Như tôi đã kể ở phần trên cuốn sách này, tôi và chị Nga, hai chị em chúng tôi xa nhau kể từ buổi sáng chị đi lấy chồng, và tôi lên đường nhập ngũ, đến tận mãi hai mươi bảy năm sau, khi cả hai đã bạc tóc mới gặp lại nhau. Quãng thời gian xa cách ấy, là quãng đời lưu lạc, cho đến khi gặp nhau cũng không phải ở quê nhà. Có biết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu biến cố mà chị dồn nén trong lòng, đem ra kể với đứa em là tôi.
Thì ra cái đêm chị dời Soi Vạt để trôi theo dòng sông Công về xuôi, không phải hai mẹ con chị ngồi trên cái mảng nứa, lềnh bềnh theo dòng lũ xiết như người ta đồn thổi lên. Chị kể với tôi rằng, Soi Vạt không phải là nơi trú ngụ suốt đời chị và thằng Hận con chị, và ngay cả cái làng Sơn Cốt của chúng tôi cũng không thể dung thứ chị. Phải ra đi, chị nhất quyết đã nghĩ như vậy. Nhưng đi bằng cách nào? Và sẽ sống ra sao?
Ở đây, suốt một thời gian dài, thằng Hợi, đứa trẻ chăn trâu cho hợp tác là sợi dây nối chị với bên ngoài, là kẻ tiếp tế gạo, muối, dầu đốt... cho hai mẹ con chị. Chị thương nó, giá như nó là con chị, thì chị cũng chỉ thương nó đến thế mà thôi. Khi quyết định ra đi, chị thoáng nghĩ hay là đem nó cùng đi. Đất trời, non nước này, với những gì chị biết được từ những bài địa lý mà chị đã dạy cho lớp học trò của chị sẽ dẫn bước chị đi. Còn thằng Hợi, thằng bé mục đồng đen nhẻm, côi cút nhưng khá thông minh, sớm láu cá sẽ phải để cho nó ở lại để nó gắn bó với cái làng nhỏ bé, đìu hiu của nó. Nó còn mẹ, còn các em, còn là nơi đi về của hương hồn cha nó. Chỉ có chị là phải ra đi.
Chị nghĩ thế, và chị cũng đã toan tính làm một cái bè bằng tre, ghép lại. Chị cũng định sẽ đặt thằng Hận nằm trên đó, chị sẽ một tay chèo chống, xuống hết quãng thác này, vực nọ, cho đến khi nào ra tới dòng sông Cái.
Thế rồi mùa nước lớn đã đến, cái mùa nguy hiểm của dòng sông, nhưng lại là một mùa xuôi bè thuận tiện nhất, vì lòng sông nở ra, dềnh lên mênh mông hơn. Nhìn con nước lũ ào ạt chảy, cuốn theo cơ man nào cây củi, cành khô, quấn quýt vào những bụi tre hai bên bờ rã rợi ngọn lá, chị thấy sợ hãi. Lòng can đảm được ấp ủ suốt một mùa đông giá, khô cằn, cạn hẹp bây giờ bỗng nhiên tan biến.
Nhưng nhất quyết phải ra đi!
Chị ngồi đếm lại số tiền nhỏ nhoi mà chị đang có bằng những đồng tiền lẻ. Chị vuốt lại cho chúng thẳng thớm, sạch sẽ, gói chúng vào một miếng vải mưa cũ kỹ. Xong xuôi, chị ngồi nhìn thằng Hận đang lồm cồm bò trên manh chiếu rách, rồi chị nhìn vào hai bàn tay mình, trống trơn. Bất giác chị nghĩ đến tôi, chị kể thế. Chị nhớ đến cái đêm trăng non trên đồi Chùa Phung mà chị đã nhìn vào bàn tay tôi mà dự báo, phỏng đoán cho cuộc đời tôi.
- Ngày ấy chị đã dự báo cho em rằng em của chị sẽ có một cuộc đời phiêu lưu phong phú. Thế mà khi ngồi nhìn hai bàn tay thô tháp đã bắt đầu nhăn lại của mình, mà chị không tài nào dự báo cho mình con đường trước mặt. Em hỏi chị có tuyệt vọng không ư? Không, chị không hề tuyệt vọng, nhưng cũng không thể hy vọng được. Chị chỉ nung nấu một ý chí băng qua, vượt lên chính cuộc đời mình... Dù có ra sao cũng được, dù có đi đến đâu cũng thế!
Một hôm, như lệ thường, thằng Hợi về xóm, chị bồng thằng Hận ngồi nhìn dòng lũ, thì bỗng có một cái mảng dài, trên đó lô nhô những tay thợ sơn tràng, đang trôi xuôi, chầm chậm, thế rồi nó quay ngoắt, ghé vào Soi Vạt. Người ngồi đầu, dáng như người chỉ huy mảng vít một nhánh tre ghì sát cái mảng dài như con thuồng luồng vào bờ đất, nhóng cổ gọi lên:
- Nhà chị có còn gạo không, để cho anh em tôi một bữa?
Chị Nga hơi bị bất ngờ:
- Các bác hỏi đong gạo?
- Vâng! Nhưng mà không cần nhiều đâu. Anh em tôi vừa hết gạo ăn, cần bữa tối nay thôi, sáng mai ra đến sông Cái thì lại có chỗ mua rồi...
Chị Nga ngần ngại một chút rồi, bỗng loé lên ý nghĩ táo tợn:
- Mời các bác lên đây một chốc. Em có gạo đấy, nhưng sợ không đủ để các bác nấu bữa tối.
Người thợ rừng nhảy phắt lên bờ:
- Độ hai đấu là đủ thôi mà!
- Thế thì may ra...
Chị chui vào trong lều, đem ra cái vại nhỏ sứt mẻ, đựng lưng lưng gạo ra, xoay xoay:
- Chỗ này cũng đến hai đấu, bác cầm lấy mà nấu. Hay là... sẵn có củi lửa đây, các bác lên nghỉ tạm, cơm nước xong thì xuôi! Chứ dọc bờ nước cả thế neo vào đâu?
Nghĩ ngợi một thoáng, bác san tràng gọi vóng xuống:
- Anh em ơi! Có gạo rồi! Lên đây thổi cơm ăn xong ta đi tiếp! Đoạn bác ta quay lại. Chị có cái xoong nào nấu đủ cho năm anh em tôi ăn, thì cho mượn. Mà cánh san tràng chúng tôi ăn khoẻ lắm đấy!
