Yến Phi nhảy từ ngọn cây xuống, ngồi bên cạnh Lưu Dụ, cùng dựa vào một thân cây khô, nửa vầng thái dương đã chìm vào sườn núi bên bờ Dĩnh Thủy. Sau ba canh giờ gấp gáp vượt đường mà đi, họ đã nghỉ ngơi đầy đủ, hà huống đêm nay vẫn muốn bôn hành, hy vọng trước lúc trời sáng tiềm nhập thành công Biên Hoang tập. Hai người cứ nhè đường rừng rậm rạp mà đi, đương nhiên vì sợ Khất Phục Quốc Nhân không phải đã táng mạng trong tay vị siêu cấp cao thủ kia như mong muốn, tiếp tục thả Thiên nhãn tìm kiếm hành tung của họ. Lưu Dụ lấy ra mấy miếng lương khô chia cho Yến Phi cùng ăn, thuận miệng hỏi: “Nếu Thác Bạt Khuê lưu lại ám ký ở chỗ quy định ngoài tập, chúng ta cũng có thể không cần nhập tập”. Yến Phi hờ hững nói: “Chúng ta có thể biết điều đó rất mau mà”. Lưu Dụ miệng nhai lương khô, định nói gì lại thôi. Yến Phi ngạc nhiên: “Huynh nghĩ gì vậy?”. Lưu Dụ hơi lúng túng nói: “Ta muốn hỏi Yến huynh thực ra là người Hán hay Tiên Ti, lại sợ có phần đường đột”. Yến Phi cười nhẹ: “Ta trước nay chưa từng phiền não vì chuyện này, cũng chưa khi nào suy nghĩ kỹ về nó. Trải qua nhiều năm các tộc dân giao hòa lẫn lộn, ở phương bắc sự phân biệt Hồ Hán càng trở nên mơ hồ, tình hình ở nam phương chắc không như vậy”. Lưu Dụ thở than: “Đích xác không như thế, tổ tiên ta sống ở Bành thành, sau đấy thiên cư tới Kinh khẩu1, có thể nói chính là người phương nam. Đối với ta, Hồ nhân mang tới chiến tranh cùng những đổi thay lớn lao, trong số họ không ít kẻ tàn bạo, tùy ý giết người cướp của, xiết bao rùng rợn. Phù Kiên có lẽ cũng không khác, nếu buộc phải làm thần tử của hắn, ta chắc chịu không thấu, nguyện chết đi còn hơn”. Yến Phi im lặng một lát rồi hỏi: “Tạ Huyền phải chăng đúng là nhân vật như trong truyền thuyết, dụng binh như thần, kiếm pháp cái thế?”. Lưu Dụ nghiêm nét mặt nói: “Tạ soái đích thực là người phi thường xuất chúng, ông ta có một loại khí chất thiên sanh đặc biệt khiến người ta cam lòng chịu sai khiến, ta tuy không có chút hảo cảm với những kẻ xuất thân đại phiệt thế tộc, nhưng ông ta lại là ngoại lệ, chỉ cần coi tác phong dùng người theo tài năng, bất luận xuất thân của ông ta cũng đủ khiến người khâm phục”. Yến Phi cười nhẹ: “Lưu huynh sùng bái ông ta quá!Hhiện giờ ta cũng hy vọng ông ta được như huynh nói, nếu không thì chẳng đủ cân lượng đối phó với Phù Kiên đâu”. Lưu Dụ cặp mắt sáng rực, phấn khích thốt ra: “Người ta hâm mộ nhất không phải là ông ta mà là Tổ Địch, người này sinh ra trong thời kỳ loạn Bát vương, sau theo Tấn thất thiên cư về phương nam, ngày ngày gà gáy trở dậy, khổ luyện kiếm pháp. Nhớ năm xưa ông ta qua sông thề 'Tổ Địch nếu không quét sạch Trung Nguyên, chết cũng không tái hồi Giang Đông', thủ hạ quân lính không quá ngàn người, trang bị không có gì đáng nói, tự mình chiêu mộ quân sĩ, cùng lo liệu quân phí lương tiền”. Yến Phi quay hẳn đầu lại, mục quang chớp chớp nhìn kỹ Lưu Dụ nói: “Nguyên Lưu huynh ôm tráng chí mang quân bắc phạt?”. Lưu Dụ ngượng nghịu nói: “Yến huynh xin đừng cười, trong tình huống hiện giờ, đâu đã đến lượt đệ vọng tưởng chuyện đó?”. Yến Phi ngước mắt nhìn ráng chiều đẹp rực rỡ hắt lên từ vầng thái dương đã khuất sườn non, song mục ánh lên thần sắc mơ màng thê lương, lắc đầu: “Người ta phải có mộng tưởng, còn thành hay không lại là chuyện khác”. Lưu Dụ hỏi: “Mộng tưởng của Yến huynh là gì vậy?”. Yến Phi lộ ra một nét cười khổ, tránh khỏi chủ đề chính: “Tổ Địch xác thực là người tài giỏi, thiện dụng kế dùng địch chế địch, phía bắc binh quyền vươn tới Hoàng Hà, toàn bộ đất đai phía nam Hoàng Hà đều do ông ta thâu phục. Đáng tiếc là Tấn đế Tư Mã Diệu sợ không chế áp nổi khí thế của ông ta, tìm mọi cách trói chân trói tay ông ta, khiến Tổ Địch buồn giận phát bệnh, chết tại quân doanh, tráng chí chưa kịp thực hiện”. Lưu Dụ song mục lộ thần sắc phẫn hận, trầm giọng nói: “Nếu Lưu Dụ ta có cơ hội mang quân bắc phạt, nhất định không để triều đình có cơ hội khống chế hành động của mình”. Yến Phi giơ ngón tay cái khen: “Có chí khí!”. Lưu Dụ cười khổ: “Ta hiện tại giống như người mê nói mộng, nếu lời vừa rồi truyền ra, khẳng định cái đầu này không giữ nổi”. Yến Phi hớn hở nói: “Nói vậy, Lưu huynh đã coi mỗ như bằng hữu tâm phúc rồi!”. Lưu Dụ gật đầu khẳng định: “Đương nhiên rồi, có một điều khiến mỗ không tán đồng Tạ soái, đó là ông ấy quá vì gia tộc, hết sức duy trì hoàng tộc nhà Tấn không được lòng người, chiến thắng rồi thì thế nào? Còn dung túng cho các tướng lĩnh xuất thân thế tộc cường hào thừa cơ loạn lạc đi bốn phương cướp bắt tráng đinh phụ nữ đưa về trang viện ở Giang Nam sung làm nô tỳ, đối với với đất đai thổ địa bắc Hoàng Hà, tây Đồng Quan thì coi như bỏ, không hề có quyết tâm quang phục cố thổ”. Yến Phi động dung nói: “Lưu huynh trong lòng ngầm chứa bất bình, nhất định không chịu hòa mình vào dòng nước đục. Ha! Xem ra Yến Phi ta không cứu lầm người”. Lưu Dụ ngượng ngùng nói: “Ta là người thế nào Yến huynh đại khái đã rõ. Hắc! Ta nói nhiều rồi, giờ đến lượt huynh đó!”. Yến Phi thờ ơ: “Ta là kẻ không có mộng tưởng, lấy gì mà nói đây?”. Lưu Dụ nói: “Sao có thể không có mộng tưởng được? Ở tuổi hai ta, ít nhất cũng hy vọng có một cô em ngọt ngào xinh xắn chàng chàng thiếp thiếp cùng hưởng thụ cá nước vui vầy chứ”. Yến Phi thần sắc xuất hiện một nét thống khổ rồi hết ngay, như không có chuyện gì nói: “Có cơ hội chúng ta sẽ nói chuyện nghe, đến lúc lên đường rồi”. Lưu Dụ bằng cảm giác nhận thấy đối với chuyện tình cảm nam nữ Yến Phi nhất định có chuyện thương tâm, biết điều đừng có đi truy tầm căn nguyên, theo gã đứng lên tiếp tục hành trình. o0o Yên lung hàn thủy nguyệt lung sa Dạ bạc Tần Hoài cận tửu gia Thương nữ bất tri vong quốc hận Cách giang do xướng Hậu đình hoa. (Thơ Đỗ Mục – Khương Hữu Dụng dịch Nước lồng khói tỏa cát trăng pha Thuyền đỗ sông Hoài cạnh tửu gia Con hát biết chi hờn mất nước Cách sông còn hát Hậu đình hoa). Sông Tần Hoài vốn có tên là Tàng Long phố, cũng gọi là Hoài Thủy. Tương truyền Tần Thủy Hoàng đi tuần về phía đông qua chốn này, coi trúng hình thế đẹp đẽ, do đấy mà đoán được trong lòng Hoài Hà có phương sơn địa mạch ngầm dịch chuyển, tiết ra vương khí, từ đấy mới có danh xưng sông Tần Hoài. Triều đình đương thời thi hành chính sách cửu phẩm, làm cho chế độ môn phiệt trở nên thịnh hành, tên tuổi gia thế thành ra tiêu chuẩn tối cao xác định thân phận, thứ đặc quyền này tạo ra sự hủ hoá, ngu muội, không những theo đuổi danh lợi mà còn phục sức kỳ dị, hưởng lạc xa xỉ, chơi bời yến ẩm, cao môn tử đệ lại càng ra sức đua tranh. Lũ này sống trong một thế giới khác hẳn suốt ngày say sưa túy lúy, quốc gia hưng vong biến thành thứ hiện thực xa xăm nào đó, sùng bái thanh đàm dật nhạc, thỏa sức truy tầm thanh sắc, biến Tần Hoài thành chốn yên hoa đệ nhất thiên hạ, nơi thắng địa đầy lạc thú. Mười dặm hai bên bờ Tần Hoài nhà thuyền san sát, chạm vẽ cầu kỳ, rèm châu buông kín, nhưng bên trong thanh sắc náo nhiệt tới sáng không dứt. Trên sông thì tàu bè qua lại như thoi đưa, hoa thuyền tấp nập. Một dải Chu Tước Hàng hai bên bờ Tần Hoài là nơi tập trung các toà thanh lâu, nổi danh nhất là Tần Hoài Lâu và Hoài Nguyệt Lâu, phân lập đối diện nam bắc đôi bờ. Hai tòa thanh lâu này không những đại biểu cho cái gọi là Tần Hoài phong nguyệt, còn đại biểu cho phương thức sinh hoạt mà các thế gia quyền quý miền Giang Tả truy cầu, chính thị lạc thú của cuộc đời. o0o Một chiếc tiểu thuyền từ bến thuyền tại đông viên trong tướng phủ nhập Tần Hoài, tiến tới Chu Tước kiều, coi ra đích thị thiên hạ đệ nhất danh sĩ, phong lưu tể tướng Tạ An. Sự thực là Nam Tấn đã sớm phế bỏ chế độ tể tướng, chính sự nằm trong tay trung thư giám và trung thư lệnh. Hiện thời trung thư giám là Tạ An, trung thư lệnh là Vương Thản Chi, giữa tả hữu thừa tướng không có gì phân biệt, chỉ có danh xưng là khác nhau. Hơn tám mươi năm trở lại đây, giữ chức trung thư giám đều là thế tộc theo Tấn thất nam thiên, không có ai là thế tộc bổn địa, vị trí thứ sử miền đất đế đô Dương Châu cũng không khi nào giao cho bổn địa thế tộc. Các thế tộc phương nam uất ức thế nào tưởng cũng dễ thấy. Lại thêm kiều ngụ thế tộc cậy thế khinh người, người nào kẻ nấy tự ý chiếm đoạt ruộng đất và hồ ao đồi núi, làm tổn hại trực tiếp đến quyền lợi thế tộc bổn địa, khiến cho oán cừu ngày càng thêm sâu nặng. Không biết làm sao, những ngày gần đây Tạ An đặc biệt hay nghĩ tới những vấn đề liên quan đến phương diện này, vì thế ông mong mỏi có thể quên đi những chuyện nan giải này, càng không muốn có chuyện phiền não đến tay. Chỉ có Kỷ Thiên Thiên mới có thể khiến ông vui vẻ quên đi ưu sầu, chỉ cần những nụ cười ngọt ngào dễ dãi của nàng cũng đủ khiến cho ông cảm thụ được mặt bên kia hết sức tốt đẹp của cuộc đời, huống hồ còn có giọng ca điệu đàn đẹp nhất Tần Hoài của nàng. Phía sau tiểu thuyền