Chương 8

Giang hai tay, áo saut trông rộng thùng thình che hết nửa người khép tay lại, Minh nhảy nhảy, chai rượu trong túi chuyển động lục cục… Cái áo rộng thế này hèn gì hồi xưa lính Tây không bắt gà cũng uổng. Minh nhét cây súng vào thắt lưng, đi xuống bếp lấy hai mươi chiếc nem lá bỏ vào túi dưới của chiếc áo còn rộng chỗ. Kiếm cái gì nữa bây giờ. Minh cắt một khoanh giò thật lớn gói vào túi nylon, mình như một ụ thức ăn di động. Ra khỏi nhà Minh hướng về phía khách sạn, lạnh, hai tay đút vào túi áo, lạnh không kém gì Đà Lạt. Tết này như vậy là mình đi lính được sáu năm. Minh nhớ đến Tết đầu tiên ở trường, doanh trại vắng hoe, các khoá đàn anh đi phép, nắng đầu xuân vàng rực gây gây lạnh. Minh vừa được gắn alfa, đầu húi cao trắng xoá, mặt loang lổ từng mảnh da bị tróc vì rám nắng… Những người cùng phòng đi vắng, Minh trùm chăn ngủ bù sau hai tháng tân khoá sinh, chiếc máy do sinh viên khoá đàn anh cho mượn chạy hoài bản nhạc độc nhất… "Greenfield… You never know what make you run away… How can I keep searching when the cloud hide the day…" bài hát của một người bị tình phụ, thê thiết khắc khoải vang vang trong căn phòng lạnh vắng. Minh chưa có một mối tình nào, Minh chỉ có một cuộc đời mới khởi đầu, nhưng Minh linh cảm được có một điều gì bất toàn, ngón tay dò kẽ nứt đầu tiên bắt đầu có dạng trên mặt da trắng bóng trơn láng. Dĩa hát chạy hết được đặt lại…” home… to the greenfield that we are once again…” Home, nhà, chốn hạnh phúc của những người yêu dấu, nhà, chốn Minh vừa xa rời chắc lâu lắm mới có ngày trở lại… Khóc, giọt nước mắt vô tình nào đã làm ướt mắt gã trai mười tám tuổi, Minh đứng dậy nhìn qua cửa kính, khu sân cỏ trước doanh trại lác đác vài người, trời đột nhiên âm u, phía rừng ùn ùn sương phủ, Minh khóc cho một duyên cớ vô hình…
Thối thật, Minh đá một cái vào khoảng không gian trống. Tiên sư, tự nhiên lại khóc… Minh nhìn quanh xem thử có người nào trông thấy, ừ lúc đó mình con nít thật, Minh rút ra một cái nem, lột lá, bỏ tọt vào mồm, kéo chai rượu Johny Walker. Nhãn đó là sang rồi đòi gì nữa… Minh đứng dưới cột đèn, rót rượu ra nắp nhôm… Ực, không đá uống cũng được, trời lạnh rượu thêm ngon. Minh rót thêm một lần nữa… Có bóng người đi qua mặt, khẽ liếc Minh.
"Uống không?"
Người kia lắc đầu, bước chân tránh đi xa xa…
"Không thì thôi, sĩ quan Nhảy dù mới nhận chức… à". Minh bỏ chai rượu trong túi, bước đi thật vui vẻ và nhanh nhẹn, Minh chợt nghe một thoáng u buồn phiền muộn nào nằm sẵn trong tim.
Cửa phòng Lạc hé mở sau tiếng gõ cửa đầu tiên. Minh cho chai rượu vào trước lắc mấy cái. Có tiếng hét lớn: "Vô đây! Vô đây! Tôi chưa đợi ai bằng đợi ông tối nay”. Lạc chạy ào ra cửa, cuống quít kéo Minh vào.
"Thủng thẳng bể bố chai rượu ra bây giờ…"
"Tiên sư, ngồi đợi ông muốn dài cả cổ, tôi mua mấy chai bia uống tạm, đêm giao thừa lạnh như cắt, ngồi uống bia một mình chi bằng uống thuốc độc chết sướng hơn”.
"Thôi đừng than van nữa ông già, chị với hai con đâu?”
"Phòng bên cạnh, tội nghiệp Tết nhất lại phải mò đi xa kiếm chồng, chồng lại cỡ tôi nữa thật là xứng đáng tuyên dương công trạng, mươi tám năm lấy chồng chỉ được thấy mặt chồng năm cái Tết, tiên sư đúng là bà ấy trúng số độc đắc hạng bét… Thôi mở rượu, ấy, sao ai uống trước rồi, ông thổi ở đâu?”
"Đừng nói bậy, tôi xin ông già tôi đấy, đi dọc đường tôi nhậu trước hai nắp”.
"À, vậy thì được, lần sau bảo ông già cho chai tốt hơn cỡ Courvoisier Martell…"
"Ừ, cái này phải nói qua bà già vì ông già về ở với Chúa rồi…"
"C… ông lúc này lại nhiễm tính ông Thuấn rồi…"
"Tính tốt thì phải học, học thầy không tày học bạn, ông Thuấn là bạn tốt, không học cũng phí. Bà chị tôi mới thấy Thuấn xạo mê ngay…"
"Chết, chị ông điên rồi, chị gì mới được chứ”.
"Chị họ, muốn gì cứ nói, chết quái gì mà rào đón…”
"Vậy khỏi giữ, sợ chị ruột ông thì không được… Từ trước đến nay tôi vẫn nghĩ bà nào điên mới mê ông Thuấn, nhớ vụ ở Dakto có con đĩ nhất định theo nó về Sài Gòn, vui thật, nghe ông Thuấn ba hoa một hồi thế là con bé nghệt mặt ra… Tiên sư, mình nghe nó láo đến sốt cả ruột, thế mà vẫn có kẻ tin đến ngẩn người”.
"Ừ, cũng như mấy thằng nhà báo, toàn là những tay nói dóc thượng thặng thế mà khi nghe ông Thuấn nói chuyện tượng đồng ngồi ở nghĩa trang hoá thành ma đón xe xin quá giang, xin thuốc lá, một tụi ngồi đực mặt ra ghi chép phỏng vấn. ĐM… Tôi ngồi bên cạnh cười đến vãi đái… Ông thấy cảnh ông Thuấn diễn tả cảnh thằng tượng đồng đối thoại với ông ấy chắc ông cười đến chết, thế mà không hiểu sao mấy cha nhà báo tin được, cứ một điều Đại uý ghi rõ cảnh bức tượng đón xe… Đại uý cho biết cảm giác khi nghe bức tượng nói… Hà… hà… Ông có nghĩ cảnh ông Thuấn phịa không? Ông ta nói như thế này: Bức tượng đó tạc theo mẫu của hạ sĩ Côn đại đội tôi, nên khi nghe tiếng nói Quảng Trị của nó tôi lạnh người, tôi hỏi "Có phải em là Côn không?". "Dạ thưa Đại uý, em là Côn đây, thấy Đại uý lái xe qua nên em đón xe thăm Đại uý…”.