Chị Nga lúng túng:
- Nhà em chỉ có hai mẹ con, không có nồi to, chán thật.
- Thế thì thôi, không sao! Bác thợ nói với xuống mảng. Thằng Tĩnh cởi cái xoong to vẫn nấu cơm đem lên đây...
Thế là trong chốc lát, “nhà” chị Nga bỗng rậm rịch khách khứa, lao xao tiếng người. Chưa bao giờ, và cũng chẳng bao giờ chị lại có thể hình dung ra cái cảnh này. Hình như cũng đoán ra hoàn cảnh éo le của chị, bác trưởng toán thợ rừng hết nhìn chị, nhìn thằng Hận rồi lại nhìn túp lều tùm hum, lè tè của chị ý chừng muốn hỏi một câu gì đó. Còn chị Nga thì lặng lẽ nhiệt thành giành lấy cái xoong từ tay người thanh niên tên Tĩnh vo gạo bắc lên bếp. Nếu bác trưởng tốp giữ ý không hỏi thì anh chàng Tĩnh xốc nổi hỏi ngay:
- Chị ở đây có một mình thôi à?
- Vâng! Có hai mẹ con tôi và thằng cháu. Nó về xóm...
- Xa làng, xa xóm thế này, ngỻ Cong Môi. Một lân dại dột thế nào đó, Phúc đã tặng cho một ông bạn khác của chúng tôi vốn là nhạc công thổi kèn của công an Hà Nội, bị thải hồi, một khẩu súng CKC đã chế tác lại theo ý Phúc, để ông bạn thổi kèn này bắn nát đến tận đùi một bên chân ông anh họ tôi là một giáo viên cấp hai, trong một vụ tranh chấp một tí đất rộng chừng một đường cày. Suýt gây ra án mạng, nhưng ông anh họ giáo viên của tôi chỉ bị tháo khớp đến háng, còn ông bạn cựu nhạc công đi tù. Phúc Trều ra sao, tôi không biết! Nhưng làng tôi cũng chưa có kẻ biết giết người!
Nếu là buổi sáng, trong ánh bình minh mờ đục, bạn sẽ gặp cụ Đồ Nham. Cụ Đồ cao to, vạm vỡ, theo đúng chân dung được mô tả "vai u, thịt bắp, mồ hôi dầu", đang vác một cái cày chìa vôi, mà bắp cày rất lớn, "phi" đến mười lăm xăng-ti-mét, làm bằng tre đực, kiêm luôn đòn gánh của cụ, giong một con nghé bé tí tẹo, chắc là mới vực. Trong khi đôi mắt kèm nhèm của cụ cúi xuống để tránh những vũng nước và những bãi phân trâu, thì con nghé con cứ hếch mũi lên mà ngửi trời, có thể cô ả đang tung tăng sung sướng vì lần đầu tiên được chính thức tham gia vào việc kéo cày, đem công điểm về cho chủ là cụ Đồ Nham. Cụ Đồ là người quê gốc ở Hà Đông, bằng chứng là tôi đã được nói chuyện với anh cháu gọi cụ bằng chú từ Hà Đông lên chơi với cụ. Anh ta tên là Da. Cụ là công nhân mỏ sắt Lăng Hít, rồi sau loạn lạc cụ đến ở nhờ làng tôi, cụ thể là trên mảnh đất nhà tôi, nguyên là cái vườn hoa cảnh của chủ đồn điền Sơn Cốt, tên là Đùi Gà (có lẽ là Dugas, nói chệch ra), để rồi lấy một bà vợ khét tiếng là chửi hay nhất làng. Mùi mồ hôi dầu của cụ đồ Nham danh tiếng đến nỗi, trong bất kỳ cuộc họp xã viên trong phạm vi đội sản xuất hay đại hội toàn thể, sự có mặt của cụ được người ta biết ngay. Thậm chí cách nửa cây số, người ta vẫn biết, nếu đứng xuôi chiều gió thì điều này càng được khẳng định.
Câu chuyện cụ Đồ Nham cưới vợ tôi biết, dù lúc đó tôi mới được sáu tháng tuổi. Khi cụ Đồ đến ở nhờ nhà tôi thì đã có một người khác ở nhờ, đó là ông Dư, người cùng làng tôi, nhưng gia đình tứ tán, không còn cha mẹ, hơn nữa ông Dư lại mắc bệnh động kinh. Bố tôi bằng lòng cho ông Dư và sau đó là ông Nham ở nhờ những ngày đầu vào một cái chái, dù rằng là tôi rất nhỏ. Thường thì ông Dư hay ngủ ngoài đống rơm. Người mà cụ Đồ lấy làm vợ đã có một đời chồng, mang tên chồng cũ, chứ tên thật của bà rất ít người biết. Khi có chồng bà mang tên chồng là bà Nham. Bà này có họ với bà nội tôi, nên chúng tôi gọi bằng bá, còn chồng bà lại gọi là ông. Chính vì lẽ đó mà sau này, vợ chồng cụ Đồ Nham không ở nhờ nhà tôi nữa, ông Dư bị chết sau một cơn co giật, vào một buổi trưa mùng một tết, bà bá của chúng tôi đã đứng trước cổng chĩa vào nhà tôi chửi suốt một buổi chiều, mà mãi sau này tôi mới hiểu bà chử "cái đứa đã lợi dụng chứa chấp em tao, lấy hết của cải của nó để chôn người sống, đống người chết". Lúc đó tôi và em tôi, theo lời chỉ dẫn của cụ Đồ, đứng ra bờ rào bắt nhại tiếng chửi của bà bá thân yêu, khiến bà chửi càng mãnh liệt hơn, đến phải đưa vào nhà hô hấp.
-Đ. mẹ con cái Rựng (Rựng là tên thật của bà bá chúng tôi), thằng Dư nhà mày thì trên răng dưới dái có cái đéo gì mà người ta lấy. Ăn nhờ hết bát lành, bát mẻ, ăn cả giải giút nhà người ta còn chết đói kia kìa. Có cặc tiền bạc đấy mà lấy! Đó là những lời lầm bầm rất nhỏ, có khi nghe như lời tâm sự của cụ Đồ Nham chửi vợ.
