đều hay cho nó theo trèo lên núi hóng mát, bắt chim hoặc dẫn nó đi săn
chuột trong các hang dưới chân núi. Con Vàng luôn tỏ ra hăng hái, đón ý chủ và cũng "sáng dạ" đáo để. Còn điều này nữa thì cả tôi lẫn anh Thành đều không nói ra. ấy là mẹ tôi thường hay đi chợ đến khuya. Bởi ở vùng tự do tùy địa điểm của từng làng xã quanh vùng mà họp chợ vào buổi sáng, buổi chiều hoặc buổi tối để phòng tránh tàu bay Pháp oanh tạc. Nên ở nhà chỉ có mấy anh em chúng tôi thôi. Thực tình chúng tôi cũng thấy sờ sợ. Nhất là tối đến. Từ khi xin con Vàng về nuôi, đêm tối nó lùng sục chỗ này, góc kia trong nhà, ngoài sân. Hễ thấy động là nó sủa liền nên anh em tôi yên tâm lắm. Anh Thành chúa sợ ma. Tối hay lỉnh đi chơi. Đến khi về nhà là tót lên giường ngủ ngay. Thành thử tôi phải thu dọn nhà cửa, xem chuồng gà, con lợn. Có con Vàng đi bên vững bụng hẳn.
Hơn năm nay tôi nằm liệt giường, chắc con Vàng băn khoăn lắm thì phải. Bởi không thấy tôi nô đùa với nó, hoặc thiếu vắng tôi trong những cuộc leo núi vui nhộn và thú vị.
Giờ con Vàng đã thành "mẹ sề" của mấy lứa con rồi. Nó đằm tính và càng tinh khôn hơn trước. Nó quanh quẩn bên tôi một lúc rồi phốc ra cánh đồng. Chạy được một quãng nó dừng lại quay đầu ngó nhìn tôi. Thấy chủ vẫn đứng ì ra nhìn, nó liền quay lại, ngoạm vào ống quần tôi giằng giằng kéo đi. Tôi đã chạy nhảy được đâu mà đi theo nó. Cúi xuống vuốt nhẹ tay lên lưng con Vàng, tôi nói:
- Tao chưa đi lại bình thường được. Thôi... một mình mày chạy ra cánh đồng đi.
Hiểu ý. Con Vàng cúi đầu lượn vòng quanh tôi mấy lần rồi mới thong thả bước từng bước một đi chỗ khác. Chắc nó cảm thấy nô đùa ngoài cánh đồng một mình thì buồn lắm. Tôi đứng tần ngần nhìn nó, lòng những thân thiết mến yêu như người bạn thân.
Mặt trời đã chui tọt xuống sau rặng núi đá vôi trùng điệp.
Bầu trời còn bừng sáng nhờ ánh hoàng hôn do sự khúc xạ của mặt trời phản chiếu. Núi non bàng bạc một màu xanh lam huyền ảo.
Từng đàn chim đang sải cánh bay về núi, chấp chới dập dờn trên các tầng mây. Tôi nhìn thấy rõ người đi kiếm củi đang gánh xuống quèn bên núi Cháy. Liệu đến bao giờ tôi mới có thể đi được tới đấy?
Cái Dung sang giúp tôi thu dọn mấy cái ghế đẩu, rồi múc nước vào chậu thau rửa mặt mũi tay chân cho tôi. Nó làm với mọi cử chỉ của người chị gái, đến tháo vát, gọn gàng. Chị Nhàn đi gánh nước qua thấy thế cứ tấm tắc khen mãi. Đến khi anh Thành với thằng Bền đi chơi kéo nhau về thì còn có mỗi việc đi thổi cơm. Tôi bám vào thằng Bền tập tễnh lê bước chân tới bếp. Anh Thành đong gạo, vo, nhóm lửa cho tôi ngồi đun. Thằng Bền hào hứng kể chuyện nó theo anh Thành đi thả diều ở bên kia núi Ngang, chỗ cái quèn dốc mà trước đây có lần con Vàng xồ vào hang bắt chuột, khi chạy ra trượt cẳng lăn theo sườn núi xuống, suýt chết.