"ĐM… Láo thế là nhất rồi. Thuấn ơi là Thuấn ơi, vong linh ông ở đâu về uống với tôi chén rượu…” Lạc hớp ly rượu cười rung cả người… “Ấy thế mà ông Thuấn lại nói với tôi khác…"
"Khác làm sao?"
"Khác là thằng tượng đồng ngồi trên bệ đá tay ngoắt ngoắt. ĐM… cả sếp mình là Đại tá Lữ đoàn trưởng cũng tin luôn".
"Rồi bây giờ đi qua chỗ bức tượng ông ấy có chào không?"
"Có, thì hôm đó ông Thuấn lái xe, sếp ngồi một bên, tôi ngồi sau, gần đến chỗ bức tượng là ông bắt đầu gỡ mũ, tháo kính, lái chậm và chào thật nghiêm… Bây giờ mới biết Thuấn xạo…"
"Cái trò chào bức tượng cả Sư đoàn này đều bị lây ông Thuấn hết đấy”.
"Thuấn xạo thực, nhất ông ấy rồi…"
"Uống tiếp, chuyện Thuấn xạo biết đến bao giờ cho hết, uổng thật tối hôm nay nếu có ông Thuấn sẽ vui biết mấy, cũng như hôm ở Bồng Sơn ông Trung tá Khoa, chiến đoàn 3 sắp sửa lên trực thăng cũng phải nán lại để nghe ông Thuấn luận về gà Bình Định và vợ Quảng Ngãi. Tôi không hiểu thằng cha ấy nhặt những chuyện khỉ gió kia ở đâu, chuyện gì hắn cũng luận đều đều dài dài… Thiên hạ lần đầu tiên nghe Thuấn nói cứ tưởng thằng cha thông kim bác cổ…"
"Thì cũng phải có tài chứ, tài dựng chuyện và tưởng tượng rồi ráp những sự kiện rời rạc nhưng có thực xung quanh một cái trục bịa đặt, thế là thiên hạ tin như chết. Không kể người lạ, ngay cả ông với tôi khi nghe ông Thuấn nếu không được báo trước cũng vẫn tin, như hôm ông ấy ngồi phịa chuyện tướng ông Diệm và bà Nhu, cả bộ chỉ huy Tiên tri nghệt mặt ra nghe xong cứ chặc lưỡi khen ông Thuấn giỏi cho đến khi nó bị ông Ba phó vặn lại, cả làng mới biết bị xạo…"
"Chuyện thế nào?" Minh nhai một miếng nem, chất thịt vừa chín được ngấm thêm men rượu nồng tan trong cổ, nhắm mắt lại, một chút nước mắt ướt rèm mi… Rượu uống sao ngon nhưng mạnh quá, lúc đi ngoài trời lạnh uống thấy ngon hơn ở trong phòng.
"Uống đi, để tôi kể chuyện ông Thuấn luận ông Diệm. Ông ấy bảo: ông Diệm là tướng đại quý vì ông ấy thuộc loại ngũ đoản bát đại, cho nên mới bị cái chết bất đắc kỳ tử, nửa đường đi toong… Ôi chao, ông ta dẫn chứng cả cổ kim để làm bằng cớ, nào là ông Chu Văn An là tướng hầu, ông Án anh Án em gì đó ở bên Tàu… rồi ông ta luận luôn chuyện ông Nguyễn Khánh… ĐM… nói sướng cái miệng nhưng ông ta kể vung vít quá mới bị ông phó kê, hắn ta cứng họng nên mới thú nhận đang nói xạo…”
"Vậy là mấy ông thua rồi, tôi chỉ bị một lần là biết ngay…" Minh hớp thêm ngụm rượu. "Sao đắng quá, tôi phải đi kiếm cục nước đá”.
"Để tôi”.
"Đâu được, tôi sẵn áo quần tiện hơn ông. Minh đứng dậy bước ra khỏi phòng. Đợi tôi năm phút thôi…”
Lạc gật đầu, nhìn thẳng vào chai rượu màu vàng lóng lánh ánh đèn, Lạc cười nhẹ, đưa tay lên sờ cằm, những chiếc râu ngắn nhám nhám ở tay, Lạc liếc về phía cửa phòng vợ, có tiếng thở dài rất nhẹ, Lạc lắc đầu.
Thuấn dặn tên lính thân tín:
"Tao đi chơi loanh quanh đây, có gì mày chạy đi gọi”.
"Dạ". Binh nhất Thiên nhỏ nhẹ trả lời.
Ra khỏi chỗ đóng quân, bước lên mặt đường, đường số 1 đêm ba mươi Tết vắng lặng như một thỏi đá màu đen đắm chìm trong sóng trắng đục.
"9 giờ, còn ba tiếng nữa giao thừa", Thuấn cho tay vào trong túi áo, bước theo bề ngang của con đường…
Một hai ba, hai mươi bốn bước, xương sống mẹ Việt Nam rộng hai mươi bốn bước, đi ra phía này là tới Hà Nội, đi vô phía này tới Sài Gòn. Thuấn xoay mặt về hướng Nam, xung quanh sương trắng lớp lớp. Những ánh đèn le lói hai bên đường trông ốm yếu như sắp tắt.
Mình đâu có nghĩ cảnh giao thừa đứng trên quốc lộ như thế này… Buồn thật… Làm cái gì bây giờ… Điên à? Ông nói với ai hở ông? Thuấn ép tay vào người cúi đầu đi về phía Nam.
"Ai đó? Đứng lại”.
"Lính Nhảy dù đi du xuân”.
"Đi mô tối rứa?”
"Giao thừa đi chơi”. Trong bóng tối xám đặc lập lòe ánh lửa, Thuấn biết mình đã gần tới cầu, sương dày quá không thấy được thành cầu, dòng sông ở dưới xa chìm hẳn trong khói sương lạnh giá. Thuấn bước tới, đốt điếu thuốc.
"Có dây kẽm gai không?"
"Có, ép về phía trái… Coi chừng, thôi để tui mở cho mà đi”.
Thuấn đứng lại, lạnh quá, gió dưới sông thổi lên mang theo hơi nước ẩm ướt, sợi dây kẽm chắn ngang lối đi, ánh đèn bấm di dần về phía Thuấn. "A, Đại uý đi mô mà khuya khoắt ri? Mới chín giờ đã đi du xuân…” Thuấn tự nhiên thấy lòng vui vẻ. Người lính gặp hồi sáng không giấu vẻ mừng rỡ trong khi luống cuống mở dây kẽm gai.
