Như tôi đã kể ở phần trên cuốn sách này, tôi và chị Nga, hai chị em chúng tôi xa nhau kể từ buổi sáng chị đi lấy chồng, và tôi lên đường nhập ngũ, đến tận mãi hai mươi bảy năm sau, khi cả hai đã bạc tóc mới gặp lại nhau. Quãng thời gian xa cách ấy, là quãng đời lưu lạc, cho đến khi gặp nhau cũng không phải ở quê nhà. Có biết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu biến cố mà chị dồn nén trong lòng, đem ra kể với đứa em là tôi.
Thì ra cái đêm chị dời Soi Vạt để trôi theo dòng sông Công về xuôi, không phải hai mẹ con chị ngồi trên cái mảng nứa, lềnh bềnh theo dòng lũ xiết như người ta đồn thổi lên. Chị kể với tôi rằng, Soi Vạt không phải là nơi trú ngụ suốt đời chị và thằng Hận con chị, và ngay cả cái làng Sơn Cốt của chúng tôi cũng không thể dung thứ chị. Phải ra đi, chị nhất quyết đã nghĩ như vậy. Nhưng đi bằng cách nào? Và sẽ sống ra sao?
Ở đây, suốt một thời gian dài, thằng Hợi, đứa trẻ chăn trâu cho hợp tác là sợi dây nối chị với bên ngoài, là kẻ tiếp tế gạo, muối, dầu đốt... cho hai mẹ con chị. Chị thương nó, giá như nó là con chị, thì chị cũng chỉ thương nó đến thế mà thôi. Khi quyết định ra đi, chị thoáng nghĩ hay là đem nó cùng đi. Đất trời, non nước này, với những gì chị biết được từ những bài địa lý mà chị đã dạy cho lớp học trò của chị sẽ dẫn bước chị đi. Còn thằng Hợi, thằng bé mục đồng đen nhẻm, côi cút nhưng khá thông minh, sớm láu cá sẽ phải để cho nó ở lại để nó gắn bó với cái làng nhỏ bé, đìu hiu của nó. Nó còn mẹ, còn các em, còn là nơi đi về của hương hồn cha nó. Chỉ có chị là phải ra đi.
Chị nghĩ thế, và chị cũng đã toan tính làm một cái bè bằng tre, ghép lại. Chị cũng định sẽ đặt thằng Hận nằm trên đó, chị sẽ một tay chèo chống, xuống hết quãng thác này, vực nọ, cho đến khi nào ra tới dòng sông Cái.
Thế rồi mùa nước lớn đã đến, cái mùa nguy hiểm của dòng sông, nhưng lại là một mùa xuôi bè thuận tiện nhất, vì lòng sông nở ra, dềnh lên mênh mông hơn. Nhìn con nước lũ ào ạt chảy, cuốn theo cơ man nào cây củi, cành khô, quấn quýt vào những bụi tre hai bên bờ rã rợi ngọn lá, chị thấy sợ hãi. Lòng can đảm được ấp ủ suốt một mùa đông giá, khô cằn, cạn hẹp bây giờ bỗng nhiên tan biến.
Nhưng nhất quyết phải ra đi!
Chị ngồi đếm lại số tiền nhỏ nhoi mà chị đang có bằng những đồng tiền lẻ. Chị vuốt lại cho chúng thẳng thớm, sạch sẽ, gói chúng vào một miếng vải mưa cũ kỹ. Xong xuôi, chị ngồi nhìn thằng Hận đang lồm cồm bò trên manh chiếu rách, rồi chị nhìn vào hai bàn tay mình, trống trơn. Bất giác chị nghĩ đến tôi, chị kể thế. Chị nhớ đến cái đêm trăng non trên đồi Chùa Phung mà chị đã nhìn vào bàn tay tôi mà dự báo, phỏng đoán cho cuộc đời tôi.
- Ngày ấy chị đã dự báo cho em rằng em của chị sẽ có một cuộc đời phiêu lưu phong phú. Thế mà khi ngồi nhìn hai bàn tay thô tháp đã bắt đầu nhăn lại của mình, mà chị không tài nào dự báo cho mình con đường trước mặt. Em hỏi chị có tuyệt vọng không ư? Không, chị không hề tuyệt vọng, nhưng cũng không thể hy vọng được. Chị chỉ nung nấu một ý chí băng qua, vượt lên chính cuộc đời mình... Dù có ra sao cũng được, dù có đi đến đâu cũng thế!
Một hôm, như lệ thường, thằng Hợi về xóm, chị bồng thằng Hận ngồi nhìn dòng lũ, thì bỗng có một cái mảng dài, trên đó lô nhô những tay thợ sơn tràng, đang trôi xuôi, chầm chậm, thế rồi nó quay ngoắt, ghé vào Soi Vạt. Người ngồi đầu, dáng như người chỉ huy mảng vít một nhánh tre ghì sát cái mảng dài như con thuồng luồng vào bờ đất, nhóng cổ gọi lên:
- Nhà chị có còn gạo không, để cho anh em tôi một bữa?
Chị Nga hơi bị bất ngờ:
- Các bác hỏi đong gạo?
- Vâng! Nhưng mà không cần nhiều đâu. Anh em tôi vừa hết gạo ăn, cần bữa tối nay thôi, sáng mai ra đến sông Cái thì lại có chỗ mua rồi...
Chị Nga ngần ngại một chút rồi, bỗng loé lên ý nghĩ táo tợn:
- Mời các bác lên đây một chốc. Em có gạo đấy, nhưng sợ không đủ để các bác nấu bữa tối.
Người thợ rừng nhảy phắt lên bờ:
- Độ hai đấu là đủ thôi mà!
- Thế thì may ra...
Chị chui vào trong lều, đem ra cái vại nhỏ sứt mẻ, đựng lưng lưng gạo ra, xoay xoay:
- Chỗ này cũng đến hai đấu, bác cầm lấy mà nấu. Hay là... sẵn có củi lửa đây, các bác lên nghỉ tạm, cơm nước xong thì xuôi! Chứ dọc bờ nước cả thế neo vào đâu?
Nghĩ ngợi một thoáng, bác san tràng gọi vóng xuống:
- Anh em ơi! Có gạo rồi! Lên đây thổi cơm ăn xong ta đi tiếp! Đoạn bác ta quay lại. Chị có cái xoong nào nấu đủ cho năm anh em tôi ăn, thì cho mượn. Mà cánh san tràng chúng tôi ăn khoẻ lắm đấy!
Chị Nga lúng túng:
- Nhà em chỉ có hai mẹ con, không có nồi to, chán thật.
- Thế thì thôi, không sao! Bác thợ nói với xuống mảng. Thằng Tĩnh cởi cái xoong to vẫn nấu cơm đem lên đây...
Thế là trong chốc lát, “nhà” chị Nga bỗng rậm rịch khách khứa, lao xao tiếng người. Chưa bao giờ, và cũng chẳng bao giờ chị lại có thể hình dung ra cái cảnh này. Hình như cũng đoán ra hoàn cảnh éo le của chị, bác trưởng toán thợ rừng hết nhìn chị, nhìn thằng Hận rồi lại nhìn túp lều tùm hum, lè tè của chị ý chừng muốn hỏi một câu gì đó. Còn chị Nga thì lặng lẽ nhiệt thành giành lấy cái xoong từ tay người thanh niên tên Tĩnh vo gạo bắc lên bếp. Nếu bác trưởng tốp giữ ý không hỏi thì anh chàng Tĩnh xốc nổi hỏi ngay:
- Chị ở đây có một mình thôi à?
- Vâng! Có hai mẹ con tôi và thằng cháu. Nó về xóm...