vẽ nên hai lượn sóng nhỏ, nhẹ nhàng lan tỏa ra ngoài, cùng những con sóng vãng lai khác hòa trộn với nhau, ánh lửa đèn chiếu xuống, sóng gợn lăn tăn, hai bên bờ lầu son gác tía tựa như cảnh trong mộng. Đại quân Phù Kiên như bão táp lẽ nào sẽ chôn vùi cảnh đẹp như thơ như họa trước mắt trong đám đổ nát hoang tàn sao? o0o Lưu Dụ và Yến Phi phục trong đám loạn thạch trên một ngọn đồi ở bờ tây Dĩnh Thủy, quan sát bảy cỗ đại thuyền giương buồm xuôi dòng về phía nam, Lưu Dụ tính toán cẩn thận rồi nói: “Hai chiếc hẳn là chở khí giới công thành hạng nặng, năm chiếc còn lại là lương thuyền, có thể biết là người Tần đã bố trí cứ điểm ở bờ bắc Hoài Thủy, chuẩn bị qua sông Hoài”. Yến Phi thừa cơ điều tức vận khí, nghĩ bụng Lưu Dụ võ công có thể không hơn mình, nhưng chắc chắn trời sinh tinh lực dồi dào, thể chất khí phách đều siêu phàm hơn hẳn thường nhân, sau gần hai canh giờ toàn tốc bôn hành mà vẫn như không cóoái lui, cũng vội vàng len lén đi qua, tìm đến các nhã viện sương phòng khác. Tống Bi Phong bước vào chính sảnh, Tư Mã Nguyên Hiển cùng lũ thân tùy lập tức hướng mục quang tới, thần sắc bất thiện. Tống Bi Phong vẻ mặt bình tĩnh, đi thẳng tới trước mặt Tư Mã Nguyên Hiển, thi lễ xong lạnh lùng nói: “An công sai Bi Phong đại diện Thiên Thiên tiểu thư tới nhận lễ vật của Nguyên Hiển công tử”. Tư Mã Nguyên Hiển song mục loé lên sắc giận dữ, nhưng vẫn giữ thần thái bình tĩnh, nhíu mày nói: “Nguyên Hiển đương nhiên không dám quấy rầy An công, bất quá Nguyên Hiển mong được bồi tội trước mặt Thiên Thiên tiểu thư, hy vọng An công có thể tạo chút phương tiện, để Thiên Thiên tiểu thư ban ơn cho gặp”. Tống Bi Phong bề ngoài không biểu hiện gì, nhưng trong lòng đột nhiên hết sức giận dữ, dù cho Tư Mã Đạo Tử tới gặp Tạ An, cũng không dám mạo phạm. Tư Mã Nguyên Hiển bất luận thân phận đia vị đều kém xa, lấy đâu ra tư cách nói chuyện cùng Tạ An, làm sao bỗng nhiên dám khoa trương đến thế, chẳng trách ngày thường Tạ An vốn thản nhiên đối với những chuyện thường nhật, lần này lại giận dữ như thế. Tống Bi Phong nghĩ tới lời dặn dò của Tạ An, lập tức thần tình bất động, nói: “An công đã phân phó, nếu Nguyên Hiển công tử không nguyện ý mang lễ vật giao Bi Phong đưa lên Thiên Thiên tiểu thư, sẽ thỉnh các người cùng Nguyên Hiển công tử mang lễ bò ra khỏi Tần Hoài lâu”. Tư Mã Nguyên Hiển lập tức biến sắc, không nghĩ Tạ An vốn luôn ôn hòa nho nhã lại không lưu chút dư địa nào cho hắn, còn chưa kịp phát tác, trong đám thân tùy phía sau đã có hai kẻ bạt kiếm nhảy ra, gào to: “Nô tài muốn chết!”. Vung kiếm nhằm đầu Tống Bi Phong chém tới, khiến cho Thẩm lão đứng bên hoảng sợ ngã ra đằng sau. Bất luận Tư Mã Nguyên Hiển cậy thế cha ra làm sao, vẫn hiểu rõ không thể động võ với tùy tướng của Tạ An, đang muốn hét chúng ngừng tay, thì sự việc đã kết thúc. Tống Bi Phong trường kiếm sau lưng rời khỏi vỏ nhanh như điện, ngay lập tức hàn khí dàn dụa, kiếm khí lạnh buốt giăng đầy trước mắt Tư Mã Nguyên Hiển, như thể hữu hình. Bao gồm cả Tư Mã Nguyên Hiển, người nào người nấy đều cảm giác không thể cử động, hóa thành mục tiêu công kích của kiếm khí, kiếm pháp quả là kinh nhân. Mọi người tuy từ lâu nghe danh Tống Bi Phong cùng kiếm pháp của hắn, nhưng chưa ai từng coi qua hắn xuất thủ, vì vậy cũng không hề để vào lòng, đến lúc này mới được lãnh giáo thủ đoạn của hắn. Tiếng la thảm cất lên, hai kẻ công kích loạng choạng lui lại, hai thanh trường kiếm rơi loảng xoảng xuống đất, kiếm vẫn còn trong tay, chỉ có điều cả cánh tay đã chào tạm biệt chủ nhân, máu huyết phun ra thành vũng bao trùm cả hai cánh tay bị chặt đứt, thật khiến người thấy phải kinh hoàng. “Tang”. Tống Bi Phong tra kiếm vào vỏ, thần sắc thản nhiên như không có chuyện gì, thung dung nhìn vào khuôn mặt cắt không còn hạt máu của Tư Mã Nguyên Hiển, đột nhiên nói: “An công đã phân phó, dù cho Bi Phong có phải mất mạng, Bi Phong cũng sẽ tận lực vì người làm cho thỏa đáng”. Tư Mã Nguyên Hiển thấy thủ hạ đang vội vã băng bó cho mấy kẻ bị thương, tuy hận không thể bạt kiếm chém kiếm thủ đáng sợ trước mặt nát như tương, nhưng hiểu rõ dù chơi trò quần khởi vây công, sợ cũng không ăn thua gì. Cho dù lão gia của hắn đích thân xuất mã, đơn đả độc đấu cũng không chắc đã thắng nổi. Lập tức đứng lên, căm hận hét to: “Chẳng cần gì hết, chúng ta đi!”. Sải bước đi ra, chợt quay lại chỉ vào mặt Tống Bi Phong nói: “Tống Bi Phong, hãy nhớ ta, món nợ này sẽ có ngày ta trả ngươi gấp bội!”. Tống Bi Phong cười ha hả, cứ coi như không, xoay người đi mất, để lại Tư Mã Nguyên Hiển cùng thủ hạ căm tức đến xanh lè mặt mũi. Đúng như Lưu Dụ dự liệu, ranh giới phía bắc Biên Hoang tập vẫn còn trong giai đoạn phạt cây, hàng rào gỗ phía tây mới chỉ hoàn thành chưa tới một nửa, nhưng nếu công trình hoàn thành, sẽ bao quát toàn bộ Biên Hoang tập trong một đại mộc trại, khoảng đất trống hai bờ Dĩnh Thủy cũng nằm trong phạm vi mộc trại, dòng sông sẽ xuyên qua mộc trại chảy về nam. Tây nam Biên Hoang tập, bờ đông Dĩnh Thủy, lều trướng san sát, không ngừng có thuyền từ thượng du ghé qua, trên bến thuyền Biên Hoang tập có chừng trăm chiếc thuyền lớn nhỏ, khắp nơi treo đèn, chiếu lên Biên Hoang tập từ trong ra ngoài sáng như ban ngày. Có tới hàng vạn hoang nhân và Tần binh đang miệt mài đốn cây chuyển gỗ, hoang nhân đều là bang chúng Hồ bang thuộc Biên Hoang tập trước đây, nếu chúng biết sẽ bị bắt buộc ngày đêm làm việc khổ sở như thế này, chỉ sợ đã học theo Hán nhân chuồn đi rồi, có điều bây giờ hối cũng muộn. Hoang nhân thuộc các bang hội đương nhiên áo quần thường phục, Tần binh thì cũng cởi bỏ áo giáp, động thủ tác nghiệp, lại còn có kẻ mang lợi khí chặt cây, đây một đống, kia một đống, tình thế hỗn loạn, người người đều lộ vẻ mỏi mệt, cho dù ngay trước mặt có người đi qua, cũng chẳng có hơi sức và thời gian đâu mà để ý. Lưu Dụ và Yến Phi phục trong một bụi cây trên sườn dốc quan sát tình thế. Khu vực phạt cây tuy hỗn loạn, nhưng hai bên đông, bắc tường rào của Biên hoang tập lại được canh phòng nghiêm ngặt, trên đầu tường cao đều có Tần quân đứng gác. Hai bên bờ Dĩnh Thủy việc phòng vệ càng khẩn trương, chòi gác đặt khắp nơi. Lưu Dụ đau đầu nói: “Giá mà có một cơn mưa rào thì tốt biết bao”. Yến Phi nói: “Phương pháp duy nhất là theo mặt bắc Dĩnh Thủy lặn qua, rồi theo đường cống ngầm Cao Ngạn đã nói tiến vào tập”. Lưu Dụ nhíu mày nói: “Khu vực chòi canh bố trí dọc theo hai bờ sông dài tới hai dặm, chúng ta không thể bế khí lâu như thế, nếu có thể đi dưới đáy nước nửa dặm đã là phi thường rồi”. Yến Phi hỏi: “Lưu huynh chẳng lẽ không tinh thông thủy tính sao?”. Lưu Dụ đáp: “Bỏ qua chuyện công phu, Yến huynh phải chăng nghĩ đến việc dùng công phu hoán khí bằng ống trúc dưới nước, trong bao đeo sau lưng ta đã dự bị sẵn hai ống đồng, chỉ vì việc này phiêu lưu quá nên không dám nói ra”. Yến Phi ngạc nhiên: “Vì sao lại có đến hai cái như thế?”. Lưu Dụ nói:”Ta sinh tính cẩn thận, cái ống đồng này là dự bị cho Cao Ngạn, lại còn có hai bộ y phục của Tần binh, phương tiện dùng để thâm nhập địch doanh, tất cả đều được bao kín không sợ ngấm nước”. Yến Phi nói: “Huynh không những cẩn thận, mà còn suy nghĩ chu toàn, chuẩn bị đầy đủ. Coi kìa! bắt đầu có người nào đấy vứt các thân cây trôi theo bờ sông, có lẽ dùng cho việc kiến trúc đài quan sát, nếu chúng ta thay họ phụ trách vận chuyển gỗ thì thế nào nhỉ? không chừng có thể bớt mạo hiểm, đến thẳng được cửa cống ngầm nọ”. Trong tiếng cười khẽ, hai người chuồn nhanh tới khu đất có đám cây bị chặt phá. o0o Chỉ còn chừng nửa giờ nữa là trời sáng, Tạ Huyền mang Lưu Lao Chi cùng khoảng một trăm thân binh cưỡi ngựa phi nhanh trên đường quan đạo, bọn họ vừa gặp toán quân hộ tống Đại Yên ngọc tỷ, Tạ Huyền tự mình đã xem xét kỹ, rõ ràng là đồ thật, càng khẳng định ý nghĩa trọng đại của chuyến đi này. Trận chiến này đối với Tấn thất mà nói, ắt phải thắng chứ không được bại, đối với Tạ gia lại càng không thắng không được, bằng không cơ nghiệp khổ công gầy dựng bấy lâu của Tạ gia sẽ phút chốc tan tành. Kể từ khi nhà Tấn khai quốc tới nay, Tạ gia tuy đời nào cũng có người tài, triều nào cũng có quan chức, nhưng so với một vài gia tộc lừng danh đương thời, lịch sử của họ Tạ không phải là lâu đời, một số gia tộc từ đời Hán đã sớm có công danh lẫy lừng, còn Tạ gia phải tới thời Tào Ngụy mới có người làm quan, chỉ là chủ quản đồn điền, trung lang tướng, không phải chức quan hiển hách gì, đến thời Tấn sơ, tằng tổ của Tạ Huyền mới đạt được danh vị “thạc nho”, thành quốc tử bác sĩ, vì gia tộc mà gây dựng địa vị. Tuy rằng danh khí Tạ gia bắt đầu khởi phát, nhưng cũng phải chờ đến đời Tạ Côn là tổ phụ Tạ Huyền, ông mặc dù không lập được công lao sự nghiệp to lớn với triều đình, nhưng là một nhà huyền học xuất chúng, danh tiếng của họ Tạ chính từ nơi ông mà bùng