Người dịch: Nguyễn Đình Chí, Linh Tâm
Danh Dự Giữa Những Tên Đại Bịp

    
ần đầu tiên tôi gặp Sefton Hamilton là vào dịp cuối tháng tám năm ngoái, lúc đó vợ chồng tôi đang ăn tối với vợ chồng anh Henry và chị Suzanne Kennedy tại ngôi nhà của anh chị trên đường Quảng trường Warwick.
Hamilton là một trong số những người kém may mắn, được thừa hưởng vô số của cải, nhưng chỉ có thế. Anh ta nhanh chóng thuyết phục chúng tôi rằng anh ta có ít thời gian để đọc sách và không có thời gian để đi nhà hát, hay xem nhạc kịch. Tuy nhiên, điều đó không hề gây cản trở cho anh ta có nhiều những ý kiến bàn luận về mọi chủ đề, từ Shaw đến Pavarotti, từ Gorbachev cho tới Picasso. Chẳng hạn, anh ta luôn cho rằng những người thất nghiệp chẳng có điều gì mà phải phàn nàn bởi vì khoản trợ cấp của họ chỉ thấp hơn chút ít so với số tiền mà anh ta đang trả cho những người lao động trong trang trại của mình. Hamilton khẳng định với chúng tôi rằng họ chỉ tiêu nó vào bingo (một loại cờ bạc) và nhậu nhẹt mà thôi.
Bữa tiệc đã cho tôi làm quen với một vị khách khác của buổi tối hôm đó – ông Freddie Barker – chủ tịch Hiệp hội rượu vang, ông ta ngồi đối diện với vợ tôi, và không giống với Hamilton, ông ta chẳng nói gì nhiều. Trước đó, anh Henry đã quả quyết với tôi trên điện thoại rằng Barker không những đưa được Hiệp hội trở lại sự phồn thịnh về tài chính, mà còn được thừa nhận là một tên tuổi hàng đầu trong lĩnh vực chuyên môn của ông ta. Do vậy, tôi chờ đợi để cóp nhặt những mẩu kiến thức hữu ích và bất cứ khi nào Barker xen vào một lời nào đó, ông ta chỉ để lộ vừa đủ kiến thức về đề tài đang được thảo luận. Tôi tin chắc rằng ông ta sẽ là người rất thú vị nếu Hamilton chỉ cần im lặng đủ lâu để cho ông ta nói.
Trong lúc bà chủ nhà dọn ra món khai vị, thì món súp rau chân vịt tan biến trong miệng các thực khách, anh Henry đi vòng quanh bàn, rót cho mỗi người chúng tôi một ly rượu vang.
Bakrker hít hà ly rượu đầy tán thưởng: “Thật thích hợ cho dịp lễ kỷ niệm hai trăm năm này, và chúng ta đang được uống thứ Chablis của Australia với niên hiệu tuyệt vời đến thế. Tôi dám chắc rằng những thứ vang trắng của họ sẽ làm cho người Pháp bắt đầu nhìn vào cành nguyệt quế vinh quang của mình.”
“Rượu vang Australia hả?” – Hamilton ngỡ ngàng rồi đặt ly rượu xuống – “Làm thế nào mà một dân tộc toàn những gã nốc bia hiểu được cái mô tê gì để chế ra được một thứ rượu vang gọi là tạm chấp nhận được cơ chứ?”
“Tôi nghĩ là anh sẽ thấy” – Barker bắt đầu – “rằng những người Australia…”
“Đúng thực là Lễ kỷ niệm hai trăm năm rồi!” – Hamilton tiếp tục – “Nhưng hãy nhìn thẳng vào sự thật là chúng nó chỉ đang tổ chức ăn mừng hai trăm năm tại ngoại thôi.” Không ai cười ngoại trừ Hamilton. “Tôi vẫn cứ đóng gói gửi tất tật lũ tội phạm còn lại của chúng ta sang bên ấy, chỉ cần cho tôi một nửa cơ hội thôi.”
Không ai nói gì.
Hamilton ngập ngừng nhấm nháp chút rượu vang, giống như một người đang sợ sắp sửa bị đầu độc. Rồi anh ta bắt đầu giải thích lý do tại sao, theo quan điểm của mình, những vị quan tòa lại quá khoan dung, độ lượng với những kẻ tội phạm vặt vãnh…
Tôi thấy mình tập trung nhiều vào đồ ăn hơn là vào dòng chảy liên miên của anh chàng này.