Bác Dư, chúng tôi vẫn gọi thế cho đến khi ông chết, là người tài giỏi trong nghề rừng. Suýt nữa thì bác Dư cũng thành một người anh hùng kiểu Tinh Tinh, nhưng tâm thần bác khá hơn, chỉ bị lên cơn co giật khi cần thiết. Có khi vài ba năm, không thấy cơn bệnh phát ra. Tôi ở với bác đã từng được bác cho ăn thịt ngựa, thịt hùm... có khi ăn sống, hoặc rửa bằng nước vo gạo, xào sơ, rất ngon lành. Năm mươi năm sau, mẹ tôi còn thấy khiếp khi nhắc lại chuyện con trai bà ăn thịt hùm sống.
Nếu vào buổi chiều tà, mặt trời tụt xuống sau dãy núi Tam Đảo, nhuốm màu đỏ quạch xuống các rặng tre, thì rất có thể gặp được giáo sư Thanh! Giáo sư là con người thấp lùn, lại xương xẩu, hom hem... rất có dáng của một người ăn mày. Dáng đi của ông như bay, chân không chạm đất như những cảnh chiếu chậm trong phim quảng cáo. Đầu cúi xuống đầy vẻ suy tư, hai tay cậu ôm lấy cái gì đó dưới bụng, có khi là bơ gạo, bọc sắn luộc, vài quả đậu đũa, mà cũng có khi chẳng có gì, giáo sư vẫn giữ chặt chẽ, cẩn thận. Và giáo sư Thanh vừa đi vừa máy mồm, như đang nhẩm một công thức, một phương trình hay một luận đề phức tạp, rất nhỏ. Nhưng chính tai tôi đã nghe thấy ông chửi, chửi ông anh rể tàn bạo đẻ toàn con gái, được mỗi một mụn con trai thì lại lác mắt, ông chửi con gà lao vào chân ông, ông chửi cái thằng đã giành mất của ông cái đầu gà lở toe toét, nham nhở từ năm bốn-nhăm, ông chửi cái mô đất suýt làm cậu ngã, vấp cái ngón chân trỏ đã bị mù vào, đau quá, đâu quá... Tuy nhiên, tôi chưa thấy ông chửi tôi, hay bất kỳ một người nào trong gia đình chúng tôi, dòng họ chúng tôi.
Khác với dân làng Sơn Cốt, anh em chúng tôi gọi giáo sư Thanh là "cậu giáo", sở dĩ chúng tôi gọi bằng cậu, có lẽ vì ông ngoại tôi với bố cậu Thanh cũng là dân ngụ cư đến sau, không có ruộng, ông tôi làm thợ bạc, còn ông già giáo sư là người làm mướn, hay đến trú rét nhờ cáo bễ thợ bạc phì phò của ông. Giáo sư chỉ co một người chị gái và cậu gọi mẹ tôi là chị. Khi hoà bình, cậu cũng là xã viên, cũng lấy vợ, cũng ly dị về nhà ở nhờ nhà chị gái. Một sự không ăn ý nào đó, cậu đi lang thang trong làng, và cuối cùng, lại đến ở nhờ trong nhà tôi.
Cậu giáo là người đã từng đi ăn mày có thâm niên. Cậu đã kể cho chúng tôi nghe những chuyện mà cậu đã trải qua, đã nghe được trong những năm đi ăn mày. Đàn ông thế nào, đàn bà ra sao, cán bộ, bộ đội, mụ hàng cơm, bà hàng xén, tất tần tật cái gì cậu cũng có thể kể ra vanh vách, lại có phần khúc chiết, đoan trang. Tôi vô cùng khâm phục vốn sống của cậu, thậm chí phát thèm lên vì những mảnh bánh mỏng dính nằm trong kẽ lá gói bánh, cái vị thơm nồng, béo của khúc xương đầu gối đùi gà luộc đã trải qua một đêm trong sọt rác, cái giấc ngủ mê mòng trên manh chiếu rách vỉa hè ngậy mùi nước đái...
Xin lỗi bạn đọc, tôi đã đùa! Không, không phải tôi, mà chính là dân làng Sơn Cốt chúng tôi đã đùa, khi dùng hai danh hiệu đáng kính là Cụ Đồ và Giáo Sư để gọi hai con người khốn khổ không biết chữ là ông Nham và ông Thanh! Không biết xuất phát từ đâu, từ ai đã phong hai cái danh hiệu đó? Tôi nghi ngờ bố tôi, ông có nỗi buồn, có nỗi thất vọng mà chỉ sau khi bố tôi chết, tôi lớn lên và già đi tôi mới phần nào hiểu được, nhưng lúc nào bố tôi cũng vui vẻ. Sự rộng lòng và vẻ hài hước của ông đã được mọi người, mà nếu không phải tất cả thì cũng là cụ Nham, ông Thanh, bác Dư... thừa nhận!
Nhưng gia đình chúng tôi còn cưu mang một gia đình nhỏ nữa, một thầy giáo dạy vỡ lòng thôi, không phải ông đồ hay giáo sư, và cô con gái bé bỏng của ông. Đó là thầy giáo Hoan và con gái của thầy, chị Nga.
Thầy Hoan, trong cuộc đời tôi, thầy là một người thầy theo đúng nghĩa nhất, vừa cụ thể nghĩa đen, đồng thời lại vừa trừu tượng theo cả nghĩa bóng, mặc dù thầy chỉ dạy tôi lớp vỡ lòng, cái lớp làm quen với chữ cái, chữ i, chữ tờ, tập đánh vần và những câu chuyện cổ tích huyền bí. Hồi bé, tôi là một đứa trẻ nhát học. Những ngày đầu đến trường của tôi, không biết bao nhiêu là nước mắt đã chảy, mỗi khi nghe tiếng kẻng gọi học trò. Tiếng kẻng phát ra từ một quả bom lép treo ở nhà ông cụ Khuê, ngân nga, réo rắt một hồi sáu tiếng làm tôi hoảng sợ. Sợ học. Sợ đi học cùng với những tay học trò lớn lồng ngồng, ngổ ngáo tôi dễ bị bắt nạt, mà từ đó biến thành sợ cái tiếng "keng... keng" của quả bom.
Trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt, tôi đồ rằng từ "kẻng" là một danh từ hoàn toàn mới, nó chỉ xuất hiện sau những loạt bom của đế quốc Pháp thả xuống cánh đồng, làng mạc, rừng núi Việt Nam. Đáng lẽ nó phải nổ tung để tàn phá cầu cống, nhà cửa, kho tàng, trường học, hầm hố và phanh thây xé xác con người thì lại bất ngờ có một vài quả lép. Cái quả lép ấy, được các chiến sĩ du kích quân Việt Minh tháo ngòi nổ, lấy thuốc ra dùng vào nhiều việc, trong đó có cả việc đánh lại người Pháp, thì cái vỏ của nó được dùng làm cái thứ để gõ, phát ra tiếng để báo hiệu, thông tin. Rất có thể cái âm "keng, keng" của nó mà có có tên là kẻng! Trước đó, người Việt Nam chúng ta chỉ có tiếng mõ "cốc cốc", tiếng trống "tùng tùng", và sau này người ta dùng nhiều vật phát ra tiếng khác nữa như vành (tang trống) bánh ô tô, thanh tà vẹt... nó chỉ phát ra những âm thanh ồm ồm, rè rè, buồn bã...
Cái kẻng treo ở cây mít trước cửa nhà ông cụ Khuê là một quả bom cỡ năm mươi cân, nó tròn và thuôn đẹp như một con lơn thoai, bóng nhẫy, mập mạp. Cùng với hình dáng của nó, âm thanh nó phát ra trở thành thân thuộc, đáng yêu đến nỗi không ai nghĩ nó vốn là một tên giết người dã man.
Thầy Hoan cũng dữ đòn như nhiều thấy giáo làng thời bấy giờ. Thầy có một cái roi làm bằng cành dâu, trắng phau dài độ hơn sải tay, lúc nào cũng giắt sẵn trên mái gianh để thị uy đám đệ tử mũi giãi của mình. Mỗi bài học vỡ lòng dạy chúng tôi bao giờ cũng ngắn ngủi, giản đơn và cuối mỗi buổi học, bao giờ cũng là một câu chuyện cổ tích vừa hấp dẫn, vừa ghê rợn, đầy tính răn dạy. Hình ảnh thầy Hoan đứng trước ô cửa đầy ánh nắng giả đò theo động tác của cậu Bé Tròn hái quả cho cha mẹ ăn một cách khó nhọc, cứ in mãi, lắng mãi vào trái tim non nớt của tôi...
Năm 1975, từ chiến trường trở về, tôi đến thăm thầy. Năm ấy tuy đã ngoài sáu mươi, nhưng thầy hãy còn quắc thước và đĩnh đạc lắm. Thầy sống một mình với câu chuyện buồn về người con gái duy nhất của thầy. Ngoài con chó già và một bẫu vườn chỉ có hai loài cây đơn mặt trời và ngải cứu, thầy không còn ai làm bầu bạn.
Tôi nhìn quanh ngôi nhà lợp lá cọ dặm thêm lá mía, vách đất mà mưa đã bào mòn trơ ra những thanh nứa cắm vách ngả màu bạc. Bờ vách ấy, đối với tôi chứa đầy kỉ niệm mà giờ đây, cả tôi, cả thầy Hoan đều im lặng dằn nó xuống một khoảng sâu thẳm trong đáy lòng. Sợi dây thép chăng từ một dảnh kèo nối với cây xoan đào từ lâu quá rồi, khiến cây xoan thắt một cái ngấn sâu vào tận thớ gỗ, vẫn còn đó. Tôi lặng đứng và hình dung nhớ lại trên sợi dây ấy phất phới bay một tà áo sơ mi thiếu nữ màu xanh trứng sáo tỏa ra cái mùi xà phòng nằng nặng khi chưa bén hơi người. Tấm áo ấy giờ chắc đã rách và thiếu nữ, người chủ của nó giờ đây đang lưu lạc nơi đâu? Tôi vịn tay lên thân cây xoan đào, muốn khóc quá! Nhưng thầy Hoan đã cầm con dao cùn, dụng cụ làm vườn của thầy đến sau lưng tôi:
-Bây giờ hết đánh nhau, hòa bình rồi, anh định làm gì? Thầy Hoan hỏi tôi một câu hỏi mà chính tôi cũng đang muốn hỏi thầy, và cũng là câu hỏi mà thấy mình hãy còn sống sót sau cuộc chiến tranh, tôi đã không nguôi tự hỏi mình.
Tôi làm gì ư? Quả thực trong lúc đánh nhau với quân thù, tôi và các đồng chí của mình chẳng bao giờ có thời gian, hay một khoảng trống tương tự trong lòng để đặt ra câu hỏi: hết chiến tranh anh sẽ làm gì? Câu hỏi chúng ta sẽ làm gì thì có, và có hẳn một câu trả lời tuyệt đẹp. Thế nhưng đối với mỗi con người, mỗi anh lính cụ thể thì lại không có câu trả lời cụ thể. Tôi nói điều này hẳn nhiên có người chê trách, tôi không cãi. Nhưng, một thế hệ như chúng tôi lúc bấy giờ dễ nhận ra lắm, nó chói sáng, nó lừng lững và cả nó công thần nữa. Nhưng từng cá nhân cụ thể và nhỏ nhoi, rất khó nhận ra. Anh lính chiến thắng thì có, nhưng còn anh A, anh Z, anh Bình, anh Lạc... thì khó tìm lắm, khó thấy lắm, họ đã chìm nghỉm vào trong rừng vinh quang.
Vậy là tôi sẽ làm gì sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn là câu hỏi thường trực. Tôi đem đến hỏi người thầy thuở còn mũi giãi của mình, vì tôi tin thầy sẽ có câu trả lời đúng. Câu trả lời ấy thầy Hoan sẽ lấy ra từ những câu chuyện cổ tích, mà bao giờ nó cũng có hậu.
Quay về nghề cũ! Đó là những người có nghề, có cơ quan, có xí nghiệp. Quay về trường cũ! Là những sinh viên, học sinh đang học dở dang. Quay về cố hương, nơi chôn rau cắt rốn! Hãy nối nghiệp ông cha từ các đời Vua Hùng truyền lại, mà nhiều người trong số chúng tôi nghĩa là "theo đít con trâu", "một mái nhà tranh, một bà vợ - hoặc là lắm điều, hoặc là không nói gì - và một lũ con quanh năm đói khát, thò lò mũi xanh".