"Đại uý thiệt là lạ, trời lạnh như cắt mà lại đi chơi, mà chơi chi ở đây… Tôi đứng chờ giờ đổi gác để chui vào mền làm một giấc đã… Bây giờ Đại uý định đi đâu?”
"Chẳng biết… Đi mỗi vòng rồi về, lạnh quá hả?" Thuấn chìa cho người lính điếu thuốc. “Trời lạnh hút thuốc ngon thiệt”, người lính xuýt xoa. Thuấn nhớ điếu thuốc đầu đời, một góc rừng Đà Lạt lạnh buốt, trời tối đen Thuấn với tên bạn cùng phiên gác chia nhau điếu thuốc có mùi bạc hà. Khu rừng đen thẫm trống trải, điếu thuốc lòe lên thấy rõ đường chỉ tay hồng.
"Thuốc này là thuốc gì?"
"Oakland menthe, một bao hai chục đồng”.
"Mày hút một ngày mấy gói?"
"Hai, tao người Đà Lạt mà mày, ở đây không có thuốc chịu không nổi, tao hút Bastos nhưng mấy hôm nay ho nên xài tạm thứ này".
"Bastos là thuốc lá đen”.
"Ừ", tên bạn trầm giọng nghiêm trọng.
Thuấn cảm thấy thua sút, hít một hơi thật mạnh, khói bay đầy mồm muốn sặc…
"Thuốc này nhẹ quá", Thuấn phê bình ra vẻ thành thạo.
"Nhẹ đối với tao, nhưng mày mới tập hút nên hút nó".
Thuấn muốn cãi lại, thấy khó khăn, trong bóng đêm Thuấn có cảm giác như thằng bạn đang đưa mắt nhìn bàn tay vụng về của mình cầm điếu thuốc. Ngày hôm sau Thuấn bắt đầu hút thuốc, thuốc Mélia vàng… Vậy là bảy năm rồi, mau thật, mình chỉ có nước giỏi bắt chước. Thuấn tì tay vào thành cầu, thanh sắt đẫm sương lạnh cóng. Mặt sông dưới xa lóng lánh theo ánh đèn dưới chân cầu toả ra một ánh sáng vàng rực xôn xao, người lính đi đến gần Thuấn, gót giày nhà binh gõ từng tiếng động lạnh buốt trên sàn cầi cho biết mặt. Bản tính ưa chống đối được dịp bùng lên, thêm duyên cớ, Quỳnh Như, khuôn mặt thanh tú, và thân thể đầy đặn dỏng dỏng cao đang chờ đợi, tội gì cứ đeo cứng vào mối tình tuyệt vọng Bích Trân. Bích Trân giờ này ở đâu? Năm năm trời không thấy mặt, chờ đợi phải có hy vọng gặp… Thuấn chờ Bích Trân thêm bao nhiêu năm? Không một dấu vết. Nhưng khi ngồi lên xe trong bóng tối tìm công tắc, Thuấn chợt thấy mệt. Mệt, con đường trước mặt xa xôi nguy biến, sự liều lĩnh vô ích và khối tình xưa chắn lối… "Thuấn ơi! Em mười tám tuổi, yêu và sống hết mình cho một người, nhưng yêu anh để sống trong nỗi chờ đợi hoài hoài ngày anh về, và ám ảnh cái chết cứ mãi mãi trong người làm sao em chịu nổi. Thôi em xa anh trước để để tránh ngày phải mất anh…" Bích Trân đã viết bức thư ngắn ngủi đó trước ngày xa Thuấn… "Em chưa bao giờ khóc trước mặt một người nào, thuở bé bị đánh đau bao nhiêu em cũng cắn răng chịu đựng, em chỉ khóc khi ở một mình, gặp anh sao em muốn khóc hoài, khóc mê mải. Hình như mười tám năm em gánh chịu tan thành nước mắt hạnh phúc trước mặt anh. Tối hôm qua em đã khóc một lần chót, em nhất định như thế, em khóc cho tình ta. Em đi, đừng bao giờ anh tìm kiếm". Không phải là bức thư, nhưng là lời trăn trối cuối cùng Bích Trân để lại cho Thuấn. Thuấn không phải chỉ nhớ, những nét chữ, màu sắc, mùi giấy đã khắc chặt những nét hằn sâu trên trí não Thuấn sống trong không gian vây bủa bởi mối tình ngắn hạn bi thiết đó. Năm năm, những giây phút ngặt nghèo khi chiếc trực thăng bốc cháy lao xao, tiếng hét của những người xung quanh, ngoài kia trời xanh xoay đảo theo sự cuốn tròn của độ rơi, rừng dừa dưới đất dâng lên ào ào đủ để thấy rõ cái chết, chết cụ thể, chết có thể đếm bằng thời gian, xa bằng khoảng cách, chết sờ được, ngửi được, mê man và sát mặt. Trong những giây phút ngắn hạn thiên thu đó, Thuấn đọc lại hết bức thư, nhìn lại hết nét chữ xiên xiên đều đặn, tờ giấy viết thư cong queo, chữ “em” ốm yếu, Thuấn thấy lại toàn khối tình yêu sáng rực một lần trước khi giáp mặt cái chết. Sống với tình yêu Bích Trân như thế vừa đúng năm năm. Nhưng bây giờ Thuấn đang rồ xe máy, con đường về Huế đen tối xa hun hút, mười bảy cây số và đồng ruộng lặng lẽ, ếch nhái kêu vang động thê lương. Thôi, phải đóng cho đủ vai trò, tìm lại mặt thật của tình yêu và chính mình trong đó. Bích Trân đâu, về đây dự phần anh hoả táng tình em. Thuấn lái xe nôn nóng, cảm giác nôn nóng quen thuộc đã bỏ qua từ lâu. Quỳnh Như, nước da trắng mát, đôi mắt đen, bầu ngực căng tròn quyến rũ, bao năm rồi Thuấn không có được cái thân thể nồng nàn quyến rũ đó, Thuấn chỉ có những ly rượu, rượu mê mải và những cơn ái tình nhơ nhớp thô bạo.
Thuấn chỉ có những cơn tình ngắn ngủi thô bạo đó, lượng sóng tinh khiết đã kéo ra khơi, còn lại trên bát ngát linh hồn thứ rác rưởi khô héo của một đời gian nan. Thuấn không có thì giờ và cơ hội để nắm được trong tay giọt sương linh thiêng của tình yêu. Chiến tranh và Bích Trân quét một nhát cuồng phong trên đời Thuấn.
"Sao Đại uý không có bồ có vợ gì cả". Thằng Thiên đã hỏi như thế.