Tôi hay thưởng thức món bò Wellington, chị Suzanne có thể nấu món bít tết không hề bị nhão khi cắt, và miếng bít tết mới mềm mại làm sao, đến mức khi người ta đã dùng xong một suất, thì Oliveer Twist hiện lên ở trong đầu. Điều này chắc chắn giúp tôi chịu đựng được cái điệu bộ tinh tướng của Hamilton. Barker thì đang cố gắng đưa ra một sự đánh giá tán thưởng chất lượng rất tốt của rượu vang đỏ với anh Henry, xen vào giữa những dòng quan điểm của Hamilton về những thời cơ của Paddy Ashdown nhằm phục hưng đảng Tự do, vai trò của Arthur Scargill trong phong trào nghiệp đoàn và không cho ai một cơ hội nào để trò chuyện.
“Tôi không cho phép các nhân viên của tôi tham gia vào bất cứ nghiệp đoàn nào,” – Hamilton tuyên bố, gằn ly rượu xuống – “Tôi kinh doanh một cửa hiệu “đóng cửa”. Anh ta lại cười hô hố tán thưởng câu nói đùa của chính mình và nâng cao chiếc cốc rỗng lên không trung, cứ như thể rồi nó sẽ được rót đầy bời phép màu nhiệm. Thực tế thì Henry cũng đã rót đầy nó với sự ý nhị đủ để khiến Hamilton phải xấu hổ – nhưng anh ta không nhận ra được điều đó. Trong phút tạm ngừng ngắn ngủi đó, vợ tôi nói rằng có lẽ phong trào nghiệp đoàn đã ra đời để đáp ứng nhu cầu thực tế của xã hội.
“Đó là một điều nhảm nhí, thưa bà,” – Hamilton bật lên – “Hãy đặc biệt lưu ý điều này, các nghiệp đàon đã và đang là những nhân tố đơn lẻ quan trọng nhất trong sự suy sụp của nước Anh. Như chúng ta thấy đấy, họ không hề quan tâm đến bất cứ ai ngoại trừ chính họ. Các vị chỉ cần nhìn vào gã Ron Todd và toàn bộ vụ thất bại của Ford thì sẽ thấy ngay điều đó.”
Chị Suzanne bắt đầu thu dọn bát đĩa và tôi nhận thấy chị tìm cách thúc cho Henry một khuỷu tay, và anh ấy lập tức thay đổi đề tài.
Lát sau, một chiếc bánh hoa đường mâm xôi phủ nước sốt khá đặc biệt được bưng ra. Thật đáng tiếc nếu phải cắt một tuyệt phẩm như thế, nhưng chị Suzanne khéo léo chia nó thành sáu phần đẹp mắt như một bà vú em chia phần cho lũ trẻ nhỏ. Trong lúc đó thì anh Henry bật nắp một chai Sauternes 1981. Barker liếm môi chờ đợi
“Còn một điều nữa,” Hamilton nói – “Thủ tướng đã có quá nhiều những nhân vật hỉ mũi chưa sạch trong nội các của bà ta, điều này làm tôi không thể chịu đựng nổi.”
“Thế anh định thay thế họ bằng ai đây?” Barker ngây thơ hỏi.
Danh sách mà quý ông Hamilton tiến cử cho thấy việc sát hại những con người vô tội chỉ đơn thuần là một việc làm mở rộng của chương trình chăm sóc trẻ em.
Một lần nữa, tôi trở nên hứng thú hơn với tài nấu nướng của chị Suzanne, đặc biệt lúc này chì đã dành cho tôi một điều thú vị: món cuối cùng là món ho mát Chđả được dọn ra làm món tráng miệng. Vừa nến, tôi biết ngay là nó được mua từ trang trại của an hem nhà Alvis ở Keynsham. Tất cả mọi người chúng ta đều phải hiểu biết sâu về một cái gì đó, và pho mát Cheddar là chuyên môn của tôi.
Để đi với món pho mát, anh Henry lấy ra một loại rượu bordeau, được dự tính là món nổi bật nhất của tôi hôm đó. “Sandeman 1970”, - Henry nói, kéo riêng Barker sang một bên khi anh rót những giọt đầu tiên vào chiếc cốc của nhà chuyên gia.
“Vâng, tất nhiên rồi,” – Barker nói, nâng ly lên đặt trước mũi – “Tôi sẽ nhận ra nó ở bất cứ đâu. Độ ấm áp đặc trưng của Sandeman như là có một cơ thể thực. Tôi hy vọng anh đã chôn di một ít rồi, anh henry à,” – ông ta nói thêm – “Anh sẽ lại thưởng thức nó thậm chí còn hứng thú hơn nữa khi anh về gài đấy.”
“Anh nghĩ anh là một chuyên gia về rượu vang, phải không nào?” Hamilton nói, câu hỏi đầu tiên mà anh ta hỏi trong suốt cả buổi tối.
“Cũng không hoàn toàn như vây,” – Barker nói – “Nhưng mà tôi…”
“Anh, chỉ là một loại bìm bịp, cùng tất tật những loại người như anh,” Hamilton lắp bắp. “Anh hít và anh lắc, anh nếm rồi anh khạc, rồi anh phụ ra một đống bầy nhầy, bạc nhạc và trông đợi chúng tôi nuốt trôi cái đó. Cơ thể với hơi ấm cái cóc khô gì. Anh nghĩ có thể lừa tôi dễ vậy sao.”
