Chương Mười Một
Ngọc An, Thế Giới Thi Ca Trữ Tình

Trong Mùa Thu Diễm Ảo Của Cuộc Đời

    
ối với đa số những kẻ bước vào tuổi trung niên thì quả thật khó làm một bài thơ tình mặn mà xúc cảm. Có lẽ những rung động của con tim trong tuổi hoa niên hay trong tuổi thanh xuân của họ bị rơi rụng ít nhiều trên những nẻo đường đời mà họ đã trải  qua. Lại nữa, gánh mưu sinh hay gánh hệ lụy làm tâm hồn họ mất sự tươi mát, làm trái tim của họ chai lì không còn mẫn cảm nữa.

Song có một điều lạ lẫm: khi đọc một vài bài thơ của Ngọc An in trong ''Tuyển Tập Thơ Mùa Tình Yêu'' do cơ sở Cảo Thơm thực hiện vào mùa Xuân 2000, tôi ngạc nhiên một cách kỳ thú: Thơ chị vẫn ăm ắp rung động, vẫn dạt dào tình ý, vẫn bát ngát men hương nồng đượm say sưa. Dường như chị sinh ra để làm loại thơ này Tuy không ướt sũng cảm tính như thơ tình yêu của của T.T.Kh, lại cũng không như loại thơ trữ tình rất dễ thương về phương diện nhân sinh quan của nữ sĩ Thu Hồng (1) thời tiền chiến, nhưng tình ý chân thành và đôn hậu trong thơ của chị cũng đã ghi nhiều dấu ấn đậm đà trong tâm hồn khách thưởng ngoạn không quá dễ dãi mà cũng không quá khó tánh.
Khuynh hướng thi ca, Ngọc An đã xác định ở bài ''Màu Thời Gian''  trong thi tập ''Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng''.
Người làm thơ để giải sầu thế sự,
Em làm thơ vắt cả máu tim mình.
Đem niềm đau từ thuở tuổi sơ sinh,
Gởi hết cả đời mình theo giấy mực.
°
Em đã viết với những điều rất thực,
Với ước mơ sâu kín của riêng mình.
Với tình yêu trong trắng thuở nguyên trinh,
Thuyền định mệnh đã vô tình đưa đẩy.
(trang 85)
Vào một buổi sáng chớm hạ, tôi nhận được một bưu kiện kết xù do Ngọc An gửi tặng gọi là món quà văn chương gồm có: 1 tuyển tập thơ văn ''Rừng Thu Xưa Vẫn Nhớ'' (1998), 2 thi tập ''Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng'' (1997), ''Từ Miền Biển Sóng'' (2000), 2 tuyển tập thơ văn  gồm của nhiều tác giả trong đó có thơ của Ngọc An như  ''Hoa Vàng'' (2003), ''Nam Phong'' (2005). Và đặc biệt là tập thơ của Ngọc An được phổ nhạc. Mỗi một tác phẩm là một công trình rực rỡ về hình thức: ruột được trình bày khoáng đãng, sáng sủa và đầy hình ảnh văn gia thi sĩ ở Bắc California và hình ảnh những văn hữu thi hữu từ bốn phương trời xa xăm đến viếng Thung Lũng HoaVàng. Còn bìa được tráng giấy láng bóng  như vóc lãnh, vóc sa-teng và được trang hoàng bằng những tranh ảnh với màu sắc cực kỳ ngoạn mục. Nhìn những bìa sách, tôi có cảm tưởng màu sắc của trăm hồng nghìn tía lộng lẫy trong hoa viên ngự uyển nào về tụ họp để mở hội quần phương  trong ánh thiều quang tươi sáng. Càng đặc biệt là quyển ''Ngàn Năm Mây Trắng'' (2002) gồm những bài thơ di cảo của cố thi sĩ Yên Bình, người bạn đồng tâm đồng điệu của Ngọc An và gồm thơ hoài niệm của chị cùng các bài thơ ai điếu của các tác giả khác. Đọc qua tác phẩm này, tôi liên tưởng đến giai thoại đẹp đẽ  và u buồn hồi 38 năm truớc. Số là thi sĩ Đông Hồ thất lộc vào năm 1969. Vợ của ông là nữ sĩ Mộng Tuyêt (2) gom hết di cảo của ông để cho in thành những quyển: ''Úc Viên Thi Thoại'', ''Bội Lan Hành'', ''Hương Gây Mùi Nhớ'', ''Dòng Cổ Nguyệt'', ''Đăng Đàn'', ''Thiên Địa Gian''... Đó là những nén nhang tưởng niệm đấng truợng phu của bà quả phụ tài hoa kia. Cũng vậy, sau khi nữ sĩ Louise de Vilmorin từ trần, cứ mỗi tuần người tình muôn thuở của bà là đại văn hào André Malraux vào nghĩa trang thăm mộ bà và đặt trên mộ  một bó hoa hồng đỏ thằm gọi là kỷ niệm mối tình say đắm của cả hai có sợi dây văn chương nối kết...
Tôi chưa hề được diện kiến Ngọc An, chỉ được ngắm chân dung chị qua nhiều tấm ảnh, đặc biệt  là 2 tấm ảnh in trên bìa trước và trên bìa sau quyển ''Từ  Miền Biển Sóng''. Ở tấm ảnh in trên bìa trước, chị có mái tóc cắt ngắn chải bảy ba như mái tóc Nữ Thần Điện Ảnh Greta Garbo vào thập niên 30 của Thế Kỷ 20. Chị mặc áo ngắn tay và chiếc maxi jupe màu đen đứng bênGable trong phim ''Cuốn theo Chiều Gió'' vừa trí thức
vừa phong trần, trong có vẻ thạo đời. Đó mới là đấng quân vương trong mộng của tao.
Thục An lim dim cặp mắt ốc bươu:
-- Tao cũng vậy Những thanh niên hiên ngang, hùng trai như vậy mà chịu
cưới tao, chắc tao ăn chay một tháng 15 ngày để cám ơn Trời thương Phật độ.
Ánh Nguyệt bình tĩnh hơn:
-- Tao có đọc áo Ciné Miroir, biết được anh chàng Clark Gable đó học hành
dở ẹc và miệng mồm hắn có vấn đề, nên đạo diễn phải bắt hắn giữ vệ sinh tối đa khi đóng những màn cụp lạc hun hít với nữ diễn viên. Nhưng nếu gặp chàng có bằng Thành Chung mà bảnh trai, xinh trai, dễ thương trai, lại có cái miệng thơm mát, thì con Ánh Nguyệt nầy không niêm phong trái tim đâu nghen.
Bỗng  dưng, hôm nay chợt nhớ tới lời ba con xảnh xẹ đó, Cảm Hương tức cười quá. Nàng vội nghiêm mặt kẻo ''đối phương'' coi thường mình. Nàng cũng nhận thấy tên nầy có cái mỉm cười láu cá, cặp mắt sáng ngời, nụ cười ngạo nghễ, trông hao hao giống Clark Gable thiệt đó.  Nếu đứng bên cạnh hắn, nàng cảm thấy mình mềm mại như cây lệ liễu đứng bên cây thanh tùng hùng tráng. Nhưng nàng chợt thấy mình ví von như vậy là đề cao ''địch thủ'' quá đáng. Hắn mà là cây thanh tùng hả? Còn khuya! Hắn đâu xứng đáng làm cây có tên đẹp như vậy. Hắn phải là cây cốc, cây còng, cây môn ngứa, cây mù u... có tên xấu xí như vậy mới đúng chớ bộ!...
( MGTTD, các trang 53, 54)
Rồi Cảm Hương và Thiện Tố thông cảm nhau, yêu nhau say đắm. Kiều Lan và Kiều Liên từ lâu cay cú vì chị em họ không có khoa bảng trong khi Thiện Tố ăn học thành công. Nay, thấy Cẩm Hương trội hơn họ về  nhan sắc, học thức và tánh nết nên họ quyết phá đám để cho mối lương duyên sẽ rả tan trước khi hình thành. Nhân trong xóm có cô Ngọc Huệ vốn là gái xinh đẹp, duyên dáng, tốt bụng, chánh trực dù có tật ăn hàng như chim mỏ khoét; cô ta trở thành công cụ để hai nàng Kiều ra tay phá hoại cuộc tình của thằng em khác mẹ kia:
Cô tươi mát trong chiếc áo dài nhung màu tím, cổ cao, quần lụa trắng. Tóc cô vấn bính, quấn nhiều vòng và kẹp bằng chiếc nơ bướm bằng nhung đen phía sau ót. Cô đeo suu bộ ngọc trai màu ngà voi, gồm có: bông tai, chuỗi, cà rá và vòng tay... Ngọc Huệ tô son hồng đào, giồi phấn sương sương, dậm phấn hồng phơn phớt. Trông cô đẹp hẳn lên.
Nhưng ai có thể ngờ sau cặp môi trái tim cười đẹp như hoa nở đó, lại là cái miệng ăn hàng hết chỗ chê! Cô ăn xàm xạp tối ngày. Thịt phay nhai ngấu nghiến, thịt gà thiến ăn tràn miệng vẫn còn thèm, chả nem ních sạch bách, tôm kho gạch cũng chẳng chừa, dừa cô cũng ưa, dưa cô cũng thích, mít cô không chê... Ai biết được đôi mắt viền đen kia sáng ngời lóng lánh khi nghe chuyện tiếu lâm, chuyện ngồi lê đôi mách... Đây là mẫu thiếu nữ hạnh kiểm thưa thớt, tánh tình bông lông nhưng tâm địa hiền lành, giàu lòng từ thiện, kẻ dữ người hiền đều mến chuộng:
( MDTTD, trang 338)
Hồi Thiện Tố và Ngọc Huệ còn nhỏ, trong cuộc chuyện trò thân mật, ông bà Hương Cả Cần có bảo ông nội bà nội Ngọc Huệ rằng khi cả hai lớn lên, họ sẽ cưới Ngọc Huệ cho Thiện Tố. Do đó, Kiều Lan và Kiêu Liên bảo Cẩm Hương rằng Ngọc Huệ là hôn thê của Thiện Tố. Cho nên Cẩm Hương đau khổ quyết chặt đứt mối tình với người yêu, dù Thiện Tố năn nỉ nàng cho tới cạn  lời, dù ông Hai Cung và bà Tư Hiền đính chánh cho thế mấy đi nữa. Nhưng về sau, tình cờ gặp lại Ngọc Huệ, Cẩm Hương được cô ta cho biết rằng trong vòng ít lâu cô ta sẽ vu quy, người chồng tương lai cô ta trước kia ở Cai Lậy, gần nhà cha mẹ cô ta, về sau thiên cư về Vĩnh Long lập nghiệp. Đó mới chính là người yêu của cô ta, còn Thiện Tố chỉ là bạn cùng lớp hồi cả hai ngồi bậc tiểu học vậy thôi. Tới chừng đó, Cảm Hương mới yên lòng để cho Thiện Tố cưới nàng làm vợ.
°
°
Song song mối tình giữa Cẩm Hương và Thiện Tố, còn có lối sống thay đổi của Thiện Cảm. Vốn quen thói phong lưu,  ăn chơi bạt mạng, Thiện Cảm vụt cảm thấy chán nản lối sống truy hoan của mình. Tình cờ đọc quyển Bùn Lầy Nước Đọng của Hoàng Đạo trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Chàng sanh ra cảm khái, quyết sống cuộc đời có ý nghĩa: giúp đỡ người nghèo khó, cải thiện nếp sống dân quê. Chàng viết văn theo tôn chỉ xây dựng cuộc tân sinh hoạt theo chủ trương của nhóm Tự Lực Văn Đoàn; chàng kiến tạo ấp mới theo bước chân của Hoàng Đạo. Hai công việc đó đều nhờ sự giup đỡ và khích lệ của vợ chồng Thiện Tố. Không ngờ chàng thành công trên văn đàn và rồi ấp mới của chàng được thực hiện đúng như niềm mơ ước của chàng.
Nghe vợ chồng Thiện Tố đi thăm ông bà nhạc ở xa và dự đám cưới cậu em út của vợ trở về chiều hôm qua, vợ chồng Thiện Cảm đến chơi, chồng khoe với Thiện Tố:
-- Toa ơi, moa vừa mới lập cái ấp mới cho tá điền. Nhà nhà trong ấp đều
thoáng khí, mặc dù là vách bùn trộn với trấu hay rơm, mái lợp lá xé hay lá chầm, nhưng cũng che mưa che nắng được mấy mùa. Ở giữa ấp moa cất cái trạm để mỗi tuần có y tá vào phát thuốc cho dân, còn những thứ thuốc thông thường như chữa nhức đầu, đau bụng, trầy giò, đứt tay chảy máu thì lúc nào cũng chứa trong thùng để ở nhà ông trưởng ấp. Có lớp Bình Dân Học Vụ nữa. Hôm nào vợ chồng toa có rảnh, mời ghé qua, coi có góp thêm ý kiến gì không?
Thiện Cảm đưa cho Cẩm Hương ấn bản quyển tiểu thuyết mới ra. Cẩm Hương ngắm nghía cái bìa màu lam có tranh vẽ cảnh thôn quê dưới vầng thái dương chói rạng, bảo:
-- Cái tựa sách Ánh Sáng Đồng Quê của tác phẩm, chắc là muốn nói lên ánh
sáng văn minh tân tiến rọi đến cảnh đồng ruộng quê mùa chớ gì?
Hồng Ánh hớt chồng trả lời:
-- Chị nói đúng đó. Cái ấp mới do chồng em chắt chiu xây dựng phần lớn
nhờ anh Thiện Tố đỡ đầu từ vật chất lẫn tinh thần Hôm nay tụi nầy đến đây ngoài việc tặng sách còn để báo tin ấp đã tạm xong và cám ơn anh chị.
Cẩm Hương vui vẻ hỏi:
-- Thím có thai được mấy tháng rồi?
Hồng Ánh cười:
-- Hơn 5 tháng nay thôi. Khi em sanh xong nhờ anh chị làm cha mẹ đỡ đầu
cho đứa nhỏ.
Cẩm Hương cười tươi, sốt sắng:
-- Rất sẵn lòng
Cẩm Hương nhìn chăm chú Thiện Cảm rồi nhìn chồng. Hai anh em họ có vài nét giống nhau. Thiện Tố cao ráo, khỏe mạnh, hùng tráng bao nhiêu thì Tiện Cảm mảnh khảnh, văn thái tinh hoa tao nhã bấy nhiêu. Từ khi thành công trên con dường văn nghiệp, Thiện Cảm chững chạc hơn, không còn đía dóc ba hoa nữa. Chàng trầm mặc hơn. Nàng tự hào là vợ chồng nàng biết khơi dậy một thiên thần trong một con ngưòi hư hỏng.
Nàng nhìn qua Hồng Ánh. Cô ta biêt ăn diện chải chuốc để làm đẹp lòng chồng. Nhưng cô ta vẫn hồn nhiên giản dị, không kiểu cách điệu đà, không đánh lưỡi sửa giọng khi nói chuyện. Cô hồn nhiên, hịch hạc, cười nói véo von,
 pha trò duyên dáng và có chừng mực.
Khi khách ra về, Cẩm Hương làm mặt lạnh và liếc xéo chồng rồi nghiêng bình tích rót trà ra uống. Thiện Tố áy náy nhìn vợ cười cầu tài, rồi ôm choàng lấy vai nàng. Nàng lách khỏi vòng tay chồng, mắt xoáy vào mặt chàng. Thiện Tố nhìn vợ ngập ngừng:
-- Anh giúp Thiện Cảm làm em phật lòng sao?