- Xa làng, xa xóm thế này, ngỻ Cong Môi. Một lân dại dột thế nào đó, Phúc đã tặng cho một ông bạn khác của chúng tôi vốn là nhạc công thổi kèn của công an Hà Nội, bị thải hồi, một khẩu súng CKC đã chế tác lại theo ý Phúc, để ông bạn thổi kèn này bắn nát đến tận đùi một bên chân ông anh họ tôi là một giáo viên cấp hai, trong một vụ tranh chấp một tí đất rộng chừng một đường cày. Suýt gây ra án mạng, nhưng ông anh họ giáo viên của tôi chỉ bị tháo khớp đến háng, còn ông bạn cựu nhạc công đi tù. Phúc Trều ra sao, tôi không biết! Nhưng làng tôi cũng chưa có kẻ biết giết người!
Nếu là buổi sáng, trong ánh bình minh mờ đục, bạn sẽ gặp cụ Đồ Nham. Cụ Đồ cao to, vạm vỡ, theo đúng chân dung được mô tả "vai u, thịt bắp, mồ hôi dầu", đang vác một cái cày chìa vôi, mà bắp cày rất lớn, "phi" đến mười lăm xăng-ti-mét, làm bằng tre đực, kiêm luôn đòn gánh của cụ, giong một con nghé bé tí tẹo, chắc là mới vực. Trong khi đôi mắt kèm nhèm của cụ cúi xuống để tránh những vũng nước và những bãi phân trâu, thì con nghé con cứ hếch mũi lên mà ngửi trời, có thể cô ả đang tung tăng sung sướng vì lần đầu tiên được chính thức tham gia vào việc kéo cày, đem công điểm về cho chủ là cụ Đồ Nham. Cụ Đồ là người quê gốc ở Hà Đông, bằng chứng là tôi đã được nói chuyện với anh cháu gọi cụ bằng chú từ Hà Đông lên chơi với cụ. Anh ta tên là Da. Cụ là công nhân mỏ sắt Lăng Hít, rồi sau loạn lạc cụ đến ở nhờ làng tôi, cụ thể là trên mảnh đất nhà tôi, nguyên là cái vườn hoa cảnh của chủ đồn điền Sơn Cốt, tên là Đùi Gà (có lẽ là Dugas, nói chệch ra), để rồi lấy một bà vợ khét tiếng là chửi hay nhất làng. Mùi mồ hôi dầu của cụ đồ Nham danh tiếng đến nỗi, trong bất kỳ cuộc họp xã viên trong phạm vi đội sản xuất hay đại hội toàn thể, sự có mặt của cụ được người ta biết ngay. Thậm chí cách nửa cây số, người ta vẫn biết, nếu đứng xuôi chiều gió thì điều này càng được khẳng định.
Câu chuyện cụ Đồ Nham cưới vợ tôi biết, dù lúc đó tôi mới được sáu tháng tuổi. Khi cụ Đồ đến ở nhờ nhà tôi thì đã có một người khác ở nhờ, đó là ông Dư, người cùng làng tôi, nhưng gia đình tứ tán, không còn cha mẹ, hơn nữa ông Dư lại mắc bệnh động kinh. Bố tôi bằng lòng cho ông Dư và sau đó là ông Nham ở nhờ những ngày đầu vào một cái chái, dù rằng là tôi rất nhỏ. Thường thì ông Dư hay ngủ ngoài đống rơm. Người mà cụ Đồ lấy làm vợ đã có một đời chồng, mang tên chồng cũ, chứ tên thật của bà rất ít người biết. Khi có chồng bà mang tên chồng là bà Nham. Bà này có họ với bà nội tôi, nên chúng tôi gọi bằng bá, còn chồng bà lại gọi là ông. Chính vì lẽ đó mà sau này, vợ chồng cụ Đồ Nham không ở nhờ nhà tôi nữa, ông Dư bị chết sau một cơn co giật, vào một buổi trưa mùng một tết, bà bá của chúng tôi đã đứng trước cổng chĩa vào nhà tôi chửi suốt một buổi chiều, mà mãi sau này tôi mới hiểu bà chử "cái đứa đã lợi dụng chứa chấp em tao, lấy hết của cải của nó để chôn người sống, đống người chết". Lúc đó tôi và em tôi, theo lời chỉ dẫn của cụ Đồ, đứng ra bờ rào bắt nhại tiếng chửi của bà bá thân yêu, khiến bà chửi càng mãnh liệt hơn, đến phải đưa vào nhà hô hấp.
-Đ. mẹ con cái Rựng (Rựng là tên thật của bà bá chúng tôi), thằng Dư nhà mày thì trên răng dưới dái có cái đéo gì mà người ta lấy. Ăn nhờ hết bát lành, bát mẻ, ăn cả giải giút nhà người ta còn chết đói kia kìa. Có cặc tiền bạc đấy mà lấy! Đó là những lời lầm bầm rất nhỏ, có khi nghe như lời tâm sự của cụ Đồ Nham chửi vợ.
Bác Dư, chúng tôi vẫn gọi thế cho đến khi ông chết, là người tài giỏi trong nghề rừng. Suýt nữa thì bác Dư cũng thành một người anh hùng kiểu Tinh Tinh, nhưng tâm thần bác khá hơn, chỉ bị lên cơn co giật khi cần thiết. Có khi vài ba năm, không thấy cơn bệnh phát ra. Tôi ở với bác đã từng được bác cho ăn thịt ngựa, thịt hùm... có khi ăn sống, hoặc rửa bằng nước vo gạo, xào sơ, rất ngon lành. Năm mươi năm sau, mẹ tôi còn thấy khiếp khi nhắc lại chuyện con trai bà ăn thịt hùm sống.
Nếu vào buổi chiều tà, mặt trời tụt xuống sau dãy núi Tam Đảo, nhuốm màu đỏ quạch xuống các rặng tre, thì rất có thể gặp được giáo sư Thanh! Giáo sư là con người thấp lùn, lại xương xẩu, hom hem... rất có dáng của một người ăn mày. Dáng đi của ông như bay, chân không chạm đất như những cảnh chiếu chậm trong phim quảng cáo. Đầu cúi xuống đầy vẻ suy tư, hai tay cậu ôm lấy cái gì đó dưới bụng, có khi là bơ gạo, bọc sắn luộc, vài quả đậu đũa, mà cũng có khi chẳng có gì, giáo sư vẫn giữ chặt chẽ, cẩn thận. Và giáo sư Thanh vừa đi vừa máy mồm, như đang nhẩm một công thức, một phương trình hay một luận đề phức tạp, rất nhỏ. Nhưng chính tai tôi đã nghe thấy ông chửi, chửi ông anh rể tàn bạo đẻ toàn con gái, được mỗi một mụn con trai thì lại lác mắt, ông chửi con gà lao vào chân ông, ông chửi cái thằng đã giành mất của ông cái đầu gà lở toe toét, nham nhở từ năm bốn-nhăm, ông chửi cái mô đất suýt làm cậu ngã, vấp cái ngón chân trỏ đã bị mù vào, đau quá, đâu quá... Tuy nhiên, tôi chưa thấy ông chửi tôi, hay bất kỳ một người nào trong gia đình chúng tôi, dòng họ chúng tôi.
Khác với dân làng Sơn Cốt, anh em chúng tôi gọi giáo sư Thanh là "cậu giáo", sở dĩ chúng tôi gọi bằng cậu, có lẽ vì ông ngoại tôi với bố cậu Thanh cũng là dân ngụ cư đến sau, không có ruộng, ông tôi làm thợ bạc, còn ông già giáo sư là người làm mướn, hay đến trú rét nhờ cáo bễ thợ bạc phì phò của ông. Giáo sư chỉ co một người chị gái và cậu gọi mẹ tôi là chị. Khi hoà bình, cậu cũng là xã viên, cũng lấy vợ, cũng ly dị về nhà ở nhờ nhà chị gái. Một sự không ăn ý nào đó, cậu đi lang thang trong làng, và cuối cùng, lại đến ở nhờ trong nhà tôi.