“Chẳng ai hơi đâu làm thế,” Barker nói hơi bực tức.
“Anh đã làm điệu bộ với chúng tôi suốt cả buổi tối hôm nay,” – Hamilton trả lời, - “Với cái câu của miệng của anh ‘Vâng, tất nhiên rồi, tôi sẽ nhân ra nó ở bất cứ nơi đâu’. Thôi nào, thừa nhận đi.”
“Tôi không có ý đó… Barker thêm.
“Tôi sẽ chứng minh điều đó, nếu anh thích,” Hamilton bảo.
Cả năm người chúng tôi nhìn chòng chọc vào vị khách khiếm nhã. Và, lần đầu tiên trong buổi tối hôm đó, tôi tự hỏi không biết sẽ xảy ra điều gì nữa đây.
“Tôi đã được nghe nói,” Hamilton tiếp lời, “Rằng lâu đài Sefton Hall lấy làm kiêu hãnh về một trong những hầm rượu vang ngon nhất ở nước Anh. Nó được cha tôi và ông nội tôi gây dựng nên. Mặc dù tôi thừa nhận là không có thời gian để kế thừa truyền thống đó.” – Barker gật gù – “Nhưng mà người quản gia của tôi biết chính xác tôi thích thứ gì. Do đó, tôi xin mời ngài, thưa ngài, đến chỗ tôi thưởng thức bữa trưa vào ngày thứ bảy tuần sau nữa, khi đó tôi sẽ đưa ra bốn loại rượu vang thuộc loại danh tiếng nhất để các vị xem xét. Và tôi xin đặt cược,” – anh ta nhìn thẳng vào Barker nói thêm – “Năm trăm bảng ăn năm mươi bảng một chai. Xét tỉ lệ ăn thua, tôi tin chắc ngài sẽ đồng ý, rằng ngài sẽ không tài nào gọi đúng tên một chai nào.” Anh ta nhìn chòng chọc đầy thách thức vào vị chủ tịch Hiệp hội rượu vang danh tiếng.
“Số tiền đó quá lớn, tôi không thể không xem xét…”
“Không sẵn lòng chấp nhận thách thức à, ngài Barker? Thế thì ngài là, thưa ngài, một tên hèn nhát cũng như một tên bịp bợm.”
Một phút nặng nề trôi qua, Barker trả lời, “Sẽ như ngài mong đợi, thưa ngài. Có vẻ tôi không còn cơ hội nào khác ngoại việc phải chấp nhận lời thách thức của ngài.”
Một nụ cười thỏa mãn hiện lên trên khuôn mặt người kia. “Anh phải đi cùng như một nhân chứng, anh Henfy à,” – Hamilton bảo, quay sang vị chủ nhà – “Và tại sao anh không kéo theo cả cái ông tác giả Ký thật kia? – anh ta chỉ tay vào tôi nói thêm – “Đến lúc đó anh ta sẽ thực sự có cái gì đó để mà thay đổi cách viết đi một chút.”
Xét thái độ của Hamilton thì rõ ràng là cảm nghĩ của các bà vợ của chúng tôi đều không được lưu ý. Mary nhăn nhó cười chế giễu tôi.
Henry áy náy nhìn tôi, nhưng tôi hoàn toàn hài lòng được là một người quan sát của vở kịch đang hé mở này. Tôi gật đầu đồng ý.
“Tốt,” – Hamilton bảo và đứng lên, chiếc khăn ăn vẫn còn nhét dưới cổ áo – “Tôi mong được gặp ba người các vị tại lâu đài Sefton Hall vào thứ bảy sau nữa. Mười hai giờ ba mươi được không?” – Anh ta cúi chào Suzanne.
“Tôi e rằng sẽ không thể dự cùng các anh được,” – Suzanne nói, xóa đi bất cứ sự vấn vương nào có thể bao gồm cô ấy trong lời mời – “Tôi luôn dùng bữa trưa với mẹ tôi vào các ngày thứ bảy.”
Hamilton phẩy tay cho thấy rằng điều đó dù sao cũng không ảnh hưởng gì tới anh ta.
Sau khi vị khách kì khôi đã đi khỏi, chúng tôi ngồi yên lặng một lúc trước khi Henry đưa ra một lời xin lỗi. “Tôi lấy làm tiếc về tất cả những chuyện này. Bà mẹ của anh ta và bà dì tôi là bạn cũ, bà ấy đã yêu cầu tôi mời anh ta đến ăn tối cùng mấy lần. Có vẻ như là không có ai muốn làm việc này.”