Cẩm Hương ngún nguẩy:
-- Hỏng biết!
Thiện Tố nắm tay vợ tha thiết, khổ sở:
-- Xin lỗi em!
Thấy dáng điệu chồng thiểu não, Cẩm Hương bật cười thành tiếng:
-- Sao anh lại xin lỗi? Anh đã làm những gì mà em định khuyên anh làm.
Anh biết không? Bấy lâu nay, thấy Thiện Cảm đổi tánh tình, làm việc thiện nguyện. Còn anh thì êm ru bà rù làm em mắc cở thầm. Bây giờ em mới cảm thấy thoải mái  khi gặp Hồng Ánh. Anh làm em hãnh diện với chính mình không chọn lầm nguời chồng và còn là người bạn đồng tâm...
(MTTD, các trang 365, 366, 367)
Trong quyển  Một Góc Trời Thôn Dã, có 6 cô cựu nữ sinh trường Áo Tím là Thục An, Ái Mỹ, Thụy Châu, Ánh Nguyệt hợp với Cẩm Hương thành nhóm Ngũ Nữ La Sát. Về sau có thêm Nguyệt Mi trở thành nhóm Lục Nữ La Sát. Sáu vai phụ ấy làm cho tác phẩm trở nên xôn xao tuổi dậy thì và gợi lại tuổi mộng mơ trong khung cảnh sân trường, lớp học, bảng phấn, cửa gương. Không khí tác phẩm trở nên sinh động khi tác giả dựng lên cảnh họp mặt của họ. Trong đó, Ánh Nguyệt hoạt náo nồng mặn duyên dáng nhất:
   
  ... Con chằng lửa Thục An bảo:
-- Làm đờn bà thì  phải thương chồng hơn cha mẹ. Ông bà mình thường
nói: ''Vông đồng trổ đỏ bờ sông/ Mẹ kêu con dạ, thương chồng con theo''.
Con ma nương Ái Mỹ tán đồng:
-- Mầy nói đúng đó Thục An. Cha mẹ nuôi mình chừng 20 năm hoặc hăm
mấy năm thôi. Còn chồng mình thì nuôi mình tới già, tới chết.
Con nữ tặc Thụy Châu chợt nhớ ra:
-- Mấy cô xẩm trước khi lấy chồng, cứ khóc ra rả trong buồng, khóc rống
Xác lá bên đường lất phất bay...
°
Xác lá như hồn thu vấn vương
Chiêm bao mộng mị cõi vô thường
Bóng dài nghiêng đổ trên hè lạ
Chỉ một mình ta giữa phố phường!
°
Nắng đã lui dần vào cõi tịch
Trả nhân gian màu xám âm u
Bàn tay níu vội thời gian lại
Chân bước mà nghe sóng dập vùi...
°
Biển ở quê hương biển có hay
Từng cơn xao động trái tim này
Lòng thuyền muôn thuở không dời đổi
Chia sớt cùng ta chút đắng cay!
°  °  °
Cuộc tình nào nếu không có nụ cười thì cũng có giọt nước mắt. Nụ cười là nguyên nhân tạo nên những bài Nhạc Thiều Ca (les Hymnes). Còn giọt nước mắt khơi thần trí sáng tạo của thi nhân để hình thành những bản Trữ Tình Ca (les Odes). Toàn bộ thi ca của Ngọc An không thiếu Trử Tình Ca đâu. Chị yêu say đắm như trôi lênh đênh  trong men rượu nồng ngát say sưa để rồi quên thực tại, quên bóng tối dĩ vãng sau lưng, quên viễn ảnh tương lai cuối chân trời xa thẳm trước mắt. Xin đọc bài ''Sóng Tình'' trong thi tập ''Tiếng Thơ Là Những Đường Tơ Của Lòng'':
 Một sớm mai thức dậy
Không giống như mọi ngày
Hoa nở rộ trong tim
Hoa cưòi trong ánh mắt
°
Ta yêu anh thật rồi
Bởi lòng ta se sắt
Nhớ người yêu xa xôi
Để ta mòn mỏi đợi
°
Ngày đầu mới gặp nhau
Ngỡ như trong tiền kiếp
Quen nhau tự thuở nào
Thương nhau tình thắm thiết!
(trang 113)
Giọt lệ không tạo cho Ngọc An sáng tác những khúc bi ca (les poèmes saturniens). Bi ca vốn  là loại thơ để tác giả nhìn sâu vào đời sống, vào các tấn bi kịch trong cuộc đời. Chúng ta hãy đọc bài thơ ''La Déesse du Soleil Couchant'' (''Nữ Thần Tà Dương'') của nữ sĩ Renée Vivien. Bài thơ này tả cái đẹp chết chóc với sắc thái cường điệu. Đây là bài  bi ca đúng hơn bài trữ tình.
Tóc em giống lá thu
Hỡi Nữ thần của chiều hôm, của những phế  tích, của buổi tối
Máu buổi hoàng hôn là màu đỏ của mủ triều thiên của em
Em chọn vùng đầm lầy tù đọng làm tấm gương soi.
°
Mùi hoa huệ héo tàn và mùi cành cây ung thối
Bốc hơi từ tấm áo với những làn xếp biếng trễ của em; đôi mắt em
Theo dõi một cách uể oải những cơn mơ mộng xanh xao
Tản mác về đâu những áng thơ
Thời gian như huyệt lạnh sương mờ
 Cố tâm nung nấu trong tiềm thức
Gợi nhớ riêng mình một ước mơ...
°
Ước mơ một kiếp là chim biển
Tung cánh Hải Âu khắp mọi miền
Côn đảo xa vời, đồng cát mịn
Chẳng nghe tâm não nặng ưu phiền.
°
Em sẽ đùa trăng trong bóng đêm
Rong chơi mỗi buổi nắng chiều lên
Dang tay ôm cả khung trời rộng
Nghe gió vi vu tiếng gọi thầm
°
Người yêu bé nhỏ của ta ơi!
Ta nhớ thương em suốt một đời
Dù kẻ chân mây người góc biển
Thuyền tình mang mãi chẳng hề vơi.
°
Em ước em là chim Hải Âu
Bao la tung cánh giữa ưu sầu
Cơ duyên tao ngộ người yêu cũ
Anh hỡi... bây giờ anh ở đâu?
(các trang 106, 107)
Vết thương trong tim tác giả không nhức nhối lan rộng, nhưng mà sâu sắc dằng dai. Nhà thơ than vãn nhưng không rên rĩ, gào thét. Chị biết tiết chế tình cảm khi đối diện với cuộc tình đã mất, với niềm hạnh phúc đã phôi pha. Thơ như thế mới gây xao xuyến rất lâu trong lòng người đọc. Đây là  bài ''Tình Biển'' cũng trong thi tập ''Từ Miền Biển Sóng''.
Hỏi lòng đã thấy đủ chưa?
Ba mươi năm chẵn có thừa đắng cay
Cte;nh khác biệt, trừ hai chị em Kiều Lan và Kiều Liên như đúc từ một cái khuôn. Xin kể các nhân vật quan trọng xoay chung quanh hai nhân vật chánh (Cẩm Hương và Thiện Tố) và những nhân vật then chốt (hai cô Kiều, Thiện Cảm, Hồng Ánh  và Ngọc Huệ). Bà Cả Cần tôn trọng huyết thống, ông Hai Cung dù đã sa ngã nhưng vẫn là người có lương tâm, bà Tư Hiền tuy hiền lành nhẫn nhục nhưng vẫn vướng tật chì chiết lúc tâm sự với Cẩm Hương, bà Hai Cung vẫn là người có căn tánh tốt đẹp chớ không hoàn toàn xấu xa ác độc, cha mẹ bà Tư Hiền hiền lành và chất phác.
Tác giả rất thích miêu tả: tả người, tả cảnh, tả tâm tình, tức là tạo đầy đủ chất liệu để đúc kết cái nền mống lẫn cái lâu đài văn chương vững chắc.
Về nghệ thuật tả người, xin cùng đọc đoạn hai cô Kiều phục sức và trang điểm trong dịp đám cưới Thiện Tố:
Kiều Lan và Kiều Liên muốn nổi bật hơn cả cô dâu nên trước đám cưới cả tháng, hai cô hẹn nhau xuống chợ tỉnh đặt may mỗi người một chiếc áo dài ''mốt'' bằng gấm đỏ, bâu áo cao chống cổ, tay phùng cao. Hai cô đều mặc trang phục giống nhau. Họ đeo bông tòn teng, dây cổ, dây tay bằng hột xoàn chiếu lấp lánh... Trông họ đẹp và lạ mắt thật. Nhưng áo quần và trang sức nầy nếu trên một thân hình có dáng dấp thanh cảnh thì tuyệt! Khổ một nỗi hai nàng Kiều đã nhiều lần sanh đẻ, ăn uống không giữ gìn, dù cái bụng không lớn lắm, nhưng thân thể lệch lạc, tướng đi hai hàng, ngó vào là biết hai mụ xề ngay. Trước đó cả tháng, hai nàng nhịn ăn đễ giữ eo thon, mông gọn. Nhưng khổ nỗi cái bụng dưới, tức là cái nây bụng phồng ra như có độn trái dưa hấu cắt đôi. Hai nàng còn nhờ thím xẩm Lầy Phá (Lệ Hoa), vợ bé ông Bang Quảng Đông dùng chỉ se trên da mặt để lấy lông mang, cùng tỉa cặp mày cong như viền trăng non, như cái mống chuồng vậy. Hai nàng biết tướng đi của mình không đẻo, nên uốn éo mình xà, mông đưa qua bên trái, rồi sàn qua bên mặt làm mấy bà mấy cô dọn đám dưới bếp có dịp nói hành nói tỏi rồi cười khúc khích.
Tác giả Dư Thị Diễm Buồn rất khoái phần tả cảnh. Cho nên trong tác phẩm Một Góc Trời Thôn Dã, cảnh vật cứ nườm nượp hiện dưới ngòi bút liến thoắng và trơn tru của chị. Ít có nhà văn gốc Nam Kỳ có cái mẫn cảm với phần miêu tả như chị.
(MGTTD, trang 179)
Cảnh nhà của song thân của cô thôn nữ Hiền dưới mắt bà Cả Cần đuợc tác giả trình bày như sau:
Bà Cả dòm khắp nhà. Tuy là nhà lợp lá xé, vách tre, nền đất nện, nhưng đâu đó đưọc quét tước sạch sẽ. Bàn thờ, bàn ghế, tủ áo, cái đi-văng... đóng bằng gỗ rẻ tiền như thao lao, mít, nhưng được lau chùi bóng láng. Chiếc bàn dài đặt giữa nhà, hai ghế trường kỷ đặt hai bên có vẻ tươm tất hơn. Ba con Hiền cho biêt, bàn ghế đó do người bác ruột qua đời để lại cho. Bàn thờ có bát cắm nhang tráng men xanh vẽ bát tiên ngồi chơi cờ bằng mực chàm đậm. Dĩa quả tử vẻ tám thứ trái cây ở thành dĩa: lệ chi (trái vải), long nhãn, phật thủ, đào tiên, mộc lý, mộc qua, lựu, trái xá lị. Bàn thờ không có lư hương, chân đèn, đèn lưu ly gì cả. Chỉ có bài vị thờ cha mẹ và ông bác sơn son thếp vàng. Trên bàn dài là bình trà bằng sành lớn, cỡ 4 bàn tay vòng có vẽ hình con đại cẩm kê (gà trống cồ, mồng đỏ, lông màu lửa, cổ và ức giát lông màu xanh). Trên khay có 6 cái tách sành lại vẽ gà tre, có lẽ không cùng một bộ với bình tích, nhưng nhìn chung thì tất cả như cùng chung một thứ men, cùng một kiểu vẽ. Trên 4 cột nhà ở giữa chỉ treo liễn kiếng Lái Thiêu. Còn trên vách thì treo liễn giấy bồi màu vàng nghệ, màu cánh sen, màu đọt chuối gợn sóng ngân nhũ. Trên nền ngân nhũ là bài thơ chữ Nho viết bằng lối chữ thảo. Mà con Hiền bảo là do ông bác để lại để vào ngày Tết trang hoàng nhà cửa. Trên mỗi tấm tranh là một bài cổ thi chúc xuân mà vợ chông bà không biết đọc chữ Nho nên không biết nghĩa thú trong thơ ra sao.
(MTTD, các trang 94 95)
Sự mô tả khung cảnh mộc mạc quê mùa của tác giả Dư Thị Diễm Buồn mang một ý nghĩa sâu xa. Chị muốn gợi lại khung cảnh gần gũi và thân thương cho những kiều bào cùng thế hệ hoặc cùng trang lứa với chị trở lên để tất cả cùng nhau trên nẻo thời gian tìm lại, được đắm hồn sống trong một chặng nếp sống cổ truyền của dân tộc đã từng ghi biết bao dấu ấn trong tình hoài cố hương vọng cố quốc. Trong lúc miêu tả, chị quăng mình trọn vẹn vào đối tượng, vào chủ đề một cách nồng nhiệt thành khẩn, bằng tâm tư hoài vọng.
°
°
Bước sang qua quyển Thời Biển Lặng Sông Trong, tác giả đưa câu chuyện lớp con  của hai nàng Kiều, của Thiện Tố và của Thiện Cảm vào thời kỳ nước Việt Nam bị con s&ocight:10px;'>
Em tìm cánh nhạn mịt mờ khói sương.
(trang 74)
Tâm sự tóc tang được thể hiện rõ rệt nhất trong bài ''Tình Người Cô Phụ'' trong thi tập ''Nỗi Lòng Cô Phụ''. Đây là ném tâm hương để tác giả thắp lên,  hoài niệm người quá cố mà cũng ghi lại giai đoạn cáo chung của thời kỳ hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi. Và đây cũng là một trong những bài thơ bung vỡ cảm tính của tác giả. Bao nhieu thống khổ, mất mát trước đó dồn chị vào một con đường tối đen, không một tia sáng bạc nhược nào lóe bên chân trời viễn ảnh. Cho nên giờ đây, chị  không thể để cho đôi dòng lệ tuôn chảy âm thầm. Ngọn trào lòng phải bật ra thành tiếng mới làm cho chị bớt bị đè nén bởi sự đau đớn tuyệt vọng nghìn cân đè nặng lên nội giới của chị.
Tình em như áng mây ngàn,
Phương trời vô định thênh thang dặm dài.
Tình nào cho kẻ đắng cay?
Bẽ bàng duyên kiếp đọa đày xác thân.
Tình tròn cho kẻ chinh nhân,
Sơn hà xã tắc dấn thân bụi mờ
Tình thương cho kẻ không bờ,
Con thuyền lạc bến bơ vơ giữa dòng.
Tình thơ cho kẻ long đong,
Thi nhân, kiếm khách vẫy vùng dọc ngang.
Tình hờ cho kẻ lỡ làng,
Con đò bến cũ ngỡ ngàng chào nhau.
Tình đầy cho kẻ thương đau,
Nửa chừng xuân mộng lao đao trọn đời.
Tình mơ theo kẻ ra khơi,
Nhớ người viễn xứ lệ rơi đôi hàng.
Tình non, tình nước, tình chàng,
Tình người nồng ấm phủ quàng đôi vai.
Bao nhiêu tình ấy hôm mai,
Gom hoa phủ trắng quan tài cho anh.
Nén hương khấn nguyện lòng thành,
Môi son má phấn trơ cành cây khô.
Sao trời lạc bến hư vô,
Tiếng than ai oán, tiếng thơ ngân sầu.
Mưa tuôn nuớc cuốn lệ trào,
Bao nhiêu tình nghĩa chôn vào mồ anh.
Còn đâu ân ái ngày xanh?
Trời gieo tang tốc vây quanh nấm mồ.
Anh đi tan tác cơ đồ,
Em nào có khác cùng mồ với anh.
Trầm luân vũ điệu thông hành,
Kiếp hoa mảnh hạt sương mành treo chuông.
Dật dờ khói trắng chiều buông,
Bao giờ hết kiếp đoạn trường trần gian?
(các trang 36, 37)
Nhà thơ nữ Hoàng Xuyên Anh không nghĩ rắng mình là  nạn nhân của định mệnh mà là mình phải chịu  trả cái nghiệp quả của thời tiền kiếp khi chị nhìn cuộc đời xuyên qua giáo lý nhà Phật. Chị còn tin rằng mình phải tuân theo ý Chúa khi chị quỳ dưới tượng Nữ Thánh Đồng Trinh Maria. Cho nên chị không oán Trời, không trách đất, không chửi đời hay nguyền rủa thế nhân. Ở bài ''Hồi Chuông Chiêu Mộ'' trong thi tập ''Khung Trời Kỷ Niệm'', chị cầu xin Phật Tổ soi đường đạo pháp cho chị trước là cầu cho vong linh người quá cố tỉnh ''giấc mê thường'' (sic) và sau là cầu cho mình lánh xa phiền não để được sống an vui.
Ta về gióng một hồi chuông,
Gọi anh tỉnh giấc mê thường mông lung.
Lời kinh như sóng trùng dương,
Bao la bát ngát tỉnh đường tu thân.
Giọt sương hồi hướng trong ngần,
Đời anh sương gió hồng trần đam mê.
Điệu ru man mác sơn khê,
Tay nâng tràng hạt bồ đề từ tâm.
Nam mô Phật Tổ cao thâm,
Soi đường đạo pháp thấm nhuần người thương.
Mau mau về dưới Phật đường,
Hồi chuông chiêu mộ tìm đường an vui.
(trang 117)
Ở bài ''Thì Thầm Cầu Mẹ La Vang'', cũng trong thi tập ''Khung Trời Kỷ Niệm, tác giả cầu Đức Mẹ Maria giúp chị tìm lại chuỗi ngày an lạc và hạnh phúc xa xưa vói trái tim nguyên vẹn không tì vết. Như thế, chỉ có vấn đề tâm linh mới làm những điểm tựa tinh thần kiên cố cho tác giả:
Thì thầm cầu mẹ LA VANG,
Làm sao tẩy sạch vết hằn trong tim?
Đời con đau khổ triền miên,
Sóng xô biển dập, ướt mèm lá hoa.
Thở than dưới ánh trăng tà,
Mẹ ơi! Ban chút lụa là thương yêu.
Sông Ngân một giải đìu hiu,
Hồng trần ô trọc dập dìu quỉ ma.
Tình, tiền vun vút bay xa,
Hồn con vất vưởng la đà gió lay.
Chắp tay khấn mẹ van nài,
Xin cho con được chuỗi ngày yêu xưa.
Quyền năng của mẹ dư thừa.
Xin cho con hết nắng mưa dãi dầu.
Con quỳ lạy mẹ ơn sâu,
Tình yêu của mẹ nhiệm mầu đời con.
(trang 118)
°
°
Trên con đường đưa vào thi ca lãng mạn êm ái như gương mặt hồ, bát ngát cảm khái trử tình như khói tỏa sương lan, đôi lúc HoàngXuyên Anh theo lối cũ rêu phong, trở về lối thơ thất ngôn bát cú đẹp như cảnh đình viện cổ kính trong ánh nắng bàng bạc không khí vào hai triều đại Đường Tống bên Tàu.
Thuờng là những bài thù tạc giữa tác giả với kim bằng thân hữu hoặc với kẻ thân tộc ruột rà. Thường là những bài chúc tụng những cái đẹp của những tâm hồn thiết tha với văn hóa xã hội.
Xin đọc bài ''Mừng Sinh Nhật Lương Anh Thư'' trong thi tập ''Khung Trời Kỷ Niệm'':
Mừng con sinh nhật tuổi trăng tròn,
Chân sáo tung tăng hót véo von.
Mắt biếc long lanh ươm sắc mộng,
Tóc huyền óng ả xõa vai thon.
Xuân xanh tuổi dại chưa tròn giấc,
Dáng ngọc môi khờ ửng nét son.
Mơn mởn vườn hồng tươi tắn nụ,
Khung trời diễm tuyệt ngọt măng non.
(trang 124)
Vóc dáng thơ bỗng đổi ra đài các, đẹp như gấm, óng ả vóc nhung tơ, đuợm âm sắc thơ thất ngôn bát cú thuộc loại tân cổ điển của nữ sĩ Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội.
Và cũng như hai nữ sĩ gốc Nam Kỳ Lục Tỉnh hồi cuối thế kỷ 19 và bước qua thập niên 10 của Thế Kỷ 21 là Trần Ngọc Lầu và Trần Kim Phụng (9), nhà thơ đất Vĩnh Bình Hoàng Xuyên Anh song song vơi thơ cảm hoài thân phận, nhưng vẫn không quên trách nhiệm một công dân vào thời thế nhiễu nhương mà những anh hùng hào kiệt hiếm hoi,  bao thánh hiền triết gia tịch mịch. Chị mượn bài thơ ''Xuân'' cũng theo thể thức thất ngôn bát cú  trong thi tập ''Nỗi Lòng Cô Phụ'' để nhắn nhủ kẻ lưu vong hãy nuôi ngọn lửa thiêng dành cho ơn nhà nợ nước.
Xuân này mười chín cái xuân qua,
Nuôi mộng chinh nhân trở lại nhà.
Bút luyện đường thơ phơi tấc dạ,
Mực mài gan thép rạng đời hoa.
Năm canh, nhớ nước, quê người lạ,
Đôi hướng, thương mình, lối xóm xa.
Xa cách nghìn trùng non với nước,
Đạt thành chí lớn quyết xông pha.
(trang 92)
Cũng vậy bài ''Xuân Tha Hương'' trong thi tập ''Khung Trời Kỷ Niệm'' cũng là bài thơ để tác giả ký thác tâm sự ái quốc của mình trước cảnh luu vong biệt xứ. Đây cũng là tâm sự phổ thông, là mẫu số chung của những nhà thơ tuy có thích ứng cuộc sống trên đất nước định cư, nhưng không tìm ra điểm tựa tinh thần đích thực kiên cố và trường cữu.
Én lượn trời xa luống ngỡ ngàng,
Quê người hoài vọng mấy quan san.
Chạnh lòng tưởng nhớ xuân năm cũ
Lưu niệm bâng khuâng mắt lệ tràn.
Một phút sa cơ anh hùng lụy,
Nghìn năm hỉ hạ lũ gian nhân.
Thiêng liêng anh gọi hồn xuân ngự,
Thắp sáng dùm anh ngọn đuốc vàng.
(trang 93)
Nhưng rồi cũng ở hình thức thơ cổ kính ấy, tác giả vẫn thả vào thơ biết bao tình ý bi ai não nuột như theo một dòng cảm xúc có hữu bất biến. Thơ chị trở nên đơn giản và quen thuộc về phương diện ngôn từ, như bao nhiêu bài than thân trách phận của các bà quả phụ xa xưa trong thi giới như Cao Ngọc Anh, Đào Vân Khanh (10), Tương Phố... Đây là bài ''Nhớ Ai?'' trong thi tập ''Khung Trời Kỷ Niệm'':
Hồn đơn, tủi phận, nhớ thương ai?
Gió lạnh xuyên song, bóng nguyệt cài,
Sông nước đầu nguồn lờ lửng chảy,
Mây trời cuối nẻo lửng lờ bay.
Đêm sâu nhớ bướm, hoa còn thức,
Ngày cạn trông người, phấn nhạt phai.
Tuyết phủ vườn xuân, tim giá lạnh,
Dầm sương bốn bể đợi tương lai.
°
Dầm suơng bốn bể đợi tương lai,
Cánh nhạn trời xa mãi miệt mài.
Giấc bướm Trang Chu chưa thức tỉnh,
Hồn thơ Lý Bạch vẫn mê say.
Chập chùng mây khói mờ nhân ; Tố Tiên đến dự. Tố Tâm gặp lại Đào Vũ Kỳ Trân và Khải Tuấn. Trong khi nàng và Kỳ Trân xoắn xít nhau thì Tố Tiên và Khải Tuấn quyến luyến nhau. Nhưng sau đó, cả hai không liên lạc nhau. Tố Tiên học cho xong bậc trung Học Đệ Nhị Cấp và thi đỗ Tú Tài. Còn Khải Tuán thì ra trường, trở thành công chức và làm việc ở Sài Gòn.
Hồng Nguyệt trở thành nhà văn chuyên nghiệp, có kết bạn văn chương với một ký giả Pháp gốc người Ba-lan tên Ilya Polanski. Anh chàng này  hành nghề tự do, không cộng tác nhất định với một tờ báo nào hay một hảng thông tấn nào, mà người trong nghề gọi là ký giả ''free lance''. Kiều Nga trong chuyến về thăm quê nội ở Bình Chánh, vào dịp dự lễ ở Thánh thất CaoĐài, gặp anh chàng Tây lai vốn là thợ nguội xuất thân ở sở Ba-son (Hải Quân Công Xưởng) có lương lậu cao. Mẹ chàng vốn có đạo Cao Đài nên chàng tháp tùng theo bà dự lễ. Cả hai bắt đầu yêu nhau và hứa hẹn thực hiện cuộc sống lứa đôi.
Tố Tiên lên Sài Gòn lưu học và ở chung với Tuyết Mai. Tình cờ cô gặp lại Khải Tuấn. Cả hai yêu nhau say đắm. Nhưngsau bao lần bất đồng ý kiến, sau bao cơn cãi cọ vì tự ái, Tố Tiên qua Mỹ du học. Khải Tuấn vẫn bền lòng đợi nàng trở về.
Bốn năm sau, Tố Tiên hồi hương. Bà nội nàng ở ngôi nhà từ đường để săn sóc ông nội nàng vì  bà chánh thê của ông đã qua đời. Kiều Nga đã kết hôn với anh chàng Tây lai tên Yves Ronsin mà cô ta gọi trài trại là Yêu Rồng Xanh. Hồng Nguyệt vẫn độc thân để tâm trí thảnh thơi phụng sự văn nghiệp đang hồi lừng lẫy của mình. Tuyết Mai vẫn hành nghề trình diễn ca nhạc và đóng phim. Kiều Phương giải nghệ để cùng chồng khuếch trương việc thương mãi đang hồi bành truớng và thịnh vượng. Riêng hai cô vợ không giá thú của Thiện Cần đều bồng con về cha mẹ ruột, lấy chồng khác, nhưng vẫn cho con mình lui tới với ông bố hào hoa lẫn đào hoa của chúng. Chàng cưới một cô vợ khác ôn nhu và hiểu biết hơn hai cô vợ sư tử Hà Đông kia. Chàng mở tiệm bán và sơn sửa xe gắn máy, tìm được hạnh phúc trong cuộc sống lứa đôi chung lòng chung hướng, đồng sàng đồng mộng cùng người vợ có giá thú.
Kết cuộc, Tố Tiên sau bao năm bôn ba trên con đường sự nghiệp, thành hôn với Khải Tuấn.
°
°  °
Trong  tác phẩm Thời Biển Lặng Sông Trong, các nhân vật thuộc giai cấp trung lưu và thuộc thế hệ đang độ hoa niên vào 5 năm chót của thập niên 50 đã bước vào một thế hệ được ánh sáng văn minh tân tiến soi rọi. Phụ nữ đã ý thức sự bình quyền  với các đấng tu mi nam tử, họ từ bỏ khuê phòng để ra đời mưu sinh. Khi lớn lên, họ không quá chú trọng vào công việc trao giồi công dung ngôn hạnh rồi đợi chồng đến cưới hỏi. Họ chọn ngành nghề để đeo đuổi  trước khi kết hôn.
Vận hội mới bắt đầu. Các trường tiểu học đuợc mở mang khắp mọi quận lỵ và ở các xã ấp gần quận lỵ hay gần các miền ngoại ô tỉnh lỵ. Các tỉnh bậc trung đã có một trường trung học công lập và vài trường trung học tư thục. Còn các tỉnh lỵ nhỏ thì chỉ có một trường trung học tư thục mà thôi.
Quận Cai Lậy là một địa danh cách trung tâm thành phố tỉnh Mỹ Tho 23 cây số. Nó nằm bên Quóc Lộ 9, tức là trên tuyến đường quan trọng đưa đón du khách và các tay buôn bán xuôi ngược từ Sài Gòn xuống vài tỉnh vùng Tiền Giang và tất cả tỉnh miền Hậu Giang. Từ thuở bình minh nền Đệ nhất Cộng Hòa nó đã là một nơi thị tứ khá hoạt náo và phồn thịnh. Cư dân ở đây tiếp xúc khá nhiều nếp sống theo cao trào văn minh tân tiến nên họ không chênh lệch với thị dân ở Thủ Đô Sài Gòn bao nhiêu. Cho nên các nam sinh, các nữ sinh cùng các công chức ở đây đều là những kẻ thấm nhuần óc tiến thủ, đều có thể thu góp một cách dồi dào những kiến thức về một nền văn hóa trên đà phát triển thuận lợi.
Bởi đó, nữ sĩ Dư Thị Diễm Buồn thường tạo ra các nhân vật bậc trung lưu đù cấp bậc cao thấp lớn nhỏ. Chị không thích  tạo những nhân vật nông phu cày sâu cuốc bẳm và những  nhân vật thôn nữ chân lấm tay bùn. Tạo những nhân vật cổ lổ hay những nhân vật quê rít quê rang thì  quá xa vời với cái xã hội và cái thế giới mà chị đã sinh ra và lớn lên. Những nhân vật chậm tiến như thế thì cái xã hội của họ dưới ngòi bút của chị không thể sinh động được; chị phải nhờ óc tưởng tuợng  thêu dệt thêm ít nhiều chi tiết. Vả lại qua tác phẩm Một Góc Trời Thôn Dã và tác phẩm Thời Biển Lặng Sông Trong, tác giả muốn nói lên cái hay, cái đẹp của Miền Nam Việt Nam tự do. Lẽ dĩ nhiên, cảnh đồng quê chỉ nên lót nền mờ nhạt cho những cô cậu học sinh yêu nhau da diết chứ không nên xen nhiều lần, chui lắm lượt vào cuộc sống của họ. Họ phải được huởng ánh sáng văn minh để tình yêu của họ thêm mới mẻ như tình yêu của lớp thanh thiếu niên trong phim ảnh Hoa Kỳ đang chiếm rộng rải trên thị trường Việt Nam.
Dư Thị Diễm Buồn thương yêu cưng chiều những nhân vật hiền lương hoặc những nhân vật thông minh và biết cư xử vuông tròn, ăn ở phải đạo. Họ đâu thể nghèo hèn mà dẫu có nghèo như Tuyết Mai thì cũng không được dốt nát và phải có ăn học chút đỉnh hoặc phải có tài hoa. Nhất là họ phải có nhân diện và vóc dáng trội hơn bàng dân thiên hạ. Đào Vũ Kỳ Trân, Lê Phước Nghiệp và Tố Tâm dù có mảnh khảnh thì hai chàng kia vẫn được chị ca ngợi là đẹp rắn chắc theo kiểu trượng phu nam tử, còn nàng nọ cững được chị so sánh vẻ thướt tha của cây lệ liễu. Chàng Hoàng Khiết Tinh tuy mập mạp nhưng được tác giả tặng thêm vẻ bảnh trai như nam tài tử điện ảnh Rod Taylor. Còn cô Hồng Nguyệt có chân thấp chân cao và mặt rỗ hoa mè hồi nhỏ, nhưng vì cô ta hiền lành, tài hoa lỗi lạc nên tác giả thay thế Ông Trời cho cô gặp ông  thầy bó ngải Chiêm Thành kéo dài cái chân thấp vài phân để nó xấp xỉ với chân cao, và chị đóng cho cô ta đôi giày đế mỏng đé dầy để cô ta có dáng đi thăng bằng, thướt tha và uyển chuyển. Chưa hết! Chị còn  truyền lịnh cho những vết rỗ trên khuôn mặt cô ta phải theo thời gian mà lì đi để da mặt cô ta trơn láng.
Chân dung và cách phục sức của các nhân vật trong Thời Biển Lặn Sông Trong  tuy không được miêu tả chăm chút, nhưng cũng khá chu đáo. Xin đọc đoạn hai chị em Tố Tâm và Tố Tiên đi dự cuộc dạ yến và dạ vũ tại Dinh Tỉnh Trưởng:
TốTâm Tố Tiên như cặp sanh đôi. Hai chị em có những đường nét khuôn mặt thanh tú và hao hao giống nhau. Hai cô chỉ khác Tố Tâm mảnh mai có mái tóc để dài lưng chừng lưng, còn Tố Tiên nồng nàn sinh lực với mái tóc đen ngắn đến cổ, vén gọn hai bên mép tai. Đêm nay hai cô ăn mặc và trang sức cũng giống nhau, áo dài tay phùng bằng gấm Thượng Hải màu hồng, nổi những cành bạch mai trên nền gấm rập rờn ánh bạc. Cả hai đeo bông giọt mưa bằng ngọc trai, vòng cổ, vòng tay bằng ngọc trai. Quần lụa trắng, mang giày bít mũi với gót cao. Mái tóc đen như nhuộm mực nằm trong chiếc ''băng-đô'' hồng xõa bồng trên bờ vai thon gầy mảnh khảnh của Tố Tâm. Làn da trắng của cô đuợc dậm lên lớp phấn hồng nhẹ, dưới ánh đèn điện trông cô hết sức bình thuờng. Nhưng trước cái vẻ cao sang và nét quý phái trời ban đó, ai trông thấy, cũng khó lòng mà quên đi trong giây lát.
Còn Tố Tiên dáng thanh thoát không bằng chị, cô hơi thấp hơn, nhưng có vẻ tươi mát hơn chị bởi nước da trắng như gà bóc, nụ cười vui tươi hớn hở đi với đôi mắt to ngời sáng. Cái nhìn vô tư cô đầy tự tin. Và lúc nào trên miệng cô cũng sẵn sàng chớm nở nụ cười càng lâu càng cảm thấy cô rất dễ thương tạo cho người đối diện nhiều mỹ cảm lẫn thiện cảm.
(TBLST, các trang 241, 242)
Còn chân dung của Khải Tuấn, một chàng thanh niên thuộc thành phần ưu tú của xã hội trung lưu cấp cao được tác giả phác họa như sau:
Khải Tuấn có tướng khỏe mạnh, cao ráo phải một mét bảy chứ không ít. Nước da ngăm, cái ngăm khỏe mạnh hồng hào như da rái lựu rám nắng. Mái tóc anh bồng bềnh trên vầng trán vuông, cao và rộng. Chân mày rậm. Cặp mắt to, tròng đen ngời sáng nhiều hơn tròng trắng như phớt màu xanh lợt của men sứ. Anh đi đứng thong thả, nói cười vui vẻ, tế nhị. Hôm đó, Khải Tuấn mặc chiếc áo tay ngắn màu kem, quần nâu sậm. Cái mốt thời nay, các cô cậu thường hay đeo dây chuyền mỏng, bằng vàng 18k, dài gần tơi rún và miếng mề-đai hình bầu dục có lồng ảnh giữa hai mặt kiếng. Chiếc đồng hồ mạ vàng lớn mặt, dây cũng mạ vàng gồ ghề tương xứng với mặt đồng hồ. Anh mang giày da bóng loáng, miệng luôn  cười tươi, ưa pha trò nên trông trẻ trung hơn trong bộ veste màu xanh đậm đêm dạ tiệc năm nào.
Đặc điểm chót trong văn chương của Dư Thị Diễm Buồn là chị hào sảng với độc giả. Chị thết đãi các nhân vật trong mọi tác phẩm của mình những món ăn quốc túy quốc hồn rất thường xuyên, rất phong phú ê hề,  không tiện tặn, không bỏn sẻn. Độc giả nhờ vậy cũng đuợc... ăn hàm thụ luôn. Nhưng có điều hơi lạ lùng là không bao giờ chị cho các nhân vật mình ăn bất kỳ món mắm nào. Hỏi ra, chị vốn dị ứng với món quốc túy quốc hồn đậm tình dân tộc này. Thỉnh thoảng, chị biểu diễn tài nữ công gia chánh của mình bằng chỉ vẽ cho độc giả làm một vài món ăn địa phương ( như các món ăn cỏ truyền ở quận Cai Lậy). Và cũng hình như chị chỉ đãi độc giả ăn các món ăn Nam Kỳ Lục Tỉnh chứ không đãi các món ăn miền Bắc hay các món ăn miền Trung. Có lẽ về ẩm thực, chị có dị ứng hoặc kỳ thị với các món ăn ngược lên hướng Bắc xa xôi chăng?
°
°  °
Trong truyện có thêm hai mối tình quan trọng nữa. Đó là mối tình giữa e='height:10px;'>
Xin đọc bài ''Tháng Sáu Ta Buồn Tim Tái Tê'' trong thi tập ''Từ  Mièn Biển Sóng''.
Năm  nào tháng sáu ta rong chơi
Ánh nắng chiều nghiêng dưới mặt trời
Đuổi bướm vờn quanh hàng dậu tím
Thả diều theo ngọn gió chơi vơi...
°
Lần lữa bao mùa Xuân nở hoa
Mấy đông trở giấc đọng sương pha
Thả trôi mơ mộng vào hư ảo
Ôm chuỗi ngày buồn lẫn xót xa!
Tháng sáu nào mưa bão ngút ngàn
Tiễn người chiến sĩ vượt quan san
Đưa người yêu mến vào lòng đất
Ta đã một thời lệ chứa chan...
°
Tháng sáu này ta đếm tủi hờn
Cha vào huyệt lạnh với cô đơn
Hôm nào bên cửa Cha còn đứng
Vẫy vẫy tay chào để tiễn con!
°
Tháng sáu con buồn tim tái tê
Còn đâu Cha đứng đón con về
Âm dương cách biệt rồi Cha nhỉ?
Vĩnh viễn ôm sầu trong giấc mê...
°
Con thấy Cha từ trong bóng đêm
Bạc phơ mái tóc, ngủ êm đềm
Giấc ngủ ngàn năm không trở dậy
Cho con chua xót nghẹn ngào thêm!
°
Từ đây cho đến cuối đời con
Một bóng đơn côi giữa xứ người
Con khóc khi đời dâng bão tố
Con cười... nhưng giọt lệ đầy vơi...
(các trang 33, 34)
Trót yêu quê hương khốn khó, trót không thể cho tâm tình hòa điệu với cuộc sống trên xứ sở định cư, dĩ nhiên những nhà thơ luôn mơ một ngày về vinh quang khi đất nước dựng lại ngọn cờ xưa. Nhưng giấc mơ ấy,  họ thầm biết chỉ mãi mãi là giấc mơ. Và dù ngọn cờ xưa có tìm lại trên cố quốc chăng nữa, nhưng chắc gì họ còn sống sót để trở về nhìn lại nó vẫy lộng trong bầu mây tạnh trời trong. Song họ vẫn tiếp tục mơ. Tâm trạng đó là tâm trạng chung của kiều bào nặng tình nghĩa, trong đó có tâm trạng của nhà thơ nữ Ngọc An. Xin đọc bài thơ ''Sẽ Có Ngày'' trong thi tập ''Từ Miền Biển Sóng'':
Sẽ có một ngày ta trở lại
Núi sông hùng vĩ mượt màu xanh
Giòng thác reo vui mừng khách lạ
Hoa Xuân đua nở rộ trên cành
°
 Sẽ có một ngày tay siết tay
Mừng mừng tủi tủi rượu, thơ, say
Tàn đêm thức trắng niềm tâm sự
Thân phận ly hương những tháng ngày!
°
Sẽ có một ngày ta với ta
Đồi cao vang dậy khúc hoan ca
Chim muông cầm thú cùng vui hót
Chào đón mùa xuân đẹp thái hòa...
°
Sẽ có một ngày bao chiến binh
Trở về đất Mẹ giữa bình minh
Thuyền xưa bến cũ dang tay đợi
Lệ đá rưng rưng khóc chuyện tình...
°
Chuyện tình của những kẻ ly hương
Quên mất mùa Xuân chốn dặm trường
Bỏ ngõ tim hồng nơi xứ lạnh
Nhìn nhau bỡ ngỡ, tóc pha sương!
°
Sẽ có một ngày con của Mẹ
Tìm về giòng máu chảy trong tim
Thiết tha nguồn cội bao ngăn cách
Dựng lại non sông kiến thái bình...
(trang 23)
°  °  °
Trong cõi thi ca, nữ sĩ Ngọc An có hai khuôn mặt: khuôn mặt của một người tình nhu mì âu yếm thường tâm sự với người yêu của bằng lời mềm mỏng, gắn bó. Đó là những lời thoát thai từ tấm lòng tha thiết và bền sắt tươi son. Khi hạnh phúc, chị không reo vang tưng bừng tở mở, không ba hoa với ngọn trào lòng lai láng của mình. Khi đau khổ, chị không bù lu bù loa, tru tréo như Nguyễn thị Hoàng, không dảy đành đạch như Túy Hồng, không khinh bạc kiêu kỳ như Linh Bảo (bên văn xuôi). Chị chỉ than thỉ một cách dịu dàng. Tiếng thở dài của chị mỏng nhẹ, ngắn ngủi, nhưng dễ thấm sâu vào lòng người.
Khuôn mặt thứ hai của chị trong thi ca là khuôn của một người phụ nữ gắn bó với tổ quốc quê hương và chính nghĩa. Chị không nguyền rủa, không đả kích trắng trợn chế độ đương thời ở quê nhà, không hằn học với những kẻ làm đất nước điêu đứng lầm than. Chị vẫn giữ thái độ điềm đạm rất thục nữ và rất thùy mị khi viết những bài thơ cho quê hương, cho những người vị quốc vong thân, cho những kẻ gánh vác hệ lụy sau cuôc đổi đời trên đất nước.
Sáng tác thơ chị không cần gò gẫm, cứ để cho mạch thơ tuôn tràn lưu loát như chất mật ong ngọt ngào rót vào chén sứ mỏng tanh. Chị không gọt tỉa trau chuốt ngôn từ một cách tỉ mỉ như người sành điệu gọt tỉa củ thủy tiên thành hình trân cầm thụy thú trong dịp Tết. Chị cũng không cần thoa son đánh phấn cho ngôn từ, không cần chạm trổ những ngữ pháp tân kỳ. Có vậy tình cảm trong thơ được hồn nhiên chân thực. Bởi đó chúng ta không lấy làm lạ tại sao thơ chị thật truyền cảm.
...............................................
Chú thích:
(1) Thu Hồng là nhà thơ nữ thời tiền chiến, vốn là một tôn nữ đất Thần Kinh. Bà là tác giả thi tập ''Sóng Thơ''. Bà mất tích trong thời chiến tranh Đông Dương giữa Pháp và Việt Minh. Sau  đây là đoạn thơ tiêu biểu của bà trong thi tập ''Sóng Lòng'':
Mầm chán nản chớ len vào niên thiếu
Chớ len vào sớm quá tội em mà!
Em như nghe thời ấy vẫn còn xa,
Em chậm chậm để mong còn xa mãi;
Hãy là hoa, xin khoan là trái,
Hoa nồng hương mà trái lắm khi chua.
(2) Mộng Tuyết là nhà thơ nữ đất Hà Tiên, là vợ của thi sĩ Đông Hồ. Bà đoạt giải văn chương do nhóm Tự Lực Văn Đoàn  chủ trương vào năm 1939 qua thi tập ''Phấn Hương Rừng''. Vào năm 1960, bà cho xuất quyển tiểu thuyết ''Nàng Ái Cơ Trong Chậu Úp'' qua bút hiệu Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội. Vào năm 1972, bà cho xuất bản thêm thi tập ''Gầy Hoa Cúc''.
(3) Hằng Phương là con gái nhà chí sĩ  Sở Cuồng Lê Dư và là vợ phê bình gia Vũ Ngọc Phan. Bà cùng 3 nữ sĩ Vân Đài, Mộng Tuyết và Anh Thơ cho xuất bản chung quyển hợp tuyển thi ca ''Hương Xuân''.  Vào thời tiền chiến,  các nhà thơ nữ như Hằng Phương, Vân Đài, Mộng Tuyết, Anh Thơ, được Hoài Thanh và Hoài Chân  đưa vào quyển biên khảo ''Thi Nhân Việt Nam''. Về sau ít lâu còn xuất hiện thêm Ngân Giang và Mộng Sơn. Sáu nữ sĩ này vào thời kỳ Đệ nhất Cộng Hòa tại Miền Nam Việt Nam được Nguyễn Tấn Long và Nguyễn Hữu Trọng đưa vào quyển biên khảo ''Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến''. Sau đây là bài thơ  tiêu biểu ''Lòng Quê''của Hằng Phương trang tặng Vũ Ngọc Phan đã đăng trên tạp chí Hà Nội Tân Văn:
Xưa kia em ở bên trời,
Ngây thơ chưa rõ cuộc đời là chi.
Mặc cho ngày tháng trôi đi,
Tóc mây nào biết có khi bạc đầu.
Chim non ở chốn rừng sâu,
Quanh mình chỉ thấy một màu xanh xanh.
Bình minh buổi ấy gặp anh,
Rủ em ra chốn thị thành xa khơi
Yêu anh em hóa yêu đời,
Theo anh chắp cánh tung trời bay cao.
Anh đưa em đến vưòn đào,
Màu tươi sắc thắm em nào dám chê.
Nhưng em luống nặng hồn quê,
Nhớ thương cảnh cũ bốn bề núi non.
Nhớ nơi làng xóm con con,
Nhớ hương cây quế chon von trên đồi.
Bạn xưa, nhớ yến tha mồi,
Cành xưa, em đỗ những ngay còn thơ...
Đường xa, ngoảnh lại ngẩn ngơ,
Trông theo mây trắng thẫn thờ mắt xanh.
(4) Đây là bài thơ của nữ sĩ Renée Vivien tặng người đẹp Eva Palmer, một phụ nữ trí thức ưa khảo cứu văn minh Hy-lạp. Nàng có mái tóc hung hung đỏ như sắc mây hoàng hôn, thường gợi hứng cho các thi nhân vào Thời Đại Mỹ Lệ (la Belle Époque, tức là vào thập niên 10 của Thế kỷ 20). Cho nên thời nhân gọi nàng là ''Nữ Thần Tà Dương''.
Tes cheveux sont pareils aux feuillages d'automne
Déesse du couchant, des ruines, du soir!
Le sang du crépuscule est ta rouge couronne,
Tu choisis les marais stagnants pour ton miroir.
°
 L'odeur des lys fanés et des branches pourries
S'exhale de ta robe aux plis lassés ; tes yeux
Suivent avec langueur de pâles rêveries ;