Cậu giáo là người đã từng đi ăn mày có thâm niên. Cậu đã kể cho chúng tôi nghe những chuyện mà cậu đã trải qua, đã nghe được trong những năm đi ăn mày. Đàn ông thế nào, đàn bà ra sao, cán bộ, bộ đội, mụ hàng cơm, bà hàng xén, tất tần tật cái gì cậu cũng có thể kể ra vanh vách, lại có phần khúc chiết, đoan trang. Tôi vô cùng khâm phục vốn sống của cậu, thậm chí phát thèm lên vì những mảnh bánh mỏng dính nằm trong kẽ lá gói bánh, cái vị thơm nồng, béo của khúc xương đầu gối đùi gà luộc đã trải qua một đêm trong sọt rác, cái giấc ngủ mê mòng trên manh chiếu rách vỉa hè ngậy mùi nước đái...
Xin lỗi bạn đọc, tôi đã đùa! Không, không phải tôi, mà chính là dân làng Sơn Cốt chúng tôi đã đùa, khi dùng hai danh hiệu đáng kính là Cụ Đồ và Giáo Sư để gọi hai con người khốn khổ không biết chữ là ông Nham và ông Thanh! Không biết xuất phát từ đâu, từ ai đã phong hai cái danh hiệu đó? Tôi nghi ngờ bố tôi, ông có nỗi buồn, có nỗi thất vọng mà chỉ sau khi bố tôi chết, tôi lớn lên và già đi tôi mới phần nào hiểu được, nhưng lúc nào bố tôi cũng vui vẻ. Sự rộng lòng và vẻ hài hước của ông đã được mọi người, mà nếu không phải tất cả thì cũng là cụ Nham, ông Thanh, bác Dư... thừa nhận!
Nhưng gia đình chúng tôi còn cưu mang một gia đình nhỏ nữa, một thầy giáo dạy vỡ lòng thôi, không phải ông đồ hay giáo sư, và cô con gái bé bỏng của ông. Đó là thầy giáo Hoan và con gái của thầy, chị Nga.
Thầy Hoan, trong cuộc đời tôi, thầy là một người thầy theo đúng nghĩa nhất, vừa cụ thể nghĩa đen, đồng thời lại vừa trừu tượng theo cả nghĩa bóng, mặc dù thầy chỉ dạy tôi lớp vỡ lòng, cái lớp làm quen với chữ cái, chữ i, chữ tờ, tập đánh vần và những câu chuyện cổ tích huyền bí. Hồi bé, tôi là một đứa trẻ nhát học. Những ngày đầu đến trường của tôi, không biết bao nhiêu là nước mắt đã chảy, mỗi khi nghe tiếng kẻng gọi học trò. Tiếng kẻng phát ra từ một quả bom lép treo ở nhà ông cụ Khuê, ngân nga, réo rắt một hồi sáu tiếng làm tôi hoảng sợ. Sợ học. Sợ đi học cùng với những tay học trò lớn lồng ngồng, ngổ ngáo tôi dễ bị bắt nạt, mà từ đó biến thành sợ cái tiếng "keng... keng" của quả bom.
Trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt, tôi đồ rằng từ "kẻng" là một danh từ hoàn toàn mới, nó chỉ xuất hiện sau những loạt bom của đế quốc Pháp thả xuống cánh đồng, làng mạc, rừng núi Việt Nam. Đáng lẽ nó phải nổ tung để tàn phá cầu cống, nhà cửa, kho tàng, trường học, hầm hố và phanh thây xé xác con người thì lại bất ngờ có một vài quả lép. Cái quả lép ấy, được các chiến sĩ du kích quân Việt Minh tháo ngòi nổ, lấy thuốc ra dùng vào nhiều việc, trong đó có cả việc đánh lại người Pháp, thì cái vỏ của nó được dùng làm cái thứ để gõ, phát ra tiếng để báo hiệu, thông tin. Rất có thể cái âm "keng, keng" của nó mà có có tên là kẻng! Trước đó, người Việt Nam chúng ta chỉ có tiếng mõ "cốc cốc", tiếng trống "tùng tùng", và sau này người ta dùng nhiều vật phát ra tiếng khác nữa như vành (tang trống) bánh ô tô, thanh tà vẹt... nó chỉ phát ra những âm thanh ồm ồm, rè rè, buồn bã...
Cái kẻng treo ở cây mít trước cửa nhà ông cụ Khuê là một quả bom cỡ năm mươi cân, nó tròn và thuôn đẹp như một con lơn thoai, bóng nhẫy, mập mạp. Cùng với hình dáng của nó, âm thanh nó phát ra trở thành thân thuộc, đáng yêu đến nỗi không ai nghĩ nó vốn là một tên giết người dã man.
Thầy Hoan cũng dữ đòn như nhiều thấy giáo làng thời bấy giờ. Thầy có một cái roi làm bằng cành dâu, trắng phau dài độ hơn sải tay, lúc nào cũng giắt sẵn trên mái gianh để thị uy đám đệ tử mũi giãi của mình. Mỗi bài học vỡ lòng dạy chúng tôi bao giờ cũng ngắn ngủi, giản đơn và cuối mỗi buổi học, bao giờ cũng là một câu chuyện cổ tích vừa hấp dẫn, vừa ghê rợn, đầy tính răn dạy. Hình ảnh thầy Hoan đứng trước ô cửa đầy ánh nắng giả đò theo động tác của cậu Bé Tròn hái quả cho cha mẹ ăn một cách khó nhọc, cứ in mãi, lắng mãi vào trái tim non nớt của tôi...
Năm 1975, từ chiến trường trở về, tôi đến thăm thầy. Năm ấy tuy đã ngoài sáu mươi, nhưng thầy hãy còn quắc thước và đĩnh đạc lắm. Thầy sống một mình với câu chuyện buồn về người con gái duy nhất của thầy. Ngoài con chó già và một bẫu vườn chỉ có hai loài cây đơn mặt trời và ngải cứu, thầy không còn ai làm bầu bạn.
Tôi nhìn quanh ngôi nhà lợp lá cọ dặm thêm lá mía, vách đất mà mưa đã bào mòn trơ ra những thanh nứa cắm vách ngả màu bạc. Bờ vách ấy, đối với tôi chứa đầy kỉ niệm mà giờ đây, cả tôi, cả thầy Hoan đều im lặng dằn nó xuống một khoảng sâu thẳm trong đáy lòng. Sợi dây thép chăng từ một dảnh kèo nối với cây xoan đào từ lâu quá rồi, khiến cây xoan thắt một cái ngấn sâu vào tận thớ gỗ, vẫn còn đó. Tôi lặng đứng và hình dung nhớ lại trên sợi dây ấy phất phới bay một tà áo sơ mi thiếu nữ màu xanh trứng sáo tỏa ra cái mùi xà phòng nằng nặng khi chưa bén hơi người. Tấm áo ấy giờ chắc đã rách và thiếu nữ, người chủ của nó giờ đây đang lưu lạc nơi đâu? Tôi vịn tay lên thân cây xoan đào, muốn khóc quá! Nhưng thầy Hoan đã cầm con dao cùn, dụng cụ làm vườn của thầy đến sau lưng tôi:
-Bây giờ hết đánh nhau, hòa bình rồi, anh định làm gì? Thầy Hoan hỏi tôi một câu hỏi mà chính tôi cũng đang muốn hỏi thầy, và cũng là câu hỏi mà thấy mình hãy còn sống sót sau cuộc chiến tranh, tôi đã không nguôi tự hỏi mình.
Tôi làm gì ư? Quả thực trong lúc đánh nhau với quân thù, tôi và các đồng chí của mình chẳng bao giờ có thời gian, hay một khoảng trống tương tự trong lòng để đặt ra câu hỏi: hết chiến tranh anh sẽ làm gì? Câu hỏi chúng ta sẽ làm gì thì có, và có hẳn một câu trả lời tuyệt đẹp. Thế nhưng đối với mỗi con người, mỗi anh lính cụ thể thì lại không có câu trả lời cụ thể. Tôi nói điều này hẳn nhiên có người chê trách, tôi không cãi. Nhưng, một thế hệ như chúng tôi lúc bấy giờ dễ nhận ra lắm, nó chói sáng, nó lừng lững và cả nó công thần nữa. Nhưng từng cá nhân cụ thể và nhỏ nhoi, rất khó nhận ra. Anh lính chiến thắng thì có, nhưng còn anh A, anh Z, anh Bình, anh Lạc... thì khó tìm lắm, khó thấy lắm, họ đã chìm nghỉm vào trong rừng vinh quang.
Vậy là tôi sẽ làm gì sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn là câu hỏi thường trực. Tôi đem đến hỏi người thầy thuở còn mũi giãi của mình, vì tôi tin thầy sẽ có câu trả lời đúng. Câu trả lời ấy thầy Hoan sẽ lấy ra từ những câu chuyện cổ tích, mà bao giờ nó cũng có hậu.
Quay về nghề cũ! Đó là những người có nghề, có cơ quan, có xí nghiệp. Quay về trường cũ! Là những sinh viên, học sinh đang học dở dang. Quay về cố hương, nơi chôn rau cắt rốn! Hãy nối nghiệp ông cha từ các đời Vua Hùng truyền lại, mà nhiều người trong số chúng tôi nghĩa là "theo đít con trâu", "một mái nhà tranh, một bà vợ - hoặc là lắm điều, hoặc là không nói gì - và một lũ con quanh năm đói khát, thò lò mũi xanh".
Tôi đi bộ đội trong khi đang học dở dang năm thứ ba trường trung cấp sư phạm. Nếu không có chiến tranh, nếu không phải vào quân đội thì tôi đã là một anh giáo làng dạy cấp hai, mà có ít ai ngờ được là dân "trí thức xã", cày ruộng, gieo mạ, phát bờ... còn tinh thông hơn cả cầm phấn viết bảng. Như vậy là, nếu muốn, tôi sẽ quay về trường cũ, học nốt nửa năm để tiếp tục sự nghiệp "trí thức nửa mùa" của mình. Nhưng..., ở đời này tôi thấy con người ta toàn gặp phải những cái "nhưng" oái oăm, oái oăm thôi, còn hay dở thì chưa biết, có nhiều cái nhưng may mắn kia mà. Nhưng, khi tôi trở về trường cũ thì không còn cái hệ "bảy công ba", là cái hệ mà tôi đã học. Trường đã thành trường cao đẳng, hệ trung cấp đã chấm dứt. Lúc này tôi mới hiểu ra rằng: thầy Hoan của tôi chưa từng qua một trường đào tạo nào, không trung cấp và cũng không sơ cấp sư phạm nào cả, những bài học của thầy dạy cho chúng tôi chỉ là một chút chữ nghĩa i tờ và tấm lòng mà thôi. Những con ma, những thằng quỷ và cả những ông Bụt, ông vua... trong câu chuyện cổ chan chứa tình người, là do thầy nhặt nhạnh trong cuộc đời, được rây lọc qua bao nỗi buồn vui, cay đắng. Người ta có thể trở nên người tài nhờ những bài toán đạo hàm, toán cao cấp và vật lý lượng tử, nhưng khó mà nên người khi thiếu đi những Bé Tròn và cả những thằng Cuội suốt đời nói dối ngồi gốc cây đa.
-Đồng chí về trường sẽ nhận công tác là cán bộ chuyên trách Đoàn trường. Thầy Ninh dạy sử tôi năm thứ ba, giờ là trưởng phòng giáo vụ nói với tôi như thế.
-Thưa thầy, em muốn được dạy học...
Dĩ nhiên là thầy Ninh và cả nhà trường khó có thể đáp ứng nguyện vọng của tôi, dù lúc ấy tôi đang là một công thần, có Huân chương trên ngực áo quân phục.
Tôi không kể cho thầy Hoan nghe câu chuyện trên, mà chỉ nói:
-Thưa thầy, cháu sẽ... về quê!
-Làm gì?
Tôi im lặng, bởi vì vừa không muốn trả lời thầy, vừa không thể trả lời được. Thầy tiếp:
-Làm ruộng thì anh có làm được không? Một thứ lao động truyền đời, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất. Không, tôi không nói đến cái gian khổ, gian khổ đối với anh chắc không thiếu. Tôi nói đến cái sự tù túng, quẫn bách của thói nhà nông hãnh tiến. Làng này anh thấy chứ? Giàu có như ông Sử Quốc cũng có bao giờ dám bỏ ra năm đồng để mua một đôi pin không hay là lại phải chạy vạy, chầu trực để được phân phối. Chuyện cũng nực cười, thấy tôi bỏ ra năm đồng mua đôi pin Con Thỏ của bà hàng xén, ông ấy nhìn tôi kinh ngạc: Ông giáo mà cũng phải mua ở đây à? Tôi hỏi lại: Thế mua ở đâu? Mậu dịch không bán cho tôi vì tôi không có phiếu đài cán bộ, muốn soi con gà con qué, con rắn con rết... thì phải ra đây mới có. Ông ta lặng im và rồi chỉ nửa ngày sau cả cái làng này biết tôi "dám" bỏ ra năm đồng để mua đôi pin Con Thỏ!
Tôi cười hơi có cái vẻ hiểu đời, nhưng không phải là vô lễ với thầy Hoan:
-Năm đồng là to lắm rồi, thưa thầy!
Bất ngờ thầy đổi giọng:
-Hay là đi buôn? Quê ta cũng có nghề đi buôn đấy! Nhưng muốn đi buôn phải có hai điều kiện, mà ở anh tôi nghĩ không có...
Tôi chăm chú chờ đợi thầy Hoan giải thích tiếp, nhưng thầy chỉ im lặng. Tôi đành vô phép hỏi với giọng sốt ruột:
-Thưa thầy, hai điều kiện đó là gì ạ?
-Một là phải học dốt. Hai là phải biết nói tục! Thầy nói một cách nghiêm túc. Nói tục thì có thể rèn mãi cũng thành. Chứ còn học dốt thì khó đấy... Khó không kém gì học giỏi đâu!
Trong cuộc đời ngắn ngủi của con người ta, tôi nghiệm ra rằng có những điều mà mình chỉ nghe một lần thôi, để rồi không tin không được, nhưng tin thì lại không biết vì sao mình tin, không hề có cơ sở khoa học, nó y hệt như một tôn giáo mầu nhiệm. Cái điều thầy Hoan nói với tôi hôm ấy, tôi cũng láng máng tin là đúng bởi những trải nghiệm của mình, nhưng rồi hơn mười năm sau khi vào học Khoa thương mại, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh tôi mới tin là thật. Vị giáo sư - tiến sĩ giảng bài marketing đưa ra cho chúng tôi một công trình trắc nghiệm của người Mỹ, xem anh có phải là nhà kinh doanh giỏi không, bằng một loạt các câu hỏi trắc nghiệm, trong đó có câu: "Khi còn đi học ở bậc phổ thông, anh học có xuất sắc không?". Nếu trả lời vào ô "có" anh được ba điểm; còn ô "không" anh được tám điểm!