"Mày coi có bà già nào chỉ tao tới, lấy liền, còn mục học sinh con nhà lành "tìm bạn bốn phương" tao không ham, lẩm cẩm và nhà quê bỏ mẹ…" Thuấn đã nói với gã lính thân tín như thế. Gã lính cười, nó biết đâu cơn sụp đổ điêu tàn trong lòng Thuấn. Nhấn thêm gaz, chiếc xe chạy như cơn hốt hoảng muốn chạy trốn nỗi tang thương, muốn bắt kịp hình dáng sáng tươi của thanh xuân. Quỳnh Như, thịt da bí ẩn đợi chờ Thuấn trong bóng đêm cùng với nỗi cảm xúc nhiệt thành bất chợt. Thuấn mở lớn hai mắt, máu dồn lên thái dương, hai tay bấu chặt tay lái. Một con người thật quen thuộc nào được hồi sinh. Xác ma trong giây phút âm dương hoà hợp chợt đứng dậy, hối hả sống cùng đời.
Ánh đèn xe quét vội lên mặt hàng rào nhà Quỳnh Như. Một bóng trắng thấp thoáng. "Anh". Tiếng nói thảng thốt mừng rỡ cuối cơn nôn nóng, rất cuồng nhiệt. Thuấn thắng mạnh, tắt đèn, nhảy xuống xe, bước về chiếc cổng gỗ đang lay động. “Em”. Trong bóng đêm mờ sương buốt giá, dưới tàn cây xanh, hai người im lặng sít sao chặt chẽ, chỉ có tiếng thở đứt khoảng và nụ hôn sũng ướt. "Anh lái xe lại đàng kia, tắt đèn đợi em lấy áo choàng".
Quỳnh Như biến ra khỏi nhà. Trong nhà vang tiếng hỏi: "Tối rồi, đi đâu?” Quỳnh Như không trả lời, nàng khép tà áo chạy nhanh hơn. Đàng kia tình yêu, cuộc phiêu lưu kỳ lạ đang chờ đợi.
"Anh quẹo phía trái".
"Đường gì tối mò vậy?"
"Đường Âm Hồn, ngã này ít người quen, em không muốn cho họ thấy".
"Em sợ?"
"Cũng không hẳn thế, anh đi về phía tay trái nữa, lái chậm để em chỉ đường…”
Bây giờ xung quanh là bóng tối, mặt hồ đen thảm hơi bùn non, cá đớp mồi nghe xa xăm.
"Hồ này là hồ gì? Lạnh và vắng quá…"
"Hồ Tĩnh Tâm, thuở xưa vua đến đây chơi… Bây giờ mình đang đứng giữa một giả sơn, ban ngày đẹp lắm”. Thuấn kéo Quỳnh Như ngã xuống. "Khoan để em lót chiếc manteau, nền đá dơ lắm”. Thuấn cởi chiếc áo saut cuốn tròn một cục. Gối cho em đấy. Thuấn thấy hàm răng của Quỳnh Như sáng trắng. “Anh có nghĩ em bất thường?”
"Không". Thuấn kéo Quỳnh Như sát vào người.
"Anh với em cùng thấy tương lai cuộc tình ngắn hạn, gắng sống cho đủ”. Quỳnh Như gật đầu trước khi chìm đắm vào nụ hôn. Thuấn hít thật đầy qua lớp áo mỏng, mùi thịt da Quỳnh Như như khối không khí được nén lại nặng trĩu kích thích.
"Khi em ra với anh, ở nhà biết?"
"Nhưng em bất kể, em không còn với anh bao lâu nữa".
"Người Huế vốn kín đáo”.
"Nhưng đâu phải không biết liều lĩnh”.
"Lần đầu tiên anh quen với một người Huế, bề ngoài của em không phản chiếu gì con người bên trong của em hết, lúc về nơi đóng quân, anh còn lấy làm lạ phản ứng của em".
"Vì anh là thứ điện làm em bốc cháy, anh là loại người giúp người khác sống hết mình".
"Anh chẳng thấy được quý tính ấy, nó như thế nào?"
"Đừng đùa, em nói thật, anh có cái vẻ người bạn thân từ lâu, gây cho người ta ý muốn được tâm sự”.
"Anh không biết điều đó, nhưng anh biết được người nào thương hay ghét mình ngay lần gặp đầu tiên".
"Anh đã nói điều này khi chiều rồi, anh có đoán được hành động của em không?”
"Có, nhưng không đến nỗi như thế này, anh nghĩ em chỉ có một thoáng cảm tình, thứ "hồn bướm mơ tiên".
"Và anh thụ động?”
"Em muốn anh làm những gì? Em đã có chồng…"
"Mới lễ hỏi thôi, chưa đám cưới, nhưng em muốn nói về phần anh, anh không biết liều lĩnh?”
"Liều lĩnh". Thuấn cười nhỏ. "Anh biết chứ, nhưng liều đến đâu, mang em đi, thú thật anh không nghĩ đến điều đó, vì anh… mệt, anh mệt thật tình, sống đã khó, mang thêm một tình yêu trắc trở anh làm không nổi".
"Anh hối hận về em?"
"Không, anh hãnh diện và sung sướng được yêu em, em đánh thức anh dậy, anh ngủ mê hơi lâu. Anh muốn được yêu, anh đi tìm điều này". Rất nhiều thành thật trong giọng nói. Thuấn thấy rõ nỗi thành tâm cay đắng. Hai mươi sáu tuổi, số tuổi vững vàng và đẹp của người thanh niên, nhưng Thuấn đã không sống cùng với nó. Trên chiếc chiếu thanh xuân của đời mình chàng chỉ thấy lúc nhúc hỗn độn những buồn phiền có hình khối, mùi vị, thứ mùi vị lạ lùng của thây người chết bốc lên theo vết thương tím thẫm máu bầm. Hơi chết, hơi thuốc súng hỗn hợp hoà tan thành khối không khí nhạt nhoà xanh tươi, tuổi thanh xuân của Thuấn lên men kinh dị trong môi trường đó. Tuổi hai mươi sáu của Thuấn đầy dẫy tiếng động rên siết của xe nhà binh đi qua cầu hãm lại, chiếc thùng gỗ ném xuống … Bục! Tiếng rơi lạnh tanh đắng cứng như lưỡi dao đi xuống một đường cổ trần trụi. Tuổi trẻ của Thuấn chỉ có niềm vui khi bỏ đá vào ly và lượng rượu màu vàng chảy xuống, đường suối thênh thang đoản mệnh bọt bèo, thuốc độc của thượng du mời uống vào để bay là đà trên mặt trời lận đận…Tuổi trẻ hai mươi sáu của Thuấn giống như lớp tro tàn của ngôi nhà bị cháy, còn trơ lại chiếc cột đen đúa sừng sững giữa một trời mây xuống thấp.
"Sao anh yên lặng?"
"Không, anh bàng hoàng với tình yêu của em". Quỳnh Như nằm hẳn trên người Thuấn, nụ hôn mê mái bằn bặt.
"Em làm anh thèm muốn!"
"Không quan hệ, em chìu anh… Em cũng thế…"
Thuấn lần tay mở hàng nút áo, thịt da xôn xao trống trải, hai cồn ngực của người thiếu nữ vừa trở thành đàn bà cứng ngắc. Thuấn di động hơi thở trên đó, Quỳnh Như run thiêm thiếp dưới nụ hôn. Lâu lắm Thuấn mới lại có cảm giác này, làm chủ được thân thể người khác, thân thể giới hạn nhưng có những rung động mở ra vô cùng.
"Anh yêu em". Nhiều thành thật và sung sướng trong tiếng nói thì thào. Quỳnh Như không phải ôm Thuấn bằng hai tay nhưng bởi sức mạnh thèm muốn của một đời mơ ước. Đêm yên lặng, mặt đá cứng, nỗi u tịch rì rầm trong lá nhỏ, dưới mặt hồ cảnh vật thấp thoáng tan vỡ, lung linh. Mối tình này cũng vậy. Chút nước tìm được trong sa mạc bốc cháy uống cho hết, uống mê man. Quỳnh Như cào cấu rên siết trên mối tình đột khởi do nàng vừa xây đắp.
"Anh, em chết mất, bỏ anh sao được… Anh thân yêu".
"Thôi, anh phải về, khuya rồi".
"Anh về đâu?”
"Về ngoài chỗ đóng quân, cây số 17”.
"Đâu được, bây giờ Việt Cộng đầy đường, anh làm sao về được?!!”
"Không quan hệ, anh hành quân vùng này suốt mấy tháng, chỉ có du kích, để đèn mắt mèo chạy cái ào sức mấy tụi nó biết…"
"Không, em van anh, lỡ có chuyện gì em ân hận suốt đời… Hay anh vào nhà em".
Thuấn mỉm cười. "Em định tập cho anh thành Casanova tân thời? Phần anh, thì không kể, ngại cho em…"
"Không cần, em bất chấp tất cả để gần anh, em cũng lạ với chính mình, không hiểu sao em yêu anh đến thế. Buổi chiều khi anh về, em đếm từng phút, bảy phút, hai mươi ba phút, mỗi phút em nhớ anh theo một cách khác, hình như có khối gì thật nặng đè lên trái tim, em thở không nổi… Cơm chiều không ăn nhưng em không đói, nếu tối nay anh không đến chắc em không ngủ được. Không phải là tình yêu thuần tuý, nhưng là cơn điên bất ngờ làm nổ tung niềm ấm ức của đời em. Không phải em bị quyến rũ gì ở anh nhưng anh làm em thấy rõ mình, anh làm em sống hoàn toàn cho mình". Quỳnh Như ngồi rũ xuống, tóc đen hơn bóng đêm. Từ trong khối đen xôn xao đó Thuấn nghe tiếng nói và nhịp dập của quả tim. Đã từ lâu Thuấn không nghe lời này, những lời của người nói cho người.
"Được, em vào nhà mở trước cửa sổ đợi, anh chạy vào trong chỗ tiền trạm gởi cái xe xong sẽ đến cùng em…"
Quỳnh Như gật đầu, nụ hôn không rời trước khi chia tay. Cửa sổ phòng Quỳnh Như đã mở sẵn, bóng người thiếu nữ thẫm hơn nền trời. Thuấn leo vào, cửa sổ đóng chặt lại. Ngoài kia trời cuối năm xứ Huế rét cóng được xua tan.
"Sao anh đầy mồ hôi thế này?"
"Anh chạy từ trong tiền trạm ra… Để anh cởi bớt áo, nực quá…”
"Đừng cởi áo trời lạnh lắm, mười bốn độ, vào nằm sát em…"
"Em không thẹn với anh? Tiếng cười khúc khích ấm áp…"
"Chỉ một lần với anh và thôi, đừng nói gì nữa, em muốn nằm im…"
"Anh cũng thế, năm năm sau này anh chưa nằm trên giường civil một lần, chỉ ngủ võng, về hậu cứ nằm giường sắt nhà binh, anh bắt đầu lạnh rồi. Nằm trong chăn với em ấm thật, buổi sáng gặp em anh đâu nghĩ đến lạc thú này… Quỳnh Như…"
"Gì anh?"
"Em có thể bỏ nhà vào Sài Gòn ở với anh?"
"Em cũng nghĩ thế nhưng chắc không được, không thể được?”
"Lý do chính?"
"Rất nhiều lý do nhưng trở ngại chính là anh và em… Hỏi thật lại mình có muốn sống hẳn với nhau không?"
Thuấn im lặng, câu nói Quỳnh Như như ánh sáng lóe lên trong căn phòng đồ đạc đã được dọn đi, người chủ trở về tìm kiếm sau thời gian dài vắng mặt. Thuấn cảm thấy khó khăn, chàng khẽ chuyển động cánh tay. Quỳnh Như biết ý, ngửng đầu dậy, cánh tay được rút ra, Thuấn khoanh trước ngực.
"Anh đừng nghĩ ngợi, mình chỉ có một chút thời gian để sống cho nhau, những quyết định mai sau chưa tính được trong lúc này, một biến cố trọng đại nào sẽ giúp cho mình thấy được ý định có cần chung sống với nhau hay không”.
"Em quá khôn!"
"Không phải, nhưng vì là đàn bà em có linh cảm nhạy hơn đàn ông, hơn nữa em khởi đầu tai nạn này…"
"Tai nạn?"
"Tai nạn mê đắm…”
Bốn cánh tay xoắn tròn lấy thân hình chặt hơn nụ hôn không vừa đủ, phải cấu vào thịt, phải ngậm chặt vào xương, phải ép sát, cào cấu rên siết để uống cho hết lượng cảm xúc, hít cho hết hơi khoái lạc. Không đủ, thân thể như thành trì không chinh phục được, có những khoảng sâu xa xôi quyến rũ mê đắm mãi không tìm thấy… Đây rồi, thân thể có những vật dụng riêng, những quý vật thần bí và tuyệt vời.
Bằng rú gaz, chiếc xe gắn máy chạy nôn nao trên con đường đầy núi và bóng tối. Trời lạnh, sương mù, ánh đèn xe vệt một đường vàng úa trong khối không khí xám đục. Sương quá dầy không thấy gì ngoài một khoảng đường đất đỏ, xe lên dốc xuống dốc rú tiếng lớn, tiếng rú nghe nhức nhối vọng lên trong đêm khuya được gió mang đi xa len lỏi vào trong rừng dương… Tóc Bằng xoã xuống trán, bay ngược đàng sau, người chông chênh nhún nhảy theo đà nẩy của thân xe. Lâu lắm Bằng không có hành động hung bạo này, Bằng đang đi dưới chân Ngự Bình, hai bên sườn núi mồ mả mông mênh dằng dặc. Quá khứ của người Huế đưa nhau ra nằm hai bên sườn núi này. Đây là quê hương của người chết, số đông gấp đôi những người đang sống dưới thành phố. Có những ngôi mộ của năm 1900… Đến nay là 70 năm, bảy mươi năm già của nghĩa địa có bề ngang từ An Cựu qua Nam Giao và dài dài lần theo hướng Nam. Bằng ước tính chiều dài khoảng mười cây số. Ba mươi cây số diện tích đủ chỗ cho bao nhiêu người nằm xuống? Mộ trắng, mộ đen, thánh giá hay hoa sen nằm chen chúc hỗn độn dưới ánh đèn của chiếc xe gắn máy, Bằng tưởng tượng hàng trăm ngàn bộ xương người dưới đất đồng loạt đứng dậy, hàng triệu tiếng la từ khe hở của quan tài theo chân cỏ, cọng hương vang lên the thé giãy giụa. Hồn ma nào chẳng có uất ức? Người Huế có những cái chết đẹp như cụ Hường Phong sáng sớm trước khi chết tự tay pha ấm trà nhỏ, bước chậm rãi ra vườn hái bông hoa lài, một hoa cắm ở bàn Phật, một thả vào lớp nước xanh bốc khói. Cụ Hường tụng một đoạn kinh Thuỷ Sám; tiếng tụng kinh chậm rãi khoan thai rọi sáng căn nhà thờ u ám, tiếng tụng kinh lách qua chân cửa sổ sơn đỏ bay là đà trên lá ổi, lá sầu đông… Cụ Hường Phong điểm tiếng mõ nhẹ nhàng, nhẹ dần, nhẹ dần, giọng kinh chuyển sang chơi vơi mơ hồ như âm thanh rạt rào của tiên tri sóng hư vô vọng từ nơi xa. Cụ Hường chết khi rơi xong tiếng mõ cuối cùng. Nhưng người Huế cũng có những cái chết kinh khiếp, chết như bà Bộ Vĩnh, như cụ Ngáo. Bà Bộ Vĩnh giàu nứt vách đổ ngói, bà Bộ Vĩnh giàu với vàng phải tính bằng ký lô. Lụt năm Thìn rút đi, người ta đói khổ thiếu đường phải chết như năm Thân, năm Dậu, bà đem vàng ra phơi đầy sân đỏ chóe cả trời.
Nhưng khi bà Bộ Vĩnh chết không có được cái quan tài, thân thể bó trong chiếc chiếu rách buộc chặt bởi sợi dây thừng, con cái đi vắng, hàng xóm lo chạy lụt, xác bà triệu phú giàu nhất Huế nổi lềnh bềnh trong căn nhà rộng thênh thang, lũ chuột đói bò lên trú ẩn, chúng ăn vào cái phao nổi đó trong những ngày mưa gió … Nước rút đi, cái xác chết của người có vàng phơi đầy sân còn lại một đống xương nhơ nhớp. Những người chết sung sướng và tang thương của xứ Huế đều được chôn ở đây. Bằng đi qua quá khứ quê hương với một đầu óc nổ tung phẫn nộ… Bằng nghĩ đến cái nhìn của Quỳnh Như với gã lính Nhảy dù, người chàng lao đao muốn nôn khan.
Bằng biết Quỳnh Như từ thuở bé, người con gái bề ngoài lặng lẽ đó có một mơ ước kỳ lạ, nàng mơ những điều không thực, nàng ao ước được nguy biến, nàng muốn sống theo nghịch lý hỗn loạn. Sức Quỳnh Như không thực hiện được. Bằng cũng vậy, nên hai người níu kéo dày vò nhau trong không khí đặc quánh chán nản của một xứ Huế khép kín. Họ đưa nhau vào chốn ào ạt dục tình để đánh nhau từng đòn chí tử thê thảm và tuyệt vọng… "Cái quần lót đâu?…” “Lỡ có thai rồi sao?” Những phút giây biến động hạn hẹp trôi qua, phút giây bềnh bồng trong thiên đường có cường độ và kích thước, những phút giây ngắn ngủi bèo bọt đó chấm dứt thật nhanh và họ thấy lại nhau… Thấy thật rõ, loài chim cuốc vụng về lủi vào bụi cây hoang để tưởng đang thong dong trong cảnh rừng thẫm bóng. Bằng biết Quỳnh Như qua bạc nhược của mình. Gã lính xuất hiện đúng lúc.
Bằng thấy nhức mỏi, rũ rượi, có đổ vỡ toàn diện của chiếc gương soi rõ được thảm thương đời mình. Chiếc xe chạy lồng lộng, núi ban đêm xao động dưới ánh đèn quấy đục sương giăng.
Đến cổng chùa Từ Nghiêm, Bằng không tắt đèn, bẻ cổ xe để ánh đèn rọi xuống thung lũng trước cổng chùa. Đáy thung lũng tím thẫm, hàng ngàn côn trùng rả rích thê lương. Bỗng chốc tiếng rì rào buồn nản như vụt tắt, vạn vật chìm thấp xuống một vùng đen tối mịt mùng… Tiếng rì rào lạ lại nổi dậy ở một góc núi xa hơn. Bằng bấm còi xe, trong chùa có ánh đuốc, hai bóng nhỏ hiện ra dưới ánh sáng lập lòe của ngọn lửa.
"Ai đó, làm chi mà khuya khoắt rứa?"
"Tui, thầy Bằng đây hai điệu, hai điệu vô nói với thầy Trí Không có tui cần gặp, chuyện quan trọng dưới Viện Đại học”.
"Dạ". Hai chú điệu tất tả đi vào.
"Có gì vậy, anh Bằng?"
"Vâng, rất quan trọng". Bằng tắt đèn, bóng tối dày đặc, rừng xung quanh đen thẫm. Chuyện quan trọng, thật ra đến mai Bằng nói cũng vừa nhưng biến cố của buổi chiều, cuộc cãi lộn với Quỳnh Như làm Bằng lao đao, một mình đi lên núi trong đêm khuya, Bằng muốn phá vỡ hết nỗi hốt hoảng riêng ta trong lòng.
"Tôi sẽ nói vắn tắt xin thầy quyết định mau chóng. Hôm nay là hai mươi chín Tết còn một ngày nữa là cuối năm, có những biến động vô cùng quan trọng, lệnh tổng phản công được ấn định rồi, thầy không cần biết điều đó, sau giờ quân đội Cách mạng làm chủ thành phố Huế, chính quyền hiện tại, tôi ở trong Uỷ ban Thanh niên, thế nên hôm nay đến đây mời thầy gia nhập Uỷ ban đó, thầy phụ trách về thanh niên Phật tử".
"Tôi?" Đại đức Trí Không khẽ rùng mình: Thanh niên Phật tử những người trẻ tuổi hào hùng, bỗng chốc bùng lên tàn ác. Thanh niên Phật tử, Đại đức Trí Không đã thấy hôm đốt phá Thư viện Mỹ, đám tuổi trẻ quần xanh áo trắng mang dép nhào vào biển lửa, cấu xé, gào thét trên từng trang giấy, trên mỗi mẫu tự, họ say sưa cuồng sát trên đống chữ nghĩa vô tri một cách ma quái. Đại đức sẽ phụ trách dẫn dắt họ, tuổi trẻ phải có mục tiêu, nhưng mục tiêu nào của họ đây? Người Mỹ, thật ra chỉ là tên gọi tổng quát sức mạnh siêu đẳng của văn minh Tây phương. Đất nước này là nơi nôn mửa của các nền văn minh, Tàu, Ấn, Nhật, Pháp và bây giờ là Mỹ… Tất cả sự no nê thừa thãi trong lòng các thứ văn minh kia đã đổ xuống đây. Họ nôn xuống để tiêu tan cơn thặng dư khó chịu gây thành chứng choáng váng tăng máu… Đại đức Trí Không sẽ thống lĩnh đám trẻ tuổi hăng hái, đã trút giận hờn trên những trang sách ngoại ngữ khó đọc, sách mà tuần trước họ đã kính cẩn nghiêm trang xếp hàng đi mượn sách… Đại đức Trí Không sẽ làm lãnh tụ đám trẻ tuổi xôn xao ấy để nói những gì… Người Mỹ bẩn thỉu, Đế quốc mới… Chiến tranh phi nhân, chiến tranh của bọn lính đánh thuê… Cực quá thầy ơi! Trung sĩ Tròn của Tiểu đoàn mười chín Nhảy dù, loại lính tàn ác nhất của lũ Nguỵ, cởi chiếc áo, lạnh quá, hai xương vai nhô lên gầy guộc không căng nổi lớp da nhăn nheo… Tui bốn mươi hai tuổi rồi thầy… Đại đức sẽ đưa tuổi trẻ về đâu?
"Thế nào, thầy chấp nhận?"
"Nếu tôi không…"
"Thì những người chỉ huy quân đội Giải phóng sẽ suy diễn: Chùa đã cho lính Nhảy dù ở, thầy đã có những liên lạc chặt chẽ với đám sĩ quan”.
"Những điều vô lý, ai cấm được họ vào đây, câu chuyện giữa họ và tôi có liên hệ nào đến chính trị?”
"Những người chỉ huy kia không nghĩ như thầy, chùa này tồn tại hay không do quyết định của thầy!!”
"Nhưng tại sao lại chọn tôi?"
"Thầy là nhà sư trẻ có sinh hoạt gần với thanh niên, không phải tôi chọn thầy, nhưng chính Mặt trận ra lệnh tôi móc nối với thầy vào công tác".
"Bao giờ khởi sự?" Nhà sư đè xuống xao động để nói giọng bình thản…
"Thầy cứ ở chùa, đừng đi đâu, sẽ có người đến đón ngày mai hay mốt, thầy cứ giữ cây súng này".
"Tôi không biết bắn súng và để làm gì?" Đại đức Trí Không luồn hai tay vào cánh áo rộng, bàn tay siết chặt vào nhau kìm xuống cơn hỗn loạn. Nhưng không được, giọng nói đã có nét bi phẫn, người tu hành nhìn thấy một giờ phút sắp đến phải nổ viên đạn quái ác vào một người nào đó… Đại đức Trí Không thở hắt ra… "A Di Đà Phật…" Cuộc đấu tranh kinh hoàng đã đến, nhà sư gọi đấng Chí tôn sự trợ lực.
"Súng này là súng rouleau, bóp cò là nổ, có đạn sẵn trong đó. Mặt trận đã tiên liệu trước vì thầy không biết bắn súng, đáng lẽ người ta phát cho thầy loại K.54”.
Nhà sư muốn hỏi K.54 là gì, nhưng thôi, một lớp lo âu đã che lên linh hồn yên tĩnh. Khẩu súng lục ở tay, bộ áo quần tu hành không được tiên liệu để mang vũ khí, nhà sư giấu trong vạt áo nâu, hai tay ở ngoài ôm lấy… "Thôi anh Bằng về". Bóng nhà sư thẳm hơn bóng đen của rừng, đêm gió thổi luồn qua rừng dương dưới thung lũng nghe vật vã. Bằng đưa chân lên đạp máy, chàng thấy mệt mỏi thật sự.
Bằng cho xe đi chậm, lạnh cuối năm như dao cắt, buốt giá luồn sâu trong thịt xương. Bằng run rẩy đốt điếu thuốc, đóm lửa lòe lên trong đêm trông như ma trơi. Bằng nhìn đồng hồ: 10 giờ 45 phút, thở hơi khói vào sương mù. Muốn tan thành thứ khói vô tri.
10 giờ 45 phút, Thuấn chồm lên người Quỳnh Như.
"Sao anh khoẻ thế, lần thứ ba…!!!"
"Anh nhịn lâu rồi, để anh thoả thuê trên em bù lại…" Tiếng nói đứt khúc vì hai đôi môi đã gắn chặt.
"Nhẹ anh, mạnh quá đau em, em có cảm giác lên thật chậm nhưng chắc chắn khi anh nhẹ nhàng em mới có cảm giác đó”. Quỳnh Như thì thào, năn nỉ, từng tiếng động một di động khó khăn tạo thành những câu nói đứt khoảng…
"Anh tu hơn tháng nay…"
"Và trước tháng nay?"
"Cũng thế, anh thuộc loại nặng tình dục nhưng không thể ôm một thân thể khác phái nếu không xúc động. Năm năm nay anh không có sinh hoạt thú vị này… Tạm nghỉ, để luận về tình yêu?…"
"Dạ, em mệt muốn ngủ, khi có đủ em muốn ngủ, những đầu ngón tay căng cứng… Em thiếp đi thật thần diệu… Anh bảo anh năm năm nay?”
"Ừ, gái điếm chỉ đến khi quá độ chịu đựng, chóng vánh và thuần tuý của động tác cơ học để cái của anh được đụng chạm, khích động thế thôi…”
"Không qua một cô gái nào với chút tình yêu?"