“Đừng ái ngại,” – sau cùng Barker bảo – “Tôi sẽ cố gắng hết sức để không làm các bạn phải thất vọng. Và để đáp lại tấm thịnh tình này, hai bạn có thể thu xếp thời gian rỗi được vào tối thứ bảy không?” – ông ta giải thích. – “Có một tiệm ăn gần lâu đài Sefton Hall tôi đã muốn ghé thăm lâu này, đó là tiệm Hamilton Arms. Tôi cho là đồ ăn ở đó thì trên mức trung bình, nhưng mà thực đơn rượu vang thì…” – ông ta do dự – được các chuyên gia đánh giá là nổi trội đấy.”
Henry và tôi đều kiểm tra lại lịch trình làm việc và sẵn sàng nhận lời mời.
°
° °
Tôi suy nghĩ khá nhiều về Sefton Hamilton suốt trong mười ngày sau đó và chờ đợi bữa ăn trưa của chúng tôi với tâm trạng vừa e ngại vừa háo hức.
Buổi sáng thứ bảy, Henry lái xe đưa ba chúng tôi tới vườn Selton, chúng tôi tới nơi quá mười hai giờ ba mươi một chút. Thực ra chúng tôi đi qua chiếc cổng sắt tây được rèn bề thế đúng lúc mười hai giờ ba mươi, nhưng tới được cửa trước ngôi nhà thì đồng hồ chỉ mười hai giờ ba mươi bảy phút.
Cánh cửa lớn bằng gỗ sồi được một người đàn ông cao, dáng thanh nhã, mặc áo đuôi tôm cổ lớn và thắt nơ đen mở ra trước khi chúng tôi gõ cửa. Ông ta giới thiệu mình là Adams, người quản gia. Rồi ông ta hộ tống chúng tôi tới một gian phòng sáng sủa. Chúng tôi được chào đón bởi một lò sưởi đốt củi, phía bên trên đống lửa treo một bức tranh chân dung một người đàn ông trông khó ưa, người mà tôi đồ là ông nội của Sefton Hamilton. Trên những bức tường khác là một tấm thảm cực lớn mô tả trận đánh Waterloo và một bức sơn dầu khổng lồ về cuộc chiến tranh Crưm. Những đồ cổ rải rác khắp căn phòng và có một bức tượng được trưng bày – một lực sỹ Hy Lạp đang ném đĩa. Nhìn quanh phòng, tôi chợt có ý nghĩ là chỉ có chiếc máy điện thoại thuộc về thế kỷ này mà thôi.
Selton Hamilton xông vào phòng như một cơn bão đánh vào một thị trấn ven biển buồn chán. Ngay tức thì, anh ta đứng quay lưng lại ngọn lửa, che chắn hết mọi luồng hơi ấm mà chúng tôi đang thưởng thức.
“Whisky!” – Anh ta gào lên khi Adams một lần nữa xuất hiện – “Barker?”
“Đừng rót cho tôi,” – Barker nói với nụ cười nhạt.
“Ồ,” – Hamilton nói – “Ông muốn giữ vị giác được nhạy cảm nhất đó ư?”
Barker không trả lời. Trước khi ăn trưa, chúng tôi được giới thiệu về khu bất động sản có diện tích hai ngàn tám trăm hectare và có một số hoạt động săn bắn tuyệt vời nhất ở bên ngoài Xứ Ê-cốt. Lâu đài có một trăm mười hai phòng, một hai phòng trong số đó Hamilton chưa hề lui tới kể cả khi anh ta còn là một cậu bé. Sau cùng anh ta đảm bảo với chúng tôi rằng chỉ riêng cái mái lâu đài thôi cũng rộng 0,6 hectare, một con số sẽ đọng lại lâu dài trong trí óc tôi, bởi vì diện tích của nó vừa đúng bằng khu vườn của nhà tôi.
Chiếc đồng hồ hộp dài trong góc phòng điểm chuông một giờ. “Đã đến giờ cuộc thi bắt đầu,” – Hamilton tuyên bố và nghễu nghện đi ra khỏi căn phòng, như một vị tướng cho rằng những lính tráng của ngài sẽ đi theo sau vô điều kiện.
Chúng tôi đi theo, suốt quãng đường ba mươi mét dọc theo hành lang dẫn tới phòng ăn. Rồi bốn người chúng tôi ngồi xuống quanh một chiếc bàn gỗ sồi thế kỷ mười bảy có thể chứa thoải mái hai mươi người.
Trang trí ở giữa bàn là hai bình đựng rượu pha lê kiểu Georgian và hai cái chai không có nhãn mác. Chai thứ nhất chứa đầy một thứ rượu vang trắng, trong vắt, bình đựng rượu thứ nhất chứa một thứ vang đỏ. Chai thứ hai chứa một thứ rượu vang trắng đậm hơn, và chiếc bình đựng rượu thứ hai có một chất rượu đỏ nâu. Phía trước bốn loại rượu vang này là bốn tấm thiếp trắng. Bên cạnh mỗi tấm thiếp là một thếp mỏng những tờ bạc năm mươi bảng.
Hamilton ngồi xuốn chỗ của mình trong chiếc ghế lớn tại đầu bàn, Barker và tôi ngồi đối diện nhau ở giữa bàn, đối mặt với đám rượu vang, Henry chiếm chỗ ngồi cuối cùng, phía xa của chiếc bàn.
Người quản gia đứng cách một bước chân phía sau lưng ông chủ. Ông ta gật đầu và bốn người hầu xuất hiện, mang theo món ăn đầu tiên. Món cá và pa-tê tôm hùm dọn ra trước mặt mỗi người. Adams nhận được một cái gật đầu từ ông chủ, liền nhấc chai rượu đầu tiên lên và bắt đầu rót vào ly của Barker. Barker đợi cho người quản gia đi vòng quanh chiếc bàn và rót đầy ba ly rượu khác rồi ông ta mới bắt đầu thực hiện trình tự phán đoán.
Đầu tiên Barker lắc tròn ly rượu, cùng lúc đó xem xét nó một cách kỹ lưỡng. Rồi ông ta hít ngửi nó. Ông ta hơi chần chừ và một nét ngạc nhiên thoáng hiện trên khuôn mặt. Ông ta nhắp một hơi.
“Hừm,” sau cùng Barker nói. “Tôi xin thú thực, đây quả là một thử thách.” Ông ta lại hít lại để chắc chắn thêm. Rồi ông ta nhìn lên và mỉm cười thỏa mãn. Hamilton chằm chằm nhìn Barker, miệng hơi hé mở, cho dù anh ta vẫn yên lặng khác thường.
Barker lại nhấp thêm một hớp. “Montagny Tête de Cuvée 1985,” – ông ta tuyên bố với một sự tự tin của một chuyên gia – “Louis Latour đóng chai”. Tất cả chúng tôi đều hướng về Hamilton, trông sắc mặt anh ta khá căng thẳng, lộ vẻ không tán thành.
“Ngài đúng rồi,” Hamilton nói – “Nó do Latour đóng chai. Nhưng mà điều đó rõ ràng như thể bảo với chúng ta rằng Heinz đóng chai nước sốt cà chua. Và bởi vì cha tôi mất vào 1984 nên tôi có thể cam đoan với ngài rằng, thưa ngài, ngài đã sai rồi.”
Anh ta nhìn viên quản gia để khẳng định câu nói. Khuôn mặt của Adams vẫn bí hiểm. Barker lật tấm thiếp lên. Trên đó đề: “Chevalier Montrachet les Demorselles 1983”. Ông nhìn chòng chọc vào tờ giấy, có thể thấy được ông không tin vào mắt mình.
“Một sai và còn lại ba để chơi tiếp,” Hamilton tuyên bố như không hề nhận thấy phản ứng của Barker. Những người hầu lại xuất hiện và mang đi các đĩa đựng cá, và sau giây lát họ thế vào đó món gà gô trắng nấu tái. Trong lúc đồ uống đi kèm với nó đang được phục vụ, Barker không nói năng gì. Ông ta chỉ nhìn chăm chăm vào ba cái bình đựng rượu còn lại, thậm chí không nghe thấy vị chủ nhà của mình nói với Henry về các vị khách của anh ta sẽ là những ai trong cuộc săn đầu tiên của mùa săn vào tuần lễ sau đó. Tôi nhớ rằng những cái tên đó khá trùng hợp với tên những nhân vật mà Hamilton đã đề xuất cho Nội các lý tưởng của anh ta.
Barker nấm nháp món gà gô trong khi chờ đợi Adams rót đầy ly rượu từ chiếc bình thứ nhất. Ông chưa dùng xong món pa-tê sau khi phán đoán đầu tiên bị sai mà chỉ thỉnh thoảng nhấp nước lọc.
“Vì Adams và tôi đã bỏ ra thời gian đáng kể buổi sáng của chúng tôi để lựa chọn một số loại vang cho cuộc thách đố nhỏ này, chúng tôi hy vọng lần này ông có thể làm tốt hơn,” – Hamilton nói, không giấu nổi sự thỏa mãn.
Barker một lần nữa lại bắt đầu lắc tròn ly rượu vang. Lần này ông ta dường như mất nhiều thời gian hơn, hít ngửi chất rượu mấy lần trước khi đưa miệng ly chạm vào môi và sau cùng nhấm nháp nó.
Một nụ cười lập tức nở trên khuôn mặt Barker, và ông không do dự: “Château la Louvière 1978.”
“Lần này ngài đã nói đúng năm, thưa ngài, thế nhưng ngài đã xúc phạm loại rượu vang này,”
Lập tức Barker lật tấm thiếp lên và đọc một cách nghi hoặc: “Château Laffite 1978.”
Thậm chí ngay cả tôi cũng biết đây là một trong những lọai vang đỏ xịn nhất mà người ta có hy vọng được nếm. Barker rơi vào một trạng thái yên lặng nặng nề và tiếp tục nhấm nháp thức ăn. Hamilton có vẻ như đang tận hưởng chất rượu một cách ngất ngây cũng y như thưởng thức tỷ số hiệp một.
“Một trăm bảng về tôi, không có gì cho ông chủ tịch Hiệp hội rượu vang,” – Anh ta nói với chúng tôi.
Bối rối quá, anh Henry và tôi cố gắng giữ cho cuộc nói chuyện tiếp tục cho đến khi món thứ ba được dọn ra – một món sufflet chanh, nó không thể nào so sánh được về hình thức, hoặc sự tinh tế với bất cứ món nào chị Suzanne đã chiêu đãi chúng tôi.
“Chúng ta bước vào cuộc thách đố thứ ba của tôi chứ nhỉ?” – Hamilton hỏi đắc thắng.
Adams lại nhấc lên một bình rượu và bắt đầu rót. Tôi ngạc nhiên nhận thấy ông ta để sánh ra chút ít trong khi rót vào ly của Barker.
“Đừng vụng về như vậy,” – Hamilton gắt gỏng.
“Tôi thành thật xin lỗi, thưa ngài,” – Adams nói. Ông ta lau đi những giọt rượu sánh ra chiếc bàn gỗ bằng một chiếc khăn ăn. Trong lúc làm việc này, ông ta nhìn chăm chăm vào Barker nới một nỗi tuyệt vọng mà tôi tin chắc không hề liên quan đến việc làm sánh rượu ban nãy. Tuy nhiên, ông ta vẫn câm lặng khi tiếp tục đi vòng quanh bàn.
Lại một lần nữa Barker thực hiện các trình tự, lắc tròn, hít ngửi và sau cùng là nếm thử. Lần này ông ta còn lâu hơn nữa. Hamilton trở nên sốt ruột và gõ gõ các ngón tay mập mạp lên mặt chiếc bàn vĩ đại kiểu Jacob.
“Nó thuộc về dòng Sauternes,” – Barker bắt đầu.
“Bất cứ tay ấm ớ nào cũng có thể cho ta biết điều đó,” – Hamilton nói – “Tôi muốn biết năm và tên tuổi của nó.”
Vị khách của anh ta do dự.
“Château Guireaud 1976,” Barker nói quả quyết.
“Ít nhất thì anh cũng nhất quán,” Hamilton nói. “Anh luôn luôn sai”
Barker lật tấm thiếp lên.
“Château d’Yquem 1980,” – ông bật ra đầy hoài nghi.
Đây là một cái tên mà tôi mới chỉ trông thấy ở cuối các thực đơn uống tại các nhà hàng sang trọng, và chưa bao giờ có đặc quyền được nếm thử. Tôi cực kỳ bối rối về việc ông Barker có thể nhầm lẫn về nàng Monalisa của rượu vang.
Barker liền hướng về Hamilton để phản đối, và chắc là trông thấy Adams đang đứng đằng sau ông chủ, cả thân hình một mét chín mươi của ông ra run rẩy, ngay đúng lúc tôi trông thấy. Tôi muốn Hamilton rời ngay khỏi căn phòng để tôi có thể hỏi Adams điều gì đang làm ông ta sợ hãi đế như thế, nhưng mà chủ nhân của lâu đài Sefton Hall lúc này đang phấn khích tột độ.
Trong lúc đó, Barker nhìn chòng chọc vào người quản gia thêm chút nữa, và thấy sự mất bình tĩnh của ông ta, ông cụp mắt xuống và không góp thêm chuyện gì vào cuộc đàm luận cho đến khi một lần nữa chất rượu vang đỏ porto được rót ra, quãng hai mươi phút sau đó.
“Cơ hội cuối cùng để giúp ông tránh khỏi nhục nhã hoàn toàn,” – Hamilton nói.
Một mâm pho mát được đem ra, bày trên đó là mấy loại khác nhau, và mỗi vị khách tự chọn lấy cho mình. Tôi chọn món pho mát Cheddar và có thể nói với Hamilton là nó không được làm từ vùng Somerset.
Trong lúc này rượu porto được viên quản gia rót ra, thân hình ông ta lúc này trắng bệch như tờ giấy. Tôi phân vân liệu ông ta có sắp ngất xỉu đi hay không, nhưng mà dù sao ông ta cũng cố gắng rót đầy được bốn chiếc ly trước khi quay trở lại đứng cách một bước chân đằng sau lưng ghế của ông chủ. Hamilton thì không nhậy thấy có điều gì bất thường.
Barker uống li rượu Porto, không chú ý đến các bước mở đầu như trước nữa.
“Taylors,” – ông mở đầu.
“Đồng ý,” – Hamilton nói – “Nhưng bởi vì chỉ có ba nhà cung cấp rượu vang Porto đáng kể trên thế giới, năm tháng mới là điều quan trọng – như ông, ở địa vị cao quý của ông, chắc phải biết rõ, ông Barker.”
 Freddie gật đầu tán thành. “Một ngàn chín trăm bảy nhăm,” Barker nói quả quyết rồi lanh lẹ lật ngửa tấm thiếp lên.
“Taylors 1927”, - Tôi đọc ngược.
Lại một lần nữa Barker quay ngoắt về phía ông chủ nhà đang cười lớn rung cả người. Người quản gia liếc nhìn vị khách của ông chủ với ánh mắt như bị ma ám. Barker chỉ hơi do dự rồi rút ra một cuốn séc từ túi áo trong. Ông ta điền tên “Sefton Hamilton” vào, và con số 200 bảng. Ông ta ký tên và không nói một lời, chuyển tờ séc dọc chiếc bàn cho chủ nhà.
“Đó mới chỉ là một nửa cuộc mặc cả,” – Hamilton nói, thưởng thức từng giây phút của kẻ chiến thắng.
Barker đứng lên, hơi chần chừ, nói: “Tôi là một kẻ bịp bợm.”
“Ngài quả thực đúng là như vậy, thưa ngài,” – Hamilton nói.
Sau khi đã tiêu tốn ba tiếng đồng hồ khó chịu nhất trong cuộc đời mình, tôi đã thoát khỏi nơi đó cùng với Henry và Freddie Baker vào lúc hơn bốn giờ một chút. Trong lúc Henry lái xe rời khỏi lâu đài Sefton Hall, không ai trong chúng tôi thốt nên lời nào. Có lẽ cả hai chúng tôi cảm thấy rằng nên dành những lời bình luận đầu tiên cho Barker.
“Tôi e rằng, thưa các ông,” – Sau cùng ông ta nói – “Tôi sẽ không phải là người đồng hành tốt trong mấy giờ sắp tới, và vì vậy tôi xin phép các vị, được đi dạo một đoạn ngắn và sẽ gặp lại cả hai người để ăn tối tại tiệm Hamilton Arms quãng bảy giờ ba mươi. Tôi đã đặt sẵn một bàn vào lúc tám giờ.
Không nói thêm một lời nào, Barker ra hiệu cho Henry dừng xe, chúng tôi dõi theo ông ta bước ra và hướng tới một con đường làng. Henry dừng xe khi người bạn của anh đã hoàn toàn khuất dạng.
Tôi hết sức thông cảm với Barker, cho dù toàn bộ câu chuyện vẫn làm tôi băn khoăn. Làm sao một ông chủ tịch Hiệp hội rượu vang lại có thể vấp phải những sai lầm cơ bản đến như thế? Bởi vì, tôi có thể đọc một trang của Dickens và biết rằng nó không phải là của Graham Green.
Cũng giống như bác sĩ Watson, tôi cảm thấy tôi cần có một sự giải thích đầy đủ hơn.
°
° °
Barker nhận thấy chúng tôi đang ngồi bên đống lửa trong một góc kín đáo của tiệm rượu Hamilton Arms lúc hơn bảy giờ ba mươi vào buổi tối hôm đó. Sau khi đi bộ, ông ta xuất hiện trong khí sắc tốt hơn rất nhiều. Ông ta nói chuyện không đâu vào đâu và không hề nhắc đến những điều đã xảy ra vào bữa ăn trưa.
Mấy phút sau, khi quay sang xem giờ ở chiếc đồng hồ cổ treo ở phía trên cánh cửa, thì tôi trông thấy viên quản gia của Hamilton ngồi bên quầy rượu, đang sốt sắng chuyện trò với ông chủ tiệm. Lẽ ra tôi đã không nghĩ gì đến chuyện đó nếu tôi không nhận thấy vẫn cái vẻ sợ hãi mà tôi đã chứng kiến ban nãy lúc buổi chiều, khi ông ta chỉ tay về phía chúng tôi. Ông chủ tiệm cũng có vẻ lo lắng tương tự, cứ như thể ông ta bị một nhân viên thuế quan phát hiện phạm tội trốn lậu thuế.
Ông ta nhặt lên một thực đơn và bước tới bên bàn chúng tôi.
“Chúng tôi không cần những cái đó,” – Barker nói – “Tiệm của các anh đã rất nổi tiếng. Tùy các anh, bất cứ món gì các anh phục vụ chúng tôi đều rất hân hạnh được thưởng thức.”
“Xin cảm ơn, thưa ngài,” – Ông chủ tiệm nói và đưa cho ông chủ tiệc của chúng tôi tấm thực đơn rượu vang.
Barker xem nội dung bên trong tấm bìa da bọc lấy thực đơn một lúc, rồi ông ta tươi tắn nở một nụ cười.
“Tôi nghĩ tốt hơn là anh cũng nên lựa chọn hộ cả rượu vang nữa,” – Ông bảo – “Bởi vì tôi có cảm giác anh biết loại rượu mà tôi sẽ chọn.”
“Tất nhiên rồi, thưa ngài,” – Ông chủ tiệm nói, khi Freddie đưa trả lại thực đơn rượu vang. Điều này làm cho tôi hoàn toàn ngạc nhiên, nhớ rằng đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của Barker tới tiệm ăn này.
Ông chủ tiệm đi vào trong bếp trong lúc chúng tôi tán gẫu, và quay trở lại sau chừng mười lăm phút.
“Bàn của các vị đã sẵn sàng, thưa các quý ngài,” – Ông ta nói.
Chúng tôi theo sau ông ta bước vào một phòng ăn liền cửa. Chỉ có khoảng hơn một chục chiếc bàn, nhưng bởi vì bàn của chúng tôi là chiếc bàn trống cuối cùng, nên chắc tiệm ăn này rất đắt khách.
Ông chủ tiệm đã chọn một món súp nước dùng nhẹ, sau đó là những lát thịt vịt mỏng, cứ như thể ông ta đã biết chắc rằng chúng tôi sẽ không thể ăn một bữa thịnh soạn nữa sau bữa ăn trưa tại lâu đài.
Tôi cũng ngạc nhiên nhận thấy rằng tất cả những loại rượu vang ông ta chọn đều được phục vụ trong những bình đựng pha lê. Do đó, tôi cho rằng ông chủ tiệm đã lựa chọn những loại rượu vang của bản tiệm. Khi mỗi loại rượu được rót ra và uống, tôi thừa nhận rằng, đối với khẩu vị tự nhiên không sành lắm của mình, chúng có vẻ quá xuất sắc hơn những thứ mà tôi đã được uống tại lâu đài Sefton Hall. Barker chắc chắn đã nâng niu thưởng thức từng hớp rượu đầy và một lần đã thốt lên đầy tán thưởng: “Đây mới đúng là loại McCoy thứ thiệt.”
Cuối buổi tối hôm đó, khi bàn ăn đã được dọn đi, chúng tôi thư giãn, thưởng thức một thứ vang porto tuyệt hảo và hút xì gà.
Đến lúc này, lần đầu tiên Henry mới đả động đến Hamilton: “Liệu anh có thể nói cho chúng tôi biết về điều bí ẩn gì thực sự đã xảy ra tại bữa ăn trưa này không?” – Anh hỏi.
“Bản thân tôi cũng chưa hoàn toàn chắc chắn,” Barker trả lời – “Thế nhưng tôi biết chắc một điều là ông bố của Hamilton là một người biết rõ rượu vang của mình, trong khi anh con trai ông ta thì không.”
Lẽ ra tôi đã thúc Barker nói thêm nữa về điều đó nếu như lúc đó ông chủ tiệm không đến bên cạnh ông ta.
“Một bữa ăn tuyệt vời,” – Barker tuyên bố – “Còn về phần rượu vang thì thật là đặc biệt.”
“Ngài thật tốt bụng, thưa ngài,” – Ông chủ tiệm nói khi ông ta đưa hóa đơn tính tiền.
Tính tò mò đã xâm chiếm tôi, và tôi rất tiếc phải thú nhận rằng tôi đã liếc mắt nhìn xuống cuối mẩu hóa đơn. Tôi không thể tin vào mắt mình nữa vì hóa đơn lên tới hai trăm bảng Anh.
Barker chỉ bình luận một câu khiến tôi quá kinh ngạc: “Rất phải chăng,” Ông ta viết một tờ séc và đưa nó cho ông chủ tiệm: “tôi chỉ được nếm rượu vang Château d’Yquem 1980 có một lần trước ngày hôm nay,”. Ông nói thêm. “Và Taylors 1927 thì chưa bao giờ.”
Ông chủ tiệm mỉm cười: “Tôi hy vọng ngài tán thưởng cả hai thứ, thưa ngài. Tôi cảm thấy chắc chắn rằng ngài không muốn thấy chúng bị bỏ phí bởi một kẻ bịp bợm.”
Barker gật đầu tán thành.
Tôi dõi theo ông chủ tiệm rời khỏi phòng ăn và quay trở lại chỗ của ông ta phía sau quầy rượu.
Ông ta đưa tờ séc cho viên quản gia Adams, anh này xem xét nó trong giây lát, mỉm cười và xé vụn nó ra thành những mảnh nhỏ.