Tôi không hiểu sức học của mình tới tầm cỡ nào, nhưng thường thì tôi không có điều kiện học bài ở nhà, mà chủ yếu tiếp thu trên lớp. Nhưng may mắn thế nào đó mà tôi vượt qua được tất cả các kỳ thi, để rồi được tuyển vào đội học sinh giỏi của tỉnh đi thi toàn miền Bắc (lúc ấy gọi thế vì chưa thống nhất đất nước). Đến đây thì tôi không vượt qua được, nhưng như thế thì cũng là vinh quang lắm rồi. Vinh quang cho làng tôi, cho trường tôi và họ hàng tôi. Chú tôi bảo: thằng này có thể học được tới tiến sĩ! Nhưng... (lại nhưng), cái ngày mà bọn bạn tôi lên huyện nộp đơn xin vào học cấp Ba, thì chúng gặp tôi trên đường gánh phân ra đồng!


ĐOẠN 11

Tôi gặp lại chị Nga của mình sau đúng hai mươi bảy năm. Từ dạo ấy, từ sau cái ngày đám cưới chị, tôi đạp xe mải miết về tỉnh đội, mải miết đi B, đi trong nhiều đội hình, rồi nếm trải, thưởng thức hương vị vinh quang của khúc khải hoàn do chiến tranh mang lại. Suốt một chặng đường dài ấy tôi nhận thấy rằng có nhiều lần tôi đã quên bẵng hình ảnh chị Nga, nhất là những khi cảm thấy mình có một chút thành đạt trong đời. Nhưng lạ lùng thay hễ cứ mỗi lần vấp ngã, một bận gặp phải nỗi niềm oan trái tai ương ập đến tôi lại nhớ về cái làng quê bé bỏng của tôi. Và hình ảnh chị Nga lại hiện ra, lại thì thầm bên tôi như như những ngày thơ dại. Mỗi lần tôi muốn khóc, tôi lại nghe tiếng chị:
- Nín đi em, khóc thế đủ rồi!
Giờ đây gặp lại chị sau hơn một phần tư thế kỷ, tóc tôi đã bắt đầu ngả bạc. Và một nửa số nhân vật, những người tôi nhắc đến trong câu chuyện này đã không còn trên cõi đời này nữa. Anh Kỳ, ông Tuân, bà Tuân, bà Phán Lan, thầy Hoan và cả bố tôi, đã lần lượt ra đi…
Vào một đêm tháng sáu oi nồng, bức bối có người đập cửa căn nhà nhỏ ngoại ô của tôi và tiếng một người đàn bà dè dặt nhưng có sức vang như tiếng gọi của quá khứ:
- Cậu ơi! Cậu Hoàng ơi!
Tôi giật mình choàng dậy hốt hoảng. Ai? Ai gọi tên tôi trong đêm thanh vắng thế? Có lẽ là trong chiêm bao, trong tiềm thức không yên ổn của tôi, những tiếng gọi như thế không bao giờ ngưng. Mồ hôi dấp dính trên trán, trong lưng áo, những cái gai trong cột sống của tôi cựa quậy, nhức nhối. Chờ nghe lại nhưng không thấy gì, tôi đặt mình xuống thì tiếng gọi ấy lại vọng vào giường. Lần này đúng là tiếng gọi thật, nghe rõ hơi thở hồi hộp của người gọi:
- Hoàng ơi! Em ơi, chị đây!
Tôi bật đèn mở cửa, trời ngoại ô đêm đêm vẫn một màu vàng đục. Tôi hỏi bằng một giọng lo lắng:
- Ai gọi trong đêm khuya khoắt thế?
Người đàn bà ấy hiện ra: chị Nga! Trời ơi, sao tôi lại gặp chị ở nơi này? Tôi reo lên nho nhỏ:
- Chị… chị Nga phải không?
- Ừ! Chị đây! Em ngạc nhiên lắm phải không?
Chị quay lại phía sau nói nhỏ: “Tới đúng nhà rồi, nhà cậu Hoàng của mình đấy, vào đi con!”
Lúc này tôi mới nhận ra người thanh niên đi cùng chị. Tôi hỏi:
- Ai thế chị? Có phải thằng Hận không?
- Phải! Chào cậu đi con, nhà cậu đây rồi!
Thằng Hận năm nay đã hai mươi hai tuổi, hơi mảnh khảnh cúi đầu lí nhí chào tôi. Cả nhà tôi thức dậy đón mẹ con chị. Bao nhiêu là chuyện thăm hỏi, hàn huyên. Nhưng sao không khí lại không được thân thương như ngày tôi còn nhỏ ở quê nhà mà mỗi lần tôi ngồi bên chị nhỉ? Người ta bảo càng già càng ích kỷ, hay là tôi đã già rồi?
- Hai mẹ con chị chắc là chưa ăn uống gì. Để em bảo nhà em đi nấu cơm chị và cháu ăn nhé?
- Chị ăn ngoài ga rồi, sợ cháu Hận có đói không. Hận ơi, con có đói không để cậu mợ thổi cơm?
Thằng Hận ngồi lặng thinh ở một góc ghế sa lông. Hai tay khoanh trước ngực, ngửa mặt nhìn những tấm giấy khen của các con tôi treo trên vách. Lúc này tôi mới nhìn kỹ nó, sao mà nó giống anh Kỳ đến thế! Cũng cái cằm nhỏ, hai vành tai chúc hướng về đằng trước hơi nhiều. Đặc biệt cặp lông mày ngắn và xô vào nhau sát tinh mũi, kiểu lông mày của những người ưa toan tính.
Sau khi vợ tôi thu xếp cho thằng Hận ngủ, tôi ngồi lại với chị Nga. Khuôn mặt chị vẫn không khác nhiều so với ngày xưa, chỉ có vóc người thì sắt lại. Tôi bồi hồi nghĩ đến bộ ngực thiếu nữ của chị ngày ấy, cái ngày mà trong cơn thất vọng tôi đã gục vào, như một con gà con nép vào đôi cánh của mẹ mình. Chị nhìn tôi với cái nhìn ấm áp:
- Chị vẫn nghe nói về em luôn, cuộc sống của em thành đạt chứ?
- Chị ơi! Biết nói thế nào để chị hiểu bây giờ? Vâng, em cũng tạm ổn…
- Vậy là tốt, chị mỉm cười, còn chị nhiều gieo neo lắm. Để rồi chị kể cho em nghe. Chắc đời chị chỉ có em là người chị có thể nói hết ra được.
Tôi cúi xuống nhìn vào cốc nước giấu nỗi xúc động của mình. Chỉ một câu nói nữa của chị là tôi sẽ khóc mất. Lát sau, tôi ngẩng lên:
- Chị ơi, em đã nghe hết chuyện của chị rồi. Thôi, mọi chuyện cứ coi như giấc chiêm bao…
- Chị cũng nghĩ thế, nếu không chị làm sao sống nổi suốt một chặng đời tao loạn trái ngang, để hôm nay chị em mình còn được gặp nhau…
- Em cũng đã về đến Soi Vạt, nhưng chỉ gặp thằng Hợi chăn trâu. Nó bảo “Cô Nga trôi sông rồi”…
Chị Nga lắc đầu:
- Khổ thân thằng bé! Bây giờ không biết nó thành cái gì rồi?
Chợt trong lòng tôi dào lên một nỗi hối hận. Sao bao nhiêu năm tháng tôi đã không đi tìm chị? Có lúc tôi cũng đã nghĩ đến chuyện ấy, nhưng lại tự hỏi: để làm gì? Câu hỏi ấy hóa ra là chỉ dành cho tôi chứ không phải cho chị, cho những người thân thiết của tôi. Nghĩ thế nên tôi nói mà thấy gượng gạo:
- Em thì lúc nào cũng nghĩ về chị, nhất là cái đêm trên gò Chùa Phung, em đang nằm một mình cô độc trên cỏ, với những hồn ma… thì chị đến…
Chị Nga cười nhẹ:
- Em vẫn còn nhớ chuyện ấy cơ à?
- Em quên làm sao được hả chị, cái buổi tối hôm ấy đã vực em dậy, và chính chị đã nâng em lên…
- Là em đấy chứ! À mà em có còn làm thơ nữa không?
- Có chị ạ! Nhưng những câu thơ của em cũng không giúp được ai hạnh phúc… Những năm sau này chị ở đâu mà những lần về làng em không gặp chị? Có đúng là chị và cháu Hận nửa đêm xuôi mảng nứa bỏ đi không?
Chị im lặng một lát rồi nói nhỏ:
- Xuôi mảng thì có, nhưng không phải ban đêm mà là buổi sáng, ban ngày, đi nhờ các ông san tràng xuôi gỗ.
- Em cũng hỏi thăm chị, nhưng không có thì giờ đi tìm chị…
- Chị bế thằng Hận đi khắp nơi, gặp việc gì làm việc ấy kiếm ăn qua ngày. Mãi sau chị xin được vào nắm than quả bàng cho một cửa hàng chất đốt. Đây, em nhìn hai bàn tay chị xem, cho đến tận bây giờ…
Đó là những ngón tay bợt nước và những cái móng đen xậm, lầm than của chị tôi.
Đêm ấy tôi trằn trọc cho đến sáng. Hình như tôi có chợp mắt được một lúc, bởi vì tôi đã được đi lại con đường tuổi thơ của mình cùng với chị Nga men theo bờ ruộng và chia tay chị dưới gốc gạo, nơi có con đường dẫn vào ngôi mộ đá Chúc Anh Đài…
Tôi xin được tiếp tục câu chuyện.
Lên bờ! Chị Nga của tôi xốc một bên nách cái tay nải nghèo nàn, ôm thằng Hận trước ngực bước những bước chân chập choạng trên nền đất gồ ghề. Đây, đây đất khách quê người là đây. Nghĩ một thoáng, chị quyết tâm đến một cái quán nước tồi tàn, che bằng mấy tấm liếp tả tơi. Hai người đàn ông nom cũng có vẻ tiều tụy nhích ra nhường một đầu ghế cho chị Nga. Người đàn bà gầy quắt chủ quán nhìn chị nhưng không hỏi. Chị lên tiếng:
- Xin bà cho cháu một cốc nước nóng.
- Chỉ có nước chè, cô uống được không?
- Vâng, được bà ạ.
Thằng Hận vẫn ngọ ngoạy trong ngực chị. Thế là chị yên tâm. Chị Nga chỉ sợ, và chị cứ tưởng ra nó im lặng. Lặng ngắt và lạnh ngắt… Nhưng nó vẫn rọ rạy trong bụng chị, hơi ấm của nó chị vẫn cảm nhận được. Và chị cũng muốn dùng hết sức, hết lực, hết hơi ấm cuả mình truyền cho nó. Uống hết bát nước chè, chị Nga bỗng thấy trong bụng réo cồn cào, chuyển rần rần. Thằng Hận càng cựa mạnh. Lúc này chị mới vạch những mớ giẻ áo quần cuộn lấy nó, để khuôn mặt xám ngắt và đôi mắt lờ đờ của nó hé ra.
Người đàn ông ngồi cạnh ái ngại:
- Cháu ốm hả chị?
Nghe giọng hỏi thông cảm của người lạ, chị Nga ngước lên:
- Vâng! Cháu bị cảm. Rồi chị ngước nhìn bà chủ quán. Bà ơi, bà có sữa hay nước đường cũng được, bán cho mẹ con cháu một cốc?
Bà chủ quán cười khẩy:
- Làm gì có sữa! Nước đường thì có, nhưng đường Hoa Mai thôi…
- Vâng cũng được, cho cháu xin một cốc. Bao nhiêu bà cho cháu gửi?
Chị Nga móc cái mớ tiền lẻ bùi nhùi trong túi, nhưng bà chủ quán không để ý, quay vào phía trong. Sau một hồi lục lọi, bà ta cầm ra một cái gói bằng giấy bao xi măng, to bằng đầu gối. Cởi hai, ba lần lạt buộc, một bọc giấy báo lộ ra. Thong thả và tỉ mẩn bà chủ quán lấy chiếc thìa nhỏ gò bằng một mảnh nhôm vụng về, nông choèn trịnh trọng múc từng thìa một như thể ao thóc, vào trong cái bát ăn cơm ve lòng, đã mẻ một miếng. Nhìn theo bàn tay bà chủ quán, chị Nga cứ nín thở từng chặp, hồi hộp. Nhất định thằng Hận của chị phải được uống nước đường, sẽ được cứu sống!
Cầm cái bát đường vàng trên tay, chị Nga đang phân vân không biết lấy nước gì hoà cho con uống, thì bà chủ quán đã đưa tay ra như là giằng lại:
- Nhà chị đưa đây cho tôi. Rồi bà ngoái vào phía trong, sau lưng, gọi to. Hến ơi, cơm sôi chưa?
Một đứa con gái nhỏ bé, mặt choắt, mũi hếch chạy ra:
- Sắp rồi! Mẹ hỏi làm gì?
- Sôi thì chắt lấy một ít nước cơm ra cái bát, đem ra đây cho tao. Nghe chửa?
Con bé vội chui tọt vào rồi chỉ một loáng sau, nó đã rón rén bưng ra một bát nước cơm. Bà chủ quán cũng rón rén trút vào cái bát đường vàng, rồi cầm thìa khuấy sơ lên, đưa trả lại cho chị Nga, miệng lầu bầu:
- Gạo mậu(1), nên nước cơm cứ trong leo lẻo như mắt ma ấy. Nhà chị cứ cho cháu uống cũng đỡ hơn nước sông. Này, cầm lấy mà bón cho nó…
Nãy giờ hai người đàn ông chăm chú theo dõi những động tác của bà chủ quán. Chị Nga nghe thấy cả tiếng một người nào đó nuốt nước miếng ừng ực. Chao ơi, rồi một ngày nào đó đất nước mạnh giàu, nhân dân hết cơ cực, mọi người sẽ có cơm có cá, có thịt, có đường, có sữa… Chứ còn hôm nay, một nhúm đường vàng mà cả người lớn, lẫn trẻ thơ đều thèm thuồng, nuốt nước bọt cầm chừng. Chị Nga lại muốn ứa nước mắt, nhất là khi thằng Hận hau háu nuốt từng thìa nước cơm. Đối với nó, đây là thứ thuốc thần tiên, thứ chỉ có khi ở thiên đường. Nhưng nó còn nhỏ quá, còn phải lớn lên, còn phải sống dai dẳng, chưa thể lên thiên đường đựơc. Chó con, à Pinôkiô của mẹ nhỉ?
Nhắc đến cái tên thằng bé gỗ, tự nhiên trong lồng ngực chị Nga như có gì hụt hẫng. Trong lúc lo cho thằng Hận chị đã để ra ngoài tâm trí của mình hình ảnh Tĩnh, người đàn ông đã cưu mang, cứu vớt mẹ con chị, mà tưởng như đã gắn bó với chị tư bao giờ. Chị còn nhớ đôi mắt sáng, chứa chất đầy niềm kiêu hãnh, vui mừng khi nói với chị: “Tôi sẽ không bỏ chị đâu!”. Vậy mà, bây giờ anh đang ở đâu? Anh đã xong việc của mình chưa? Anh có nghĩ đến mẹ con tôi không? Hay… lúc lên bờ, chị đã vội vã bế con đi thẳng, anh tìm không thấy? Bao nhiêu câu hỏi cứ trôi tuột trong đầu chị, không dừng lại ở một giả thiết nào. Sự trống trải, hẫng hụt dâng lên tràn lồng ngực chị, một nỗi tủi hờn xâm chiếm, từng chút, từng chút… Chị Nga hờ hững buông cái thìa nước cơm trên miệng con, nghển cổ nhìn ra xung quanh, tìm kiếm. Chỉ có bóng đêm đen đặc và thấp thoáng những ánh đèn tù mù, hoang vắng. Gió vẫn thổi từng chặp, từng chặp ào ạt từ dưới sông lên, lùa trong lưng áo chị, lạnh buốt.
Bỗng chị Nga nghe mơ hồ ai gọi tên mình, trong gió ào ạt. Rất mơ hồ rất không thật, nhưng chị đã nghe thấy. Chị nghe được tiếng gọi của Tĩnh:
- Nga ơ… ơi! Hai mẹ con ở đâu…u?
Chị đã nghe được tiếng gọi đứt quãng, theo từng đợt gió. Chị bế con đứng thẳng dậy bước ra hẳn khỏi túp lều quán nước, lấy hết hơi sức trong người, đáp lại tiếng gọi:
- Anh Tĩnh ơi! Ở đâ… ây!
- Nga ơ… ơi!
- Em đang ở đây… anh Tĩnh ơi…!
Chị bước sải những bước chân vấp váp trên bùn bãi bến sông về phía tiếng Tĩnh đang gọi. Những người ngồi trong quán nhìn theo ái ngại. Bà chủ quán vẫn lặng thinh, nhưng với con mắt cảnh giác cố hữu, miệng lầm bầm: “Rõ khổ, vợ chồng sông nước”.
Tĩnh ào đến, hai bàn tay nóng bỏng rắn như thép nắm lấy cánh tay chị Nga, xiết mạnh:
- Có sao không? Thằng bé có sao không?
- Cháu đỡ rồi anh ạ. Em đã xin được chút đường hoà với nước cơm cho nó uống.
Đêm ấy, chị Nga của tôi đã bế thằng Hận đi theo anh chàng sơn tràng. Nửa đêm họ đến được nhà ga tàu hoả. Tĩnh trải manh áo mưa ra một góc tối trong nhà ga lờ mờ:
- Hai mẹ con nằm nghỉ đi, để tôi đi “nắm” tình hình.
Chị Nga thấy ái ngại, nhưng vẫn bật cười:
- Anh lúc nào cũng như người lính!
- Bảo sao? Tĩnh đã bắt đầu có những câu thân mật, thỉnh thoảng là những câu trống không.
- Không! Anh cứ đi “nắm tình hình” đi! Em ngồi nghỉ một lúc cũng được.
Và không biết từ lúc nào, chị Nga cũng đã xưng “em” với người xa lạ.
Chị Nga đặt lưng xuống nến đất lạnh, rã rời chân tay. Chị nhắm mắt lại để mặc mọi sự cho cuộc đời. Chị đã đến đây rồi, còn biết làm sao? Điều làm chị yên tâm là tiếng thở đều đều của con trai. Thế rồi chị chìm vào trong cơn mệt mỏi, ngủ thiếp. Độ hơn nửa giờ sau, Tĩnh quay lại. Anh không định đánh thức chị Nga, nhưng chị đã mở mắt:
- Anh về rồi à? “Tình hình” thế nào?
Tĩnh dúi vào tay chị Nga một cái bánh xốp mỏng, nguội ngắt:
- Ăn đi một chút đã. Chắc đói lắm hả?
- Không, em không thấy đói…
- Cố ăn đi… cũng ngon lắm, không đến nỗi…
Chị Nga ngoan ngoãn cắn một miếng bánh rẻ tiền. Quả vị ngọt và hơi bột mì làm chị thấy ấm lên. Tĩnh nhìn người đàn bà xa lạ ăn nhỏ nhẹ từng miếng bánh, bất chợt anh nhận ra vẻ đẹp tiềm ẩn trong chiếc miệng cân đối với hàm răng đều. Dù trong bóng tối lờ mờ anh vẫn nhận thấy những lọn tóc xoà xuống trước vầng trán thanh tú của chị… Thỉnh thoảng chị Nga lại đưa tay sờ sẫm lên thân mình con. Miếng bánh đã hết, chị Nga bần thần vuỗi những mẩu vụn vương trên mép, cười:
- Ngon thật anh ạ…
- Bánh mậu dịch, không phải gia công đâu… Uống nước nhé?
Chị Nga khẽ gật đầu, Tĩnh chạy đi mua một cốc nước đặt vào tay cho chị. Chị bình thản cầm cốc nước uống hết, ngon lành, không khách sáo, mặc dù đó là cốc nước nhạt, có vị tanh của chảo gang.
Tĩnh đưa trả lại cốc nước cho quán, bần thần quay lại. Anh nghĩ rất lâu, không nói, chị Nga nhỏ nhẹ:
- Tình hình thế nào, anh?
Tĩnh hất mái tóc loà xoà, nhìn thẳng vào đôi mắt u buồn của chị Nga:
- Bây giờ… Nga tính thế nào?
Chị Nga bất ngờ đưa tay cuộn lại mái tóc rối, quấn một vòng sau gáy. Mái tóc đã rụng nhiều, nhưng vẫn đủ cuộn lại thành một búi, trông nó như một túm lá kiệu khô. Chị nhìn Tĩnh, bình thản:
- Em cám ơn anh đã đưa mẹ con em đến đây. Em đã tính rồi, mẹ con em sẽ lên tàu đi Phú Thọ.
- Ở đó Nga sã làm gì? Làm gì để sống và nuôi con?
Chị Nga chùng xuống:
- Em chưa biết sẽ làm gì, nhưng em sẽ làm. Làm để sống và nuôi con em như anh nói…
Tĩnh thảng thốt:
- Hai tiếng nữa có tàu ngược Phú Thọ…
Chị Nga quyết định hỏi một câu mà chị đã nghĩ mãi, suốt từ lúc bước khỏi mảng:
- Bây giờ, anh đi đâu?
Tĩnh lắc đầu, buồn bã:
- Tôi cũng chưa định.
Chợt chị Nga thấy ân hận, vì mình mà chàng thanh niên san tràng khoẻ mạnh, can trường phải khó xử. Anh đã dính vào mẹ con chị, để bây giờ đâm khổ. Mới lúc nãy, chị mong anh đến chừng nào, thì bây giờ chị lại mong anh ra đi chừng ấy. Thôi, anh đã tốt với mẹ con em quá rồi, anh hãy đi đi, đi tiếp con đường, công việc, gia đình của anh… Cuộc đời này, gặp được nhau trong chốc lát như thế cũng đủ để cho nhau niềm an ủi, mà mãi mãi, chị tự nhủ, chị sẽ không bao giờ quên anh được. Đi đi, anh… Đứng lên và đừng quên chìa bàn tay cho em nắm… Trong lòng chị giục anh đứng lên, nhưng miệng chị Nga lại hỏi:
- Bác Thuần và các bác cùng đi đâu rồi?
- Họ còn ở lại ngoài bến chờ lấy tiền…
- Anh cũng phải trở lại bến chứ?
Tĩnh vê một điếu thuốc lá cuộn quăn queo cho thẳng lại, châm lửa:
- Không biết đượcbao nhiêu, nhưng cái nghề đi mảng của tôi cũng cực lắm. Tôi tính sau chuyến này sẽ nghỉ.