"Không, hoàn toàn như thế, tuy anh lông bông nói xạo cả ngày, nhưng anh thấy già, già cằn cỗi, sau trận Đồng xoài, em biết trận Đồng Xoài năm 1965? Đấy, anh tập uống rượu sau trận đó… Rượu làm cho dục tình tăng nhưng lại chặt đứt phần tinh tế của sinh hoạt yêu đương. Rượu đốt cháy thật nhanh những cảm xúc linh diệu của động tác ái ân… Nên anh đã đi qua tuổi trẻ mình không tình yêu. Tình yêu, với số tuổi và cách thế sống lính tráng anh quan niệm hơi thô bạo. Tất cả sinh hoạt phong phú tinh thần phải được thể hiện trên ân ái, anh không đến nỗi tuyên bố được như ông nội nào đó – Chiến trường của tôi là cái giường – Anh không được như vậy, nhưng bảo anh yêu kiểu ái tình cao thượng, tặng cái hoa pensée, hỏi em có thích màu tím không, có thích nhạc Trịnh Công Sơn… Tình yêu là kết hợp của hai cô đơn!!! Những cái đó không có anh, anh là lính Nhảy dù, thực tế và cụ thể. Yêu là sống hết và cho đủ, yêu là sống trong người yêu… Hà hà, hôm nay anh luận về tình yêu kỹ quá, ra vẻ có học lắm rồi… Lấy anh điếu thuốc”.
"Suỵt, anh nói nhỏ, bà già em nghe được thì khốn".
Thuấn nghĩ thầm, nếu có thể anh yêu bà luôn. Thuấn bằng lòng với ý nghĩ mất dạy thoáng qua.
"Anh bảo năm năm nay anh không yêu nhưng trước kia thì sao?"
"Trước kia có, có một lần độc nhất, choáng váng, ngất ngư, người nặng như đá, hút chặt vào da như đỉa, một lần rồi kiệt lực luôn. Lúc đó anh mới ra trường, nửa trẻ con, nửa người lớn. Từ bao nhiêu năm trước, lúc mới ra trường, anh đã thấy mệt, mệt rõ ràng, không phải đợi đến năm nay lúc hai mươi sáu tuổi, sáu năm đi như con ma dọc hết nửa nước Việt Nam. Nhưng từ lúc mới hai mươi mốt tuổi đó, còn ham đội mũ đỏ, mặc áo hoa rằn ri, anh đã thấy trước một đời sống phiền muộn và nhọc nhằn. Hơn ai hết anh không sợ khổ, khổ thể xác chỉ là cách tôi luyện bắp thịt. Lúc học Biệt động quân, từ Ninh Hoà tới Dục Mỹ mười bốn cây số anh chạy chỉ khoảng năm mươi phút. Anh hai mươi mốt tuổi, bắp thịt dẻo dai như con ngựa rừng, cơ thể qua khổ cực dễ dàng không chút khó khăn, nhưng lúc đó anh đã thấy đời sống nhà binh khép lại từ từ, như thằng người ngồi trên nóc nhà nhìn nước lụt đang lên từng phân, từng tấc rõ ràng, nước dâng có tiếng động róc rách ngấm thành một lớp loang sẫm trên cây cột màu vàng… Hơn nữa anh không thích làm lớn, chắc chắn như vậy vì em thấy làm lớn ở đất nước này để làm gì, mở hotel cho Mỹ mướn, mở trại heo… Làm Tướng để có đủ bộ ba, phương tiện, lo hộ chuyện đó sao? Anh không ham. Hay làm lớn để đi xe bọc nệm trắng, xua quân ào ạt vào mục tiêu, trên trời có Đại tướng, Tổng thống gọi máy nói liên lạc từ trực thăng xuống để nói chuyện… “Danh dự tất cả quân lực ở trong tay anh…” “Vâng, tôi nghe rõ Mặt trời", xong anh thúc lính tiến chiếm mục tiêu, tịch thu súng 12 ly 7, súng cối 82 ly, hoả tiễn 122 ly, rồi được gắn Bảo quốc huân chương, được mấy thằng ở đài truyền hình, truyền thanh rà cái máy vào mặt để hỏi. Xin Trung tá cho biết diễn tiến trận đánh… Làm lớn để được chừng đó, anh đâu cần… ĐM, có cái thằng khoá đàn em của anh mới Thiếu uý khi được phỏng vấn hỏi đến tương lai, nó trả lời: “Ít nhất tôi phải được làm Tướng", bố khỉ, làm Tướng để được hút Craven A mua bằng tiền quỹ hoả thực, có sĩ quan tuỳ viên bật hộp quẹt thì làm chó gì, Tướng vậy là Tướng giấy…"
"Anh có vẻ cay cú?"
"Chẳng phải, nhưng anh muốn nói rõ tâm trạng của mình lúc ấy, em thấy anh đã mệt từ cuộc đua khởi đầu… Và lúc đó, đồng thời cái “tai” nạn thiên thu xảy đến…” Thuấn ngừng nói, lặng hút điếu thuốc đang cháy đỏ.
"Rồi thế nào nữa?"
"Rồi… hết, chỉ có vậy, anh bị đè cứng, hết nhúc nhích!" Thuấn dí điếu thuốc vào chiếc dĩa dùng làm gạt tàn thuốc, xoay người lại… Thôi, không nói nữa. Luận hoài, mệt… Ôm anh…"
Quỳnh Như nhích người ra. "Nhưng tại sao anh không nói rõ chi tiết tai nạn gì đấy?”
"Em không cần biết!" Thuấn lăn vào kéo môi trên phần ngực trắng hồng… Quỳnh Như bất động, nhìn lên trần nhà.
"Anh vẫn còn muốn giấu em".
"Không phải đâu, nhưng chuyện ấy không liên hệ gì đến em, đừng lộn xộn, em muốn đóng vai người tình đau đớn hả?”
"Bắc kỳ đểu!”
"Không phải, nhưng anh với em có cả ngàn ngăn cách, mình gặp nhau được bao nhiêu lâu… Từ bốn giờ chiều đến bây giờ hai giờ mười phút, chưa được mười hai tiếng, em biết để làm gì? Trước mười hai giờ này em biết anh là ai?… Ngày mai anh về chỗ đóng quân, mốt chết, em làm gì được, em khóc, đòi ngã xuống huyệt anh, đâu được, em có chồng, người ta lại đưa anh vào nghĩa trang quân đội trong Sài Gòn, em sẽ làm sao? Em lên Phú Bài nhảy tàu bay theo anh?!! Hà… hà, không phải thô bạo nhưng đó là sự thật, em với anh thấy cả khởi đầu lẫn kết cục của tình yêu. Anh yêu em, có, nếu yêu theo nghĩa gần và rõ nhất. Anh yêu em vì muốn sống cho mình thật đầy đủ, ôm em trong tay, thấy hạnh phúc nhưng rồi sẽ được bao lâu? Anh sợ khi có ý nghĩ muốn chiếm giữ em đời đời, đời đời… nghe kinh bỏ mẹ… Anh có giữ đời đời cho anh được không? Em đừng trách anh thô bạo, hãy trách đời sống, đời độc địa kinh khủng vây bọc tấn công và biến đổi anh… Thôi mệt, không nói nữa… Ôm anh, hôn nữa…” Mở trận chiến ái tình mới! Quỳnh Như im lặng, trong nụ hôn nàng thấy mặn ở môi, giọt nước mắt nào đã chảy nàng không ngăn nổi. Thuấn thở dài.