Rằm tháng Tám.
Xóm Núi Ngang nhà nào cũng làm cỗ "trông trăng" vui tết Trung thu. Nhà khá giả thì giết gà giết vịt làm cỗ bàn cơm rượu, bánh trái hoa quả. Nhà nghèo khó nhất cũng cố kiếm quả bòng, nải chuối hoặc vài trái ổi cho con. Thành thử cái xóm Núi Ngang heo hắt bỗng rộn rịp tưng bừng.
Cứ như mọi năm thì mẹ con chúng tôi bồng bế nhau ra nhà ông ngoại ăn cỗ, chơi bời đến ngày hôm sau mới về.
Khi còn sống, bà ngoại quả là một người tài đảm nhất vùng. Chả thế mà ngày bước về nhà chồng chỉ có hai bàn tay trắng, cơ ngơi nhà chồng lụp xụp nghèo túng, tuy phận làm hai, bà xin ra ở riêng, tự mình lo toan tính toán công việc làm ăn. Vậy mà chỉ mấy năm sau, bà đã tậu ruộng tậu trâu, trông nom cấy cày hàng mẫu ruộng. Rồi mua đất làm nhà. Tòa nhà đến đẹp. Đá phiến bó thềm dài rộng hơn một mét. Nhà xây dựng kiểu Tây, có trần quét vôi sáng, vẽ những hoa văn màu xanh màu đỏ đến vui mắt. Cậu Tùng thường leo lên trần nhà bắt chim ngói, xiên nướng chả cho chúng tôi ăn, ngon hết chỗ nói.
Tuy là ngày tết của trẻ con, nhưng vì đông con, lắm cháu nên ông ngoại thường giết lợn làm cỗ hẳn hoi. Con cháu dâu rể nội ngoại về hết. Cả nhà quây quần đoàn tụ đến vui. Lũ trẻ con chúng tôi có dịp quen biết và nhận anh, nhận em vui chơi thỏa thích.
Từ ngày tôi ốm đau đến giờ, mẹ tôi không mấy khi nghỉ chợ cho anh em chúng tôi ra nhà ông ngoại chơi.
Dẫu sao anh em chúng tôi vẫn cứ háo hức chờ mong từ mấy ngày hôm trước. Chả là các anh chị Thanh niên cứu quốc trong Hệ Dưỡng tổ chức cho đội thiếu nhi ăn cơm kết đoàn, rước đèn, phá cỗ tập đoàn và còn diễn cả kịch. Không khí náo nức chuẩn bị ngày Trung thu cuốn hút tôi hòa nhập cùng anh em và chúng bạn bàn tính các trò vui. Nhiều khi tôi quên khuấy mình là thằng bé tàn tật ốm yếu.
Hồi tháng ba. Khi chú Thìn còn ở nhà. Nhân mấy ngày mưa tầm tã, rỗi rãi chẳng có việc gì, chú kiếm mấy thanh tre, tỉ mẩn vót nan làm cho anh em tôi một chiếc đèn con thỏ. Dán giấy vàng, điểm tai mắt mũi miệng bằng giấy trắng, nom giống ơi là giống.
Rồi chú lấy một tờ giấy bản rõ to, bọc kín lại để giữ đèn cho mới.
Treo cất lên xà nhà. Chú dặn để đến tết Trung thu mới được lấy xuống chơi.
Giờ ba anh em tôi cũng rối rít với chiếc đèn. Cố nhiên là tôi chỉ biết có trố mắt ngồi nhìn anh Thành hớn hở cầm cây đèn giơ lên cao hý hửng chạy lăng xăng quanh trong nhà, ra ngoài hiên, mặc cho thằng Bền đuổi theo túm vào chân gào thét đòi.