- Em không biết có nghề nào sướng hơn, nhưng quả nghề sơn tràng nguy hiểm thật. Quê anh có việc gì làm không?
Tĩnh lắc đầu:
- Ruộng ít, làm không đủ ăn nên anh em chúng tôi mới phải theo cái nghề này. Nghỉ rồi cũng chưa biết nên làm gì. Thế… Nga biết làm nghề gì không?
Chị Nga cười:
- Em dạy cấp hai, nhưng nghỉ lâu quá rồi. Với lại đó là nghề làm nhà nước, mình bỏ việc thì cũng coi như đào ngũ. Có khi còn bị kỷ luật… Em cũng biết làm ruộng nữa.
- Nga lên Phú Thọ rồi ở đâu?
- Em cứ lên thị xã, rồi tính.
- Nhưng sao Nga lại quyết định lên Phú Thọ mà không phải nơi khác?
- Hồi nhỏ em nghe bố em kể ông có ở Phú Thọ. Người và đất ở đấy tốt lắm. Hình như ông cũng có một số người bạn còn ở bên ấy từ hồi kháng chiến chống Pháp. Em cứ đi, gặp ai em cũng sẽ hỏi thăm, và nhận em là con gái bố em… Biết đâu có người tốt bụng!… Chị Nga cười hồn nhiên như một đứa trẻ. Tĩnh cũng bật cười, kể từ lúc gặp nhau, lần đầu tiên anh thấy chị Nga cười như thế.
- Bố em tên là gì? Tĩnh chợt loé lên tia hy vọng.
- Bố em tên là Hoan, thầy giáo Hà Đức Hoan… Mà anh hỏi làm gì?
Tĩnh trở nên quyết tâm:
- Bây giờ tôi mua vé để hai mẹ con lên Phú Thọ. Rồi tôi phải quay lại chỗ bác Thuần xem có được đồng nào không?
- Vâ… âng!… Dù đã biết trước và mong muốn để Tĩnh ra đi, nhưng nghe câu nói ấy của anh chị như sụp hẳn xuống. Trong đêm tối, chị nhắm chặt đôi mắt, ngăn giòng nước, giọng nghẹn ngào. Thôi anh cứ đi đi, để mặc mẹ con em…
- Không! Tĩnh rắn rỏi. Tôi có tí việc, phải về quê đưa cho mẹ tôi ít tiền. Mẹ tôi già rồi, các anh chị tôi nghèo lắm, không nuôi nổi mẹ. Thu xếp xong, tôi sẽ ngược Phú Thọ. Tôi không bỏ mẹ con Nga đâu!…
Tĩnh đứng dậy xếp hàng mua vé. Hành khách khá dài, nhưng may nhờ khoẻ mạnh, và có kinh nghiệm, chỉ một lúc sau anh quay lại đưa cho chị Nga tấm vé tàu hoả làm bằng một miếng bìa các- tông màu vàng, bé hơn cả quân bài tam cúc, dày và cứng. Cầm tấm vé định mệnh trong tay, chị Nga nhìn ra bầu trời đen kịt, mây chuyển ầm ầm trên đầu, xen lẫn tiếng sấm xa. Tĩnh cúi xuống dòm sát vào mặt thằng Hận, thì thào:
- Con trai, ngoan nhé. Rồi ta sẽ đi tìm con…
Chị Nga bần thần nhìn mái tóc rậm của Tĩnh phủ xuống cánh tay chị. Bao nhiêu mùi nắng, mùi gió, mùi nước… sông hoà trộn trong hơi thở của chị. Khi Tĩnh ngẩng lên, chị Nga không cầm lòng được. Hai tay chị nắm chặt lấy cánh tay anh, ghì xuống:
- Anh! Anh Tĩnh ơi…
Chị Nga đã yêu!
Trong đêm ngoại ô thanh vắng và oi nồng, chị Nga đã gục xuống thành ghế và khóc với tiếng khóc của hai mươi năm về trước. Tiếng khóc tươi mới và nồng nàn trước mặt thằng em trai bé bỏng, tóc lốm đốm bạc, là tôi. Tiếng nấc lên nghẹn ngào, khiến tôi hình dung ra hình ảnh anh Tĩnh của chị. Một người đàn ông thánh thiện.
- Em ơi, em biết không? Đây là lần đầu tiên và duy nhất trong đời chị yêu. Yêu trong tuyệt vọng, nhưng đúng là tình yêu thật sự trong một đời người. Chị đã khóc như mưa gió, không cần phải che đậy hay xấu hổ. Chị yêu mà cảm thấy mình vơi nhẹ đi trong bao nỗi niềm. Dù biết mình chắc gì đã được anh Tĩnh yêu lại. Nhưng thôi, như thế cũng đã đủ lắm rồi. Bao cơ cực cay đắng tuyệt vọng chị cũng không ngờ chị còn yêu được. Đó là một thứ tình cảm mới lạ, trong suốt… Nó ngọt ngào, ấm áp, nhưng pha vị cay cay, đăng đắng, đầy ma lực, làm chị quên hết những âu lo, nguy nan đang chờ chị trước mặt.
Chị đã khóc như mưa gió trong đôi cánh tay của anh Tĩnh, của người đàn ông hoàn toàn xa lạ mà chị chỉ mới gặp chưa trọn một ngày. Lúc ấy chị cũng không hề nghĩ tới hoàn cảnh của mình, cái hoàn cảnh éo le rất dễ khiến cho Tĩnh nghĩ rằng chị cần anh ấy, lợi dụng anh ấy. Không, chị không hề nghĩ đến việc cần anh ấy che chở cho mẹ con chị, bởi vì chị biết cách sống và quyêt tâm sống. Chị cần anh, cần anh như cần một niềm an ủi, cần một bầu trời, cần một hướng để hy vọng, dù chị có phải vất vả thêm nhiều lần nữa, cơ cực gấp bao nhiêu đi nữa để được sống bên anh, có anh và nuôi anh…
- Anh có biết em đã yêu anh không?
Tĩnh để yên tay chị trong tay anh, chị Nga cảm thấy được những vận chuyển nhẹ nhàng nhưng hối hả của từng giọt máu chạy trong cánh tay rắn chắc ấy. Nó cũn run rẩy, cũng loạn nhịp và bồi hồi… Nhưng Tĩnh đã không nói gì, không nói bất cứ lời nói nào, chỉ thay đổi nhịp bóp mạnh trên bàn tay chị.
Tiếng loa nhà ga ọc ạch, và tiếng tàu hoả nghiến trên đường ray âm âm vọng tới, làm chị trấn tĩnh lại. Chị Nga buông tay anh ra, đúng hơn là gỡ bàn tay mình ra khỏi tay anh, hối hả:
- Thôi, anh đi đi! Tầu vào ga rồi…
Tĩnh tần ngần, đứng dậy, hai tay anh buông thõng như người mất trí, lặng lẽ quay đi. Ba bước chân, anh quay lại móc từ trong tui ra dúi vào tay chị một nắm tiền lẻ. Chị Nga gạt lại:
- Em có đủ rồi. Anh giữ lấy mà lo công việc… Nghe em đi, anh!
Tĩnh cầm lại số tiền bước vào trong bóng tối, khuất sau ánh đèn đỏ đọc của nhà ga…
Chị Nga vội vã thu xếp mọi thứ, đến khi chị ôm thằng Hận lên, thì…
- Ối Trời ơi là trời! Con tôi…
Thằng Hận nóng như hòn than, hai bàn tay và cả thân mình nó co quắp, giật liên hồi. Một bên mép nó bọt xùi ra, trắng xoá…
- Ới… các ông các bà ơi… Con tôi chết mất rồi…