phát. Gánh nặng trên vai Tạ Huyền chính là nếu không cẩn thận còn liên quan đến sự tồn tại hay diệt vong của nhà Tấn, đến vinh nhục của gia tộc, mà cả tới sự trồi sụt của Ô Y hào môn thuộc về Vương, Tạ lưỡng gia. Câu nói của Tạ An “cuộc sống thi tửu phong lưu chỉ có một đi không trở lại” bất giác lại vang lên trong đầu Tạ Huyền. o0o Mây đen che kín vầng trăng sáng, Lưu Dụ và Yến Phi áo quần bẩn thỉu mặt mũi nhem nhuốc trà trộn trong đám người chuyển gỗ, hợp lực khiêng một thân gỗ to như cánh tay trơ trụi, dài tới hai trượng, tìm nơi ánh đèn lửa chiếu không tới, từ từ men theo bờ sông phía đông Dĩnh thủy bên cạnh bến sông Biên Hoang tập mà đi. Hai người đang lúc khấp khởi vì thành công, bỗng nhiên sau một đống gỗ xuất hiện một bóng người, giơ tay ngăn lại nói: “Dừng bước”. Hai gã cảm thấy hết sức không ổn, định thần nhìn kỹ, chỉ thấy một khuôn mặt trét đầy bùn đất, dưới vành mũ kéo xuống thấp lộ ra một cặp mắt to đẹp long lanh như nước hồ thu, chớp chớp yêu kiều ngắm nghía hai người, đầy vẻ đắc ý. Dù đã cố hết sức trấn định, nhưng hai gã vẫn hồn phi phách tán, âm thầm kêu khẽ: “Hỏng bét!”. Nếu chẳng phải An Ngọc Tình đại yêu nữ thì còn là ai? An Ngọc Tình dịch lại phía Yến Phi cảnh cáo: “Không được ném bỏ thân gỗ, Thái Bình ngọc bội trong tay ai, mau khai thật ra, nếu không ta sẽ kêu to có gian tế”. Yến Phi nhìn thẳng vào cặp mắt to của ả, nén hồi hộp nói: “Chúng ta đương nhiên là gian tế, chẳng lẽ An tiểu thư không phải, làm kinh động kẻ khác cũng chẳng phải là chuyện gì tốt đối với ngươi”. An Ngọc Tình khẽ nhún vai nói: “Quá lắm là nhất phách lưỡng tán, coi xem ai chuồn nhanh hơn, bất quá hảo sự mà các ngươi giả ma giả quỷ định làm chắc chắn sẽ hỏng bét, Ha ha! Không hơi đâu mà nói chuyện tầm phào với các ngươi, mau mang đồ giao ra đây”. Lưu Dụ thầm kêu khổ, trời đã bắt đầu sáng, bọn họ không còn thời gian dây dưa với ả, ủ rũ nói: “ Đồ vật đã bị người ta cướp đi rồi”. Bốn phía mọi người đều bận công bận việc, chỉ có bọn họ đứng đó nói chuyện, may lại có một đống gỗ che khuất, không sợ có kẻ dòm ngó. An Ngọc Tình giận dữ nói: “Tin vào mồm ngươi mới lạ chứ! Cho ngươi cơ hội cuối cùng, nếu không ta sẽ la lên đấy!”. Yến Phi vội nói: “Bọn ta đã xem qua ngọc bội, có thể mô tả lại đồ hình ký tải trên đó, chỉ là mấy nét hình thế sơn thủy thôi mà!”. Lưu Dụ cũng trổ miệng lưỡi: “Chỉ mong tiểu thư chịu nhượng lộ, bọn ta tất không nuốt lời”. An Ngọc Tình đang muốn nói, bỗng nghe âm thanh rít lên trên đầu, ba người kinh hãi nhìn lên, một vật thể hình cầu to cỡ hạt đào bay tới trên đầu bọn họ, cao hơn tầm tay với, liền nổ tung hóa thành một chùm sáng màu hồng chiếu rọi xung quanh, chiếu lên ba người làm rõ tới từng sợi tóc, thu hút hàng ngàn cặp mắt hướng lại. “Có gian tế!”. Có ai đấy hét lên, mường tượng như giọng Lư Tuần. Ba người nhìn ngó xung quanh, tứ phía đã vang lên tiếng vó ngựa, ba đội kỵ binh tuần tra đang lao tới như lang như hổ.