Mẹ tôi vẫn đi chợ như thường ngày. Bà để sẵn nải chuối với quả bòng cho anh em tôi, chờ tối đến cùng "phá cỗ". Nhân thể vào năm học mới, mẹ tôi may cho anh Thành một bộ quần áo bằng vải diềm bâu Nam Định nhuộm nâu hồi hè. Nghĩ mà tủi. Suốt ngày
tôi ngồi ở nhà trông miếng vải nhuộm phơi ngoài sân mà những thèm mong được may áo quần bằng miếng vải đó. Mẹ tôi bảo sẽ may tất cho cả ba đứa để khỏi phải tranh nhau. Đến khi mang đi may. Tôi thấy mẹ bảo có mỗi một mình anh Thành đến nhà bác thợ may đo vải. Tôi đòi theo. Mẹ tôi bảo không đủ vải. Tôi không thể như thằng Bền chạy theo gào khóc. Ngồi ở nhà rân rấn nước mắt nhẫn nhịn.
Vốn đã trắng trẻo và xinh trai, anh Thành mặc quần áo mới, nom càng kháu khỉnh, sạch sẽ, bảnh bao. Thằng Bền lại được dịp hờn suốt buổi vì không được quần áo mới. Té ra bác thợ may đo làm phép người nó. Còn tôi, cũng chỉ biết nhìn, cố gạt đi mà vẫn cứ thèm. Nhà tôi nghèo quá. Tôi lại ốm đau bệnh tật chết đi sống lại mấy phen. Dai dẳng, ròng rã suốt một năm trời. Thì còn lấy đâu ra mà may mặc mua sắm thứ gì. Dẫu tôi có đòi thì mẹ cũng không thể kiếm đâu ra vải may cho. Vả lại tôi bị què quặt thế này, có đi lại được đâu mà cần đến quần áo đẹp. Ngay từ lúc còn bốn năm tuổi, chẳng mấy khi tôi được may quần áo mới. Toàn mặc quần áo anh Thành chật trút cho.
Rồi đến lượt thằng Bền ra đời. Nó không bị rơi vào cảnh như tôi vì quần áo tôi có thải ra thì cũng chỉ còn làm được khăn lau bàn, giẻ rửa bát là cùng! Nhiều khi cũng thấy tủi thân. Nghĩ mà ứa nước mắt.
Tối đến, anh Thành bổ quả bòng chia cho mỗi đứa một phần.
Nải chuối cũng được cắt ra tính từng quả, thật công bằng, không đứa nào hơn kém đứa nào. Ai ăn hết thì thôi. Đứa nào để dành cũng tùy.
Tôi có đi đâu chơi bời được mà ăn cho vội.
Thằng Bền chén liền. Nhưng nó không thể ăn hết được ngay phần của mình. Anh Thành quấn vào ăn dỗ của nó. Còn phần của
mình, anh ấy giấu vào khe đá đầu hồi nhà. Anh ấy hứa sẽ cõng thằng Bền vào Hệ Dưỡng cho cùng đi rước đèn và xem kịch. Thằng Bền hớn hở không đòi quần áo mới nữa. Không những thế, còn quả chuối, múi bòng nào nó đều đưa hết cho anh Thành ăn.
Có mấy đứa bạn gọi ở ngoài sân. Không kịp đóng chuồng gà, ngó qua con lợn, anh Thành vội cầm cây đèn con thỏ chạy tót ra với chúng bạn, quên khuấy lời hứa với thằng Bền. Nó bật gào khóc chạy đuổi theo gọi. Vướng hèm cửa nên không túm được áo anh Thành giữ lại, nó ngồi bệt xuống đất, tay chân cào đạp tứ tung.
Anh Thành mải chạy theo chúng bạn, nói vọng lại qua hơi thở:
- Mày ở nhà chơi với thằng Vững. Đi theo tao lội qua dòng
nước thế nào được.
Tháng này, tuy con nước ròng nhưng chỗ đầu núi Ngang sang làng Hệ Dưỡng là quãng đồng trũng, đi qua lại phải lội bì bõm đến bụng chân người lớn. Đám trẻ em phải tụt quần lội qua.
Tôi bước lần ra ngồi dỗ thằng Bền mãi mà nó vẫn không thôi gào khóc. Không những thế, nó còn nằm bò ra đất ăn vạ. Tôi những tức anh Thành quá. Thà anh ấy đừng nói dối, mặc nó chơi từ chập tối thì đâu có đến nông nỗi này! Chắc nghe thấy tiếng khóc
gào của thằng Bền, chị Nhàn chạy sang:
- Thế thằng Thành đâu rồi?
- Anh ấy mang đèn vào Hệ Dưỡng đi rước với đám thiếu nhi trong ấy rồi.
Tôi nói, lòng những ấm ức, suýt nữa thì cũng khóc òa. Chị Nhàn bế thốc thằng Bền lên:
- Thôi... Vững lên giường ngủ đi. Chị bế thằng Bền cho nó chơi rồi ngủ luôn ở bên nhà với chị.
Chị Nhàn đi rồi, tiếng thằng Bền khóc tỉ ti vẫn còn vọng lại.
°

*

Thế là chỉ còn mỗi một mình tôi ở nhà. Ngoài trời trăng đã lên. Sáng quá. Bầu trời trong vắt, cao thẳm, dát vàng xuống mặt đất, ruộng đồng, núi non, làng xóm. ánh trăng hắt vào cửa nhà làm bừng sáng mọi chỗ. Làm sao mà tôi có thể lên giường đi ngủ ngay được. Tiếng trống ếch cà rùng, cà rùng từ trong làng Hệ Dưỡng vọng ra lúc rõ lúc mờ. Chắc anh Thành đang hớn hở đốt ngọn đèn dầu bằng cái lọ thuốc tây nút kín có sợi bấc, nhét vào
đầu ống nứa tép trong mình cái lồng đèn con thỏ, hòa vào đoàn trẻ con rồng rắn cùng giơ cây đèn lên cao. Giờ này, lũ trẻ con xóm Núi Ngang vào đấy hết cả rồi nên im ắng một cách lạ lùng. Tôi thấy buồn buồn và cô quạnh quá.
Trăng sáng tỏ, bát ngát và dịu mát làm sao! Tôi lết chân bước ra hiên. Bầu trời cao vời vợi nên ánh trăng cứ huyền ảo, mộng mị một thứ ánh sáng dịu mắt và mơn trớn. Không gian thêm bao la. Cánh đồng lúa lên xanh nhấp nhô muôn lớp sóng tới chân núi Cháy. Còn dãy núi đá vôi trùng điệp như bức tường thành lúc này ẩn hiện bàng bạc tắm trong ánh trăng.
Tôi thẫn thờ đứng nhìn trời đất hồi lâu. Cứ thế cho đến khi mỏi chân, tôi ngồi bệt xuống thềm hiên trước cửa nhà. Con Vàng từ đâu đó ngoài chuồng lợn đi vào. Nó ngơ ngác
nhìn tôi đang ngồi như một cái bóng. Không rõ nó có đoán biết được tâm trạng tôi lúc này hay không mà nó cứ ư ử trong họng như muốn nói điều gì đó. Quẩn quanh bên tôi một lúc rồi bỗng nó phốc vào nhà. Chẳng biết nó lục sục mò mẫm gì đấy hồi lâu. Lúc sau con Vàng tha ra túm chuối bốn quả đem lại chỗ tôi ngồi, nhả miệng để đấy. Nó hí hửng làm được một việc cho chủ, chiếu thẳng hai mắt nhìn tôi. Tôi kinh ngạc trước sự việc và ngỡ ngàng đối với "người bạn" thân yêu này. Sao nó tinh khôn đến thế? Thân tình đến thế?
- Vàng ơi... Mày đem cho tao đấy à?
Tôi khẽ thốt lên hỏi nó. Mà không biết tại sao tôi lại buột miệng hỏi con vật như thế. Con Vàng chẳng rõ có hiểu được câu hỏi của tôi hay không mà nó gật gật cái đầu, trong miệng ư ử, cái đuôi ngoáy tít.
Tôi cầm lấy túm chuối. Con Vàng đến khôn. Nó ngoạm vào cuộng chuối chứ không ngoạm vào quả. Nhìn túm chuối tôi mới ngẩn ra. Bốn quả chuối này là của anh Thành. Anh ấy giấu kín vào khe đá kia mà. Chắc là nó để ý nên mới biết. Tôi chống tay đứng dậy cầm lấy túm chuối cất đi. Ai lại ăn vụng phần của anh ấy. Con Vàng cuốn vào chân tôi ý không bằng lòng. Tôi vẫn nhẹ tay đập đập vào lưng nó:
- Đây là phần của anh Thành đấy. Mày không biết à? Tao không ăn vụng của anh ấy đâu.
Con Vàng sủa gâu gâu mấy tiếng. Nó vẫn bám theo tôi vào nhà. Tôi cất túm chuối đi cho anh Thành. Rồi lại lết chân bước ra thềm hiên trước cửa. Ngồi ngắm nhìn bâng quơ trời đất, núi non đồng ruộng được ánh trăng nhuộm cho cái màu thần thoại mà tôi mường tượng từ trong truyện cổ tích vẫn thường nghe ông ngoại kể. Con Vàng đành chịu. Nó lùng sục quanh nhà, chuồng gà, chuồng lợn như làm công việc thuộc bổn phận của mình - tên lính gác giữ nhà cho chủ. Nó ăng ẳng sủa chỗ này, góc kia như đánh tiếng đi tuần. Xong đâu đấy, nó lại quay vào nằm cạnh chỗ tôi ngồi.
Chợt có một con chuột đồng to bằng con chó con chưa mở mắt chạy vút ngang qua sân vào chỗ vại nước giáp chân núi. Tôi run bắn người, hốt hoảng. Gắng lấy hết sức bình sinh để tự chủ, xua đuổi sự sợ hãi đi. Chân què chạy trốn làm sao được. Con Vàng mắt tinh lắm, nó phốc đuổi theo liền. Nhưng không kịp rồi. Con chuột đen trũi đã kịp lẩn trốn thoát thân vào một khe núi nào đấy. Khi tôi hoàn hồn là lúc con Vàng sủa vuốt đuôi một cách giận dữ và bất lực. Tiếng sủa của nó đập vào vách núi vọng ra âm oang nhại lại nghe đến rùng rợn, cổ xưa, hoang hoải.
Cuối cùng, con Vàng cũng đành trở vào nằm xuống chỗ cũ bên cạnh tôi, miệng còn ư ử hậm hực. Tôi kéo cổ nó ôm vào lòng, vỗ về cho nó nguôi cơn bực tức, thân thiết như người bạn.
Trước đây tôi vốn đã thích con Vàng. Và bây giờ, cuộc sống càng gắn bó nó với tôi. Nó là người bạn trung thành và thủy chung nhất mực. Bất chợt tôi bỗng thèm muốn giá nó có thể biến ra người nhỉ? Nếu không được, thì cũng biết nói như người. Hẳn lúc này tôi sẽ sung sướng biết bao. Bởi được như thế, tôi sẽ không bị cô đơn nữa, có "người" để trò chuyện với nhau. Tôi sẽ chia sẻ nỗi buồn sâu kín trong lòng mình với nó. Tiếc thay, con Vàng chỉ là một con chó. Dẫu khôn đến mấy, nó cũng không thể nói được như người. Khiến tôi... những lúc như thế này, có miệng nói thành thừa, buộc phải câm lặng. Và như thế, một đứa trẻ hiếu động, mau mồm mau miệng như tôi làm sao mà chịu nổi. Tôi cứ vẩn vơ nghĩ ngợi. Cũng chẳng biết nghĩ ngợi gì. Buồn quá. Buồn đến ứa nước mắt.
Trăng đã lên qua khỏi bên sườn núi Ngang. Trăng tròn như quả bóng vàng au. Tôi man mác nhớ tới câu chuyện Chú Cuội ngồi gốc cây đa, bèn chăm chú nhìn lên Cung Quảng. Thử tìm xem lúc này Chú Cuội ngồi ở chỗ nào? Tìm mãi... tìm mãi cho đến mỏi mắt cũng chẳng thấy. Mặt trăng chỉ là một cái đĩa dát vàng lơ lửng giữa bầu trời. Nhưng tâm trí tôi vẫn cứ bị hút vào câu chuyện cổ tích. Để rồi đắm mình trong một giấc mơ. Có tiếng ai đó hát thoảng đến tai tôi, giọng con trẻ véo von vang lên giữa tĩnh mịch nghe sao mà lạc lõng, đơn điệu và thoáng buồn man mác:
Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Để trâu ăn lúa gọi cha ời ời
Cha còn cắt cỏ trên trời.
Mẹ thì cưỡi ngựa đi chơi thuyền rồng...
Tôi ngoảnh nhìn đó đây mọi phía xem tiếng hát đó vang ra từ đâu. Trời đất quanh tôi lặng tờ. Rừng núi xóm làng mờ dần trong sương. Đêm thu. Trăng sáng đến lạnh lùng. Tôi bỗng thấy mình bé nhỏ quá, cô đơn quá.
Chợt có tiếng bước chân người lạo xạo giẫm trên đường đá đi về phía nhà tôi. Anh Thành đi rước đèn đã về ư? Không phải! Tôi bồi hồi chờ đợi. Cái Dung như từ trong ánh trăng, hệt như một cô tiên bé nhỏ xinh xắn và lộng lẫy, bước ra tiến lại chỗ tôi.
- Đằng ấy ngồi một mình ở nhà à?
Không hiểu sao tôi lại xịu mặt không nói gì. Cái Dung sướng thật. Nó vừa xinh xắn lại là con nhà giầu, được bố mẹ chiều chuộng ăn diện thỏa thích. Còn tôi... Tôi cũng là một đứa trẻ như nó. Vậy mà sao tôi... sao tôi... Tôi những nghẹn ngào, có cái gì nghẽn tắc ở cổ họng.
Cái Dung ngồi sụp xuống bên cạnh tôi:
- Sao... đằng ấy khóc à?
Tôi bỗng nấc lên như đứa trẻ tủi hờn với chị gái. Cái Dung quàng tay ôm tôi vỗ về:
- Thôi... nín đi! Tớ mang bánh dẻo cho đây này...
Nó dúi vào tay tôi gói bánh và kể lể:
- Mẹ tớ dẫn tớ vào trong Hệ Dưỡng ăn ở cỗ nhà một người cùng quê chạy tản cư vào đây. Chứ không, tớ đã sang chơi với đằng ấy từ chiều cơ.
Tôi nói trong tiếng nấc:
- Thế không xem rước đèn à?
- Không. Ăn cỗ xong là tớ đòi mẹ đi về. Lội sang núi ướt hết cả quần đây này.
Nói xong, cái Dung buông tôi ra, đứng dậy: - Tưởng đằng ấy
đi ngủ nên tớ không mang xôi sang. Để tớ về lấy cho nhé.
- Tớ không ăn đâu - Tôi lắc đầu.
- Không. Xôi ngon lắm! Có cả thịt gà nữa...
Nó vụt chạy về nhà. Tiếng đá lạo xạo dưới chân. Tôi kéo vạt
áo lên lau nước mắt. Nỗi buồn tủi dần dần tan biến. Cái Dung trở sang với gói xôi to tướng bọc lá chuối:
- Đằng ấy ăn đi này.
Tôi lắc đầu:
- Tớ không ăn thật mà. Bụng no rồi.
- Thế chiều nay đằng ấy ăn cơm với gì?
- Ăn với mắm cua.
- Vậy thì ăn thêm ít xôi với thịt gà đi. Ngon lắm cơ.
Tôi xua tay:
- Tớ chẳng ăn nữa đâu.
Thấy tôi dứt khoát. Cái Dung đành chịu, nó dỗ dành:
- Vậy tớ cất vào nhà để sáng mai đằng ấy ăn nhé?
Chẳng cần tôi có đồng ý hay không, cái Dung cứ mang gói xôi vào để trên phản. Khi quay ra nó bảo:
- Còn cái bánh dẻo thì đằng ấy ăn ngay vậy.
Rồi nó cứ bắt tôi phải ăn bằng được. Tôi dè dặt cắn một miếng bé. Chao ôi... ngon quá đi thôi. Mùi bột nếp thơm lựng, dẻo dẻo là. Nước miếng ứa ra đầy miệng. Cái Dung im lặng nhìn tôi ăn. Nó nghĩ gì? Nào tôi có biết. Rồi nó lên tiếng:
- Hôm nay mẹ con tớ gặp ông giáo Kỳ đấy.
- Thế hả?
Tôi ngước mắt nhìn nó, không biết thầy giáo Kỳ có còn nhớ tôi nữa không? Cái Dung kể cho tôi nghe mọi chuyện. Ông giáo Kỳ mời mẹ con nó vào nhà chơi. Nhà ông làm cỗ Trung thu to lắm. Hoa quả, bánh trái xếp đầy trên ban thờ. Ông giáo nói với mẹ nó nhiều chuyện lắm. Ông Kỳ khen nó viết chữ đẹp, chăm chỉ học tập ở lớp. Ông còn hỏi mẹ cái Dung có biết vì sao tôi bỏ học không. Mẹ nó liền kể mọi sự thể. Ông Kỳ ngồi ngẩn ra nghe. Ông cứ lắc đầu tràn:
- Nó là thằng bé học sáng dạ lắm - ông nói: - Thật là tội nghiệp cho thằng bé. Chứ nếu nó vẫn khỏe mạnh, được học hành thì sẽ tấn tới đấy.
Cuối cùng, cái Dung bảo:
- Ông giáo đưa tớ mang cái bánh dẻo về cho đằng ấy đấy.
Nghe cái Dung nói mà lòng tôi bỗng xốn xang một nỗi khát khao khó tả. Liệu đến bao giờ thì tôi chạy nhảy đi lại như chúng bạn để cùng cắp sách tới lớp học?
Sực nhớ ra điều gì, cái Dung reo to:
- À... Ông giáo Kỳ bảo tớ hỏi đằng ấy có còn nhớ mặt chữ, đọc sách được không?
- Để làm gì?
- Ông giáo sẽ cho đằng ấy mượn sách truyện mà đọc.
Tôi lắc đầu thất vọng:
- Nhưng tớ làm sao đi được vào trong làng?
Cái Dung hiểu ý tôi muốn nói, nó bật cười:
- Rõ ngốc! Tớ sẽ mượn mang về cho đằng ấy chứ.
Tôi ngồi ngẩn ra. Từ ngày ốm dậy, sao tôi không nghĩ tới chuyện học hành, đọc sách cho nó bớt buồn? Tôi đưa tay gãi gãi đầu:
- Ừ nhỉ. Nhưng chả biết bây giờ giở vở ra xem chữ tớ có còn
nhớ hay không đây.
Tôi bèn bảo cái Dung vào lấy vở của anh Thành ra cho tôi xem thử. Chà khoái quá! Tôi vẫn còn nhớ mặt chữ, đọc lưu loát như trước có sướng không. Cái Dung nhìn tôi mỉm cười, lõm sâu má lúm đồng tiền trên má. Nhưng cả hai tay tôi cầm quyển vở cứ run run. Cái Dung bảo là không sao cả. Tôi có viết lách gì đâu mà lo. Cứ đặt sách xuống phản rồi lật từng trang ra mà đọc.
Đã khuya. Cái Dung ra về. Tôi cũng vào nhà, lên giường đi ngủ. Con Vàng sủa ông ổng phía ngoài chuồng lợn rồi vào nằm ở hiên trước cửa ra vào. Nó còn ư ử trong họng mấy tiếng nữa mới thôi. Nó thật là con vật mẫn cán với công việc thuộc bổn phận mà chủ nhà phó thác. ánh trăng hắt vào bừng sáng cả góc nhà. Tôi nằm thiu thiu đi vào giấc ngủ lúc nào không hay, ngon lành và thanh thản.