Tôi đi bộ đội trong khi đang học dở dang năm thứ ba trường trung cấp sư phạm. Nếu không có chiến tranh, nếu không phải vào quân đội thì tôi đã là một anh giáo làng dạy cấp hai, mà có ít ai ngờ được là dân "trí thức xã", cày ruộng, gieo mạ, phát bờ... còn tinh thông hơn cả cầm phấn viết bảng. Như vậy là, nếu muốn, tôi sẽ quay về trường cũ, học nốt nửa năm để tiếp tục sự nghiệp "trí thức nửa mùa" của mình. Nhưng..., ở đời này tôi thấy con người ta toàn gặp phải những cái "nhưng" oái oăm, oái oăm thôi, còn hay dở thì chưa biết, có nhiều cái nhưng may mắn kia mà. Nhưng, khi tôi trở về trường cũ thì không còn cái hệ "bảy công ba", là cái hệ mà tôi đã học. Trường đã thành trường cao đẳng, hệ trung cấp đã chấm dứt. Lúc này tôi mới hiểu ra rằng: thầy Hoan của tôi chưa từng qua một trường đào tạo nào, không trung cấp và cũng không sơ cấp sư phạm nào cả, những bài học của thầy dạy cho chúng tôi chỉ là một chút chữ nghĩa i tờ và tấm lòng mà thôi. Những con ma, những thằng quỷ và cả những ông Bụt, ông vua... trong câu chuyện cổ chan chứa tình người, là do thầy nhặt nhạnh trong cuộc đời, được rây lọc qua bao nỗi buồn vui, cay đắng. Người ta có thể trở nên người tài nhờ những bài toán đạo hàm, toán cao cấp và vật lý lượng tử, nhưng khó mà nên người khi thiếu đi những Bé Tròn và cả những thằng Cuội suốt đời nói dối ngồi gốc cây đa.
-Đồng chí về trường sẽ nhận công tác là cán bộ chuyên trách Đoàn trường. Thầy Ninh dạy sử tôi năm thứ ba, giờ là trưởng phòng giáo vụ nói với tôi như thế.
-Thưa thầy, em muốn được dạy học...
Dĩ nhiên là thầy Ninh và cả nhà trường khó có thể đáp ứng nguyện vọng của tôi, dù lúc ấy tôi đang là một công thần, có Huân chương trên ngực áo quân phục.
Tôi không kể cho thầy Hoan nghe câu chuyện trên, mà chỉ nói:
-Thưa thầy, cháu sẽ... về quê!
-Làm gì?
Tôi im lặng, bởi vì vừa không muốn trả lời thầy, vừa không thể trả lời được. Thầy tiếp:
-Làm ruộng thì anh có làm được không? Một thứ lao động truyền đời, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất. Không, tôi không nói đến cái gian khổ, gian khổ đối với anh chắc không thiếu. Tôi nói đến cái sự tù túng, quẫn bách của thói nhà nông hãnh tiến. Làng này anh thấy chứ? Giàu có như ông Sử Quốc cũng có bao giờ dám bỏ ra năm đồng để mua một đôi pin không hay là lại phải chạy vạy, chầu trực để được phân phối. Chuyện cũng nực cười, thấy tôi bỏ ra năm đồng mua đôi pin Con Thỏ của bà hàng xén, ông ấy nhìn tôi kinh ngạc: Ông giáo mà cũng phải mua ở đây à? Tôi hỏi lại: Thế mua ở đâu? Mậu dịch không bán cho tôi vì tôi không có phiếu đài cán bộ, muốn soi con gà con qué, con rắn con rết... thì phải ra đây mới có. Ông ta lặng im và rồi chỉ nửa ngày sau cả cái làng này biết tôi "dám" bỏ ra năm đồng để mua đôi pin Con Thỏ!
Tôi cười hơi có cái vẻ hiểu đời, nhưng không phải là vô lễ với thầy Hoan:
-Năm đồng là to lắm rồi, thưa thầy!
Bất ngờ thầy đổi giọng:
-Hay là đi buôn? Quê ta cũng có nghề đi buôn đấy! Nhưng muốn đi buôn phải có hai điều kiện, mà ở anh tôi nghĩ không có...
Tôi chăm chú chờ đợi thầy Hoan giải thích tiếp, nhưng thầy chỉ im lặng. Tôi đành vô phép hỏi với giọng sốt ruột:
-Thưa thầy, hai điều kiện đó là gì ạ?
-Một là phải học dốt. Hai là phải biết nói tục! Thầy nói một cách nghiêm túc. Nói tục thì có thể rèn mãi cũng thành. Chứ còn học dốt thì khó đấy... Khó không kém gì học giỏi đâu!
Trong cuộc đời ngắn ngủi của con người ta, tôi nghiệm ra rằng có những điều mà mình chỉ nghe một lần thôi, để rồi không tin không được, nhưng tin thì lại không biết vì sao mình tin, không hề có cơ sở khoa học, nó y hệt như một tôn giáo mầu nhiệm. Cái điều thầy Hoan nói với tôi hôm ấy, tôi cũng láng máng tin là đúng bởi những trải nghiệm của mình, nhưng rồi hơn mười năm sau khi vào học Khoa thương mại, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh tôi mới tin là thật. Vị giáo sư - tiến sĩ giảng bài marketing đưa ra cho chúng tôi một công trình trắc nghiệm của người Mỹ, xem anh có phải là nhà kinh doanh giỏi không, bằng một loạt các câu hỏi trắc nghiệm, trong đó có câu: "Khi còn đi học ở bậc phổ thông, anh học có xuất sắc không?". Nếu trả lời vào ô "có" anh được ba điểm; còn ô "không" anh được tám điểm!
Tôi không hiểu sức học của mình tới tầm cỡ nào, nhưng thường thì tôi không có điều kiện học bài ở nhà, mà chủ yếu tiếp thu trên lớp. Nhưng may mắn thế nào đó mà tôi vượt qua được tất cả các kỳ thi, để rồi được tuyển vào đội học sinh giỏi của tỉnh đi thi toàn miền Bắc (lúc ấy gọi thế vì chưa thống nhất đất nước). Đến đây thì tôi không vượt qua được, nhưng như thế thì cũng là vinh quang lắm rồi. Vinh quang cho làng tôi, cho trường tôi và họ hàng tôi. Chú tôi bảo: thằng này có thể học được tới tiến sĩ! Nhưng... (lại nhưng), cái ngày mà bọn bạn tôi lên huyện nộp đơn xin vào học cấp Ba, thì chúng gặp tôi trên đường gánh phân ra đồng!


ĐOẠN 6

Nắng gay gắt! Nắng tháng Tám héo quăn héo quắt lá sắn, bưởi trong vượn rụng bình bịch suốt đêm. Ban ngày, tầm quá trưa nước trên cánh đồng Lưu Lạc như sôi lên, sủi tăm, những con cua con, những con cá cờ đuôi tím ngắt... nhao vào bờ leo lên gốc rạ tìm nơi tránh nắng. Một buổi chiều, đúng vào ngày thằng con đầy tháng chị Nga đội nón bồng con ra xã làm giấy khai sinh. Tôi không muốn thuật lại cái chuyện đầy sóng gió này vì có nhiều người đã viết về sự "thẳng như nòng súng, rắn như hòn đạn" của Ủy ban hành chính hồi đó rồi. Nhưng nhờ vào tấm lòng từ tâm, đầy giông bão và đau khổ của bà chủ tịch xã, mà cũng có lẽ là do tiếng khóc đanh thép và dai dẳng của thằng bé, đích thân chủ tịch xã đã viết và ký giấy khai sinh cho nó. Nó mang họ Trần, họ của anh Kỳ, tên nó được chị Nga đặt là Hận, Trần Hận! Xong xuôi cái thủ tục này, chị bế thẳng con về nhà ông Tuân.
Nhìn theo cái dáng lầm lũi, nhẫn nhục của người đàn bà trẻ đang bế đứa con rẽ vào ngõ khuất, bà chủ tịch bỗng cảm thấy lòng mình chạnh đau như muối xát. Bà cầm con dấu Ủy ban hành chính hình chữ nhật lên ngắm nghía: nó cũ kỹ và trầy sứt, loang nhoang màu mực, màu nhọ đèn, thật thảm hại, nhưng nó lại có uy lực rất lớn. Nó có thể cứu một con người ra khỏi tai ương, nhưng nó cũng có thể đẩy một con người vào vòng lao lý. Và kèm theo với cái dấu ấy là chữ ký, của bà hay của một người nào đó, của bà chẳng hạn, là chính quyền, là công lý, là lợi ích... Bà chủ tịch xã chúng tôi, bỏ con dấu cùng với những thứ giấy tờ linh tinh vào cái túi xách màu đen, dắt xe ra cổng ủy ban. Bà lựa một quãng đường phẳng, nhảy lên pê-đan chiếc xe đạp nữ màu xanh phòng không. Bà cứ đạp... và không sao dứt ra khỏi hình ảnh thằng bé con cô giáo Nga, nó đỏ hon hỏn như con chó con chưa mở mắt, quờ quạng tìm vú mẹ. Tên nó là gì nhỉ? Hận, Trần Hận! Sao cô ấy lại đặt tên cho con mình như thế nhỉ? Hận gì? Ân hận hay thù hận? Bà nhìn lên bầu trời chiều nắng đã tàn, nhưng nóng oi hầm hập, tím bầm, một hai con cò trắng bay lạc lõng phía cánh đông Lưu Lạc. Rồi thế nào người ta cũng nghi ngờ và chất vấn bà rằng: vì sao mà bà chủ tịch lại chấp thuận một cách dễ dàng lời khai của chị Nga đến thế. Bà hỏi:
-Cô đặt tên cho cháu là gì?
Chị Nga đáp:
-Thưa chị, em đặt cho cháu tên là Hận ạ!
Bà chủ tịch hơi cau trán, nhưng những giọt mồ hôi li ti đã nhòe đi theo những nếp nhăn giãn ra, bà lại ôn tồn hỏi:
-Tên mẹ là Nga! Họ của cô là gì nhỉ? Như tự trách mình, bà nói thêm. Chị em với nhau mà tôi không biết họ của cô. Tôi cũng là học trò của thầy Hoan!
-Dạ, em là Hoàng Thị Nga!
Bà chủ tịch lại hí húi viết. Còn một câu hỏi bà muốn hỏi, câu hỏi cuối cùng nhưng lại rất quan trọng, nên bà cảm thấy rất khó. Thằng bé bỗng khóc ré lên, chị Nga vỗ vào lưng nó, đung đưa hai cánh tay, ru con. Bà chủ tịch cắn quản bút, nghĩ ngợi. Chị Nga nhìn thấy trên mặt bà hằn rõ sự căng thẳng từ khóe môi. Bà thở mạnh một hơi, chùng người xuống, rồi nhìn thẳng vào mắt người công dân đầy vẻ lo âu, căng thẳng, đang ngồi trước mặt mình:
-Họ của cháu cũng là họ Hoàng chứ?
Chị Nga hiểu nỗi băn khoăn của bà chủ tịch và chị nhìn bà với cái nhìn đầy biết ơn:
-Không, chị ạ! Họ của cháu là họ Trần!
Bà chủ tịch thở nhẹ, cúi xuống định viết, lại ngẩng lên:
-Trần Tuấn? Bố cháu là...?
Chị Nga dù rất cảm phục và biết ơn bà chủ tịch, nhưng chị vẫn thấy cần phải bày tỏ sự khẳng khái, thậm chí còn đầy khiêu khích của mình.Chị khẽ lắc đầu, như muốn hất mấy sợi tóc mai vương trên trán, chảy lòa xòa xuống mặc dù nó đã bết mồ hôi, rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt bà chủ tịch:
-Họ tên đầy đủ của cháu là Trần Hận, con của Trần Tuấn Kỳ!
Bà chủ tịch không hỏi gì thêm, bà viết hết những chỗ trống cần thiết cho một tờ giấy khai sinh, rồi ký tên, đóng dấu. Bà nhìn tờ giấy dang màu nâu đất, chao qua chao lại chờ mực khô, rồi đưa cho chị Nga:
-Của cô đây! Rồi bà cười, nhìn thằng Hận (từ giờ phút này tên nó là Trần Hận). Xem thằng Cún cái nào... Cháu ngoan chứ? Cô có đủ sữa cho cháu bú chứ? Bà là người tế nhị thật, chỉ hỏi với những câu "tích cực". (Đáng lẽ bà có thể hỏi: Cháu ngoan không? Có đủ sữa không?).
Chị Nga cầm tờ giấy khai sinh quạt cho con:
-Dạ cháu cũng ngoan... Cám ơn chị... Cháu còn non bấy, chưa ăn bao nhiêu nên em cũng đủ sữa!
Tất cả mọi chuyện xảy ra nhanh chóng như vậy đấy. Nhờ Trời! Cũng may cho chị Nga, nếu không gặp trực tiếp bà chủ tịch, mà là ông ủy viên ủy ban phụ trách hộ tịch có lẽ chị chưa biết sẽ phải nói năng, trình bày như thế nào?
Vừa đạp xe, bà chủ tịch xã bỗng bật cười. Bố thằng Hận là Trần Tuấn Kỳ? Anh chàng Kỳ đi bộ đội ba năm thì hy sinh, từ hôm báo tử đến nay cũng đã hai năm! Có họa thằng bé con là ông Thánh Gióng! Nhưng bà mẹ Thánh cũng chỉ mang thai đến ba năm, đằng này...
Để hiểu tấm lòng vị tha, cao thượng của bà chủ tịch, tôi xin thuật lại câu chuyện sau đây mà mãi về sau tôi mới được nghe kể lại. Tên bà là Nghĩa, theo một mối quan hệ họ hàng xa, tôi phải gọi bà Nghĩa bằng dì. Ông ngoại tôi và mẹ của dì Nghĩa là anh em thúc bá, con chú con bác, cùng từ Thái Bình lên "tha hương cầu thực". Có lẽ vì thế, mà tuy là họ ngoại, lại đã xa đến mấy đời, các cụ đã mất, nhưng gia đình tôi với anh em dì Nghĩa rất gắn bó, còn hơn cả bên nội của chúng tôi. Có điều, sau khi dì Nghĩa trúng cử vào chức chủ tịch xã, bố tôi, trong một buổi tối có đủ mặt cả nhà, (tất nhiên vắng mặt tôi) đã phát ra một mệnh lệnh:
-Từ nay, mẹ con nhà này có đến chơi nhà cái Nghĩa thì đến, nhưng cấm không được nhờ vả, hay là làm cái gì để nó phải khó xử nhá! Chúng mày nghe rõ cả chưa? Hình như bố tôi nhằm vào một ai đó trong họ nhà tôi thì phải.
Lúc ở nhà tôi có biết chồng dì Nghĩa là chú Cầu. Chú Cầu là thương binh trong một chiến dịch thời kháng Pháp, bị một vết sẹo to giống như cái lưỡi hái bên sườn trước bụng. Những lúc cao hứng và có sự vòi vĩnh của chúng tôi, chú Cầu vẫn thường kể những câu chuyện chiến đấu rất hấp dẫn rồi trật áo ra khoe cái vết sẹo xù xì rất đáng kinh hãi đó. Chú bảo:
-Ở Điện Biên Phủ đấy! Một quả "tạc đạn" của quân Pháp bắn xuyên qua bụng tao ra đằng sau! Không tin à, nhìn đây...
Chú xoay lưng lại, đằng sau lưng chú cũng có một vết sẹo, nhỏ hơn và nom "hiền lành" hơn! Có lần, tôi kể cho cả nhà nghe chuyện của chú Cầu, bố tôi nghe, ông chỉ tủm tỉm cười. Ông cũng có mặt ở Điên Biên Phủ năm 1954.
Chú Cầu là út và là con trai duy nhất trong một gia đình khá giả, toàn chị gái. Tên chú đặt là Cầu, vì chú là đứa con cầu tự được trong cửa chùa. Chú Cầu là một trong rất ít người có học vấn cao trong làng. Tuổi thơ của chú rất sung sướng, chú bảo thế! Chú có bằng Tây học Diplome, nhưng sau khi bị thương chú về quê, lấy vợ, làm ruộng. Đáng lẽ chú có thể thoát ly làm cán bộ nhà nước, ai cũng tiếc cho chú!
Chiến tranh bùng nổ một lần nữa, thanh niên trai tráng lần lượt lên đường vào Nam chiến đấu hết. Đến cả lớp thanh niên mới lớn, mười bảy, mười tám tuổi cũng ra đi. Trong làng chỉ còn lại đàn bà, trẻ con và những người già cả yếu đuối. Sức mạnh của xóm thôn bỗng hụt hẫng, tiếng chó sủa cũng bớt gay gắt, nhưng nghe trầm lắng hơn, ma quái hơn đầy đe dọa. Trên trời máy bay địch quần đảo suốt đêm ngày, mây trắng tản đi đâu hết, bầu trời chỉ còn mây đen, mây xám của khói bom, khói cháy nhà, cháy kho tàng, xăng dầu và cao su, thuốc hóa học... Hai giờ sáng, những người đàn ông già nua và thương tật cùng với những người đàn bà đảm đang, tháo vát dong trâu, vác cày bừa ra đồng, cày bừa trong ánh sao nhợt nhạt để kịp cho các bà, các chị ra cấy vào lúc bốn, năm giờ sáng. Sáng ra, cánh đồng Lưu Lạc đã vắng người, chỉ còn lác đác những ai về chậm và những đứa trẻ mò cua. Mặt trời lên cao, cánh đồng Lưu Lạc chỉ còn lại là một cánh đồng hấp hối, nặng nhọc bốc hơi lên bầu trời đẫm hơi nước và khói xám. Thỉnh thoảng những tốp máy bay F4, F105... xù xì như những bộ xương đen của loài quỷ lại ào qua, pháo phòng không ở đâu đó bắn lên lụp bụp. Khi những con quái vật hình xương xẩu bay về hướng thủ đô, bầu trời còn lại những vệt khói đen ngoằn ngoèo và những chùm khói trắng như hoa lau của đạn pháo cao xạ.
Dì Nghĩa của tôi lúc bấy giờ là chủ tịch Hội phụ nữ xã, tất nhiên dì là một đảng viên. Là cán bộ nhưng dì vẫn là một nông dân, nghĩa là dì cũng dậy từ ba, bốn giờ sáng, cùng với những người đàn bà mắt nhắm mắt mở ra đồng cấy chạy... tàu bay! (Xin mở ngoặc nói thêm là khái niệm "cấy chạy" trong thời bình của làng chúng tôi từ nhiều đời chỉ dùng trong trường hợp chạy cạn, tức là cấy trước khi cạn nước, nếu không nhanh, nước cạn sẽ bị "giẽ", lúc ấy có thể chảy máu tay người cấy). Đã gọi là cấy chạy thì luôn vội vàng, hấp hoảng, dưới ánh trăng thượng tuần và ánh sao mờ ảo. Sáng ra, dì lại ăn mặc tươm tất đi lo những công việc của hội, của đàn bà, phụ nữ. Mà "gái thời loạn" bao giờ cũng có nhiều nỗi niềm, nhiều trăn trở, nhiều chuyện phải giãi bày, nhiều vấn đề phải xử lý. Những người đàn bà đang thì đang lứa đói ăn, đói ngủ, và đói... đàn ông, đã làm cho họ tàn tạ nhanh chóng. Trong những buổi làm đồng tập thể hay những lúc hội họp, giữa những người có chồng ra trận hay những cô gái đồng trinh với nhau, họ vẫn cười, vẫn nói, vẫn đùa nỡm bằng những lời thanh tao lẫn tục tĩu, bất ngờ họ nhìn nhau với cái nhìn đờ đẫn. Họ cùng bất chợt nghĩ về những niềm khát khao đơn giản, có khi tầm thường của bản năng mà ứa nước mắt. Những đêm xuân bừng bừng hoa bưởi, những đêm hè rạo rực lá ngâu, những đêm thu ngạt ngào hương trái thị và những đêm đông gió bấc lùa vào vách liếp, sột soạt lá chuối khô, họ đơn độc như người khát thèm nước giếng khơi. Dì Nghĩa nói, dì làm, dì đi... nhưng hầu như chỉ làm nén lại nỗi khát khao của họ như nén cái lò so đang nóng chảy. Dì biết thế, vì dì đã trải qua những tháng năm chú Cầu đi bộ đội.
Trong khi dì Nghĩa tất tả với công việc và công tác, thì chú Cầu cũng là một đảng viên, nhưng chú chỉ làm đội trưởng một đội sản xuất. Công việc của chú là thăm đồng, thăm nước, thăm mạ mon và phân công công việc cho xã viên trong tầm quản lý của chú. Công việc không nhàn nhã nhưng cũng không vất vả.
Dì Nghĩa tiếp tục tiến bộ, khóa ấy dì trúng cử vào hội đồng nhân dân, và được bầu làm chủ tịch xã.
Đùng một cái, chị Xuân, vợ một anh bộ đội đang ở chiến trường, có... mang! Đây là một việc hệ trọng, một việc tày đình. Không chồng, đúng hơn là không có chồng ở nhà mà chửa! Tiếng sét loằng ngoằng, xé trời xanh đầy mây xám, đổ xuống đầu chị Xuân! Ai là thủ phạm hả Xuân? Phải chặn đứng cái thói giăng hoa, hủ hóa ấy lại! Con chó dái rửng mỡ ấy đâu? Trong khi người ta đổ máu ở mặt trận thì nó ở nhà mò vào buồng vợ người ta để làm cái trò ăn vụng. Mà cái cô Xuân ấy nữa, không chịu được thì đổ thóc vào cối mà xay, không có thóc thì xay cối không, việc gì mà phải ngứa đên thế? Con cho cái không ngoe nguẩy thì đời nào con chó đực nó vẫy đuôi? Chị Xuân cúi mặt, úp nón vào bụng đi làm! Khi đẻ được một thằng con trai, thì chị Xuân không chịu nổi sức ép dai dẳng từ mọi bề, chị đành khai ra cha của đứa bé là... chú Cầu!
Trời hại rồi! Dì Nghĩa bị hai đòn quất vào đầu cùng một lúc. Cũng không biết bằng cách nào mà dì không gục xuống. Ngoài lòng ghen tuông thường tình của người đàn bà bị ném trấu vào mặt, dì còn một nỗi nhục của người cán bộ đã bao nhiêu lần đi giảng giải cho người ta bằng những lời cao cả, đạo đức! Thế mà, cái điều sỉ nhục ấy lại rơi vào gia đình dì, vào chính đầu dì.
Cuộc chiến đấu không hề kém quyết liệt, đau thương, mất mát... so với ngoài mặt trận đã đi đến kết thúc. Đảng ủy xã đã quyết nghị để gia đình chú Cầu phải nuôi đứa bé con chị Xuân. Kể cũng lạ, tình mẫu tử không hề làm cho chị Xuân thấy đau xót hay nao núng khi chị nhẹ nhàng giao đứa con cho dì Nghĩa. Còn chú Cầu không chối bỏ đứa con và thế là chú bị bắt ra huyện rồi phải đi tù ba năm. Không phải đi tù vì không có tòa án xét xử, mà chú Cầu bị đưa đi cải tạo giam giữ theo lệnh của nhà nước, vì tội hủ hóa với vợ bộ đội, làm mất ổn định, phá hoại chính sách hậu phương quân đội. Một lệnh là ba năm, nếu cần, có thể bổ sung bằng những lệnh ba năm khác tiếp theo.
Với bốn đứa con của mình, giờ đây, dì Nghĩa phải nuôi thêm một đứa con chồng còn đỏ hon hỏn. Khó khăn về cơm áo đã chất chồng, nhưng còn có thể vượt qua được, nhưng nỗi nhục nhã thì dì chỉ có thể chôn vào lòng. Đúng lúc ấy, chị Nga đem thằng Hận ra xã làm giấy khai sinh, như tôi đã kể.
Tất nhiên hết khóa ấy, dì Nghĩa của tôi không còn làm chủ tịch xã, hơn thế nữa, dì từ chối mọi công tác, xin ra Đảng để làm người dân bình thường nhưng lương thiện để nuôi những đứa con, như lời dì viết trong đơn xin thôi công tác. Cuộc đời của dì Nghĩa tôi sau này rất buồn thảm. Mãi sau này, cách đây vài năm, tôi về thăm dì thì dì bị mù cả hai mắt, ở với bà mẹ chồng, tức mẹ chú Cầu, chín mươi tư tuổi cũng bị mù. Chú Cầu đã bị chết trong khi đi cải tạo, do vết thương hình lưỡi hái xuyên từ bụng sang lưng tái phát. Còn đứa con của chú Cầu với chị Xuân đã về ở với mẹ, vì anh chồng chị Xuân đã hy sinh, năm ấy nó đã hai mươi hai tuổi, nhưng không xin được đi làm nhà nước, vì lý do gì đó. Còn chị Xuân thì không vui nhưng cũng không buồn lắm, chị vẫn thường qua lại với dì Nghĩa, nhận dì Nghĩa làm chị. Khi bà cụ mẹ chú Cầu chết, chị cũng góp một con lợn và hai mươi cân gạo làm ma, và đội khăn trắng. Tôi hỏi dì Nghĩa:
-Sao lúc làm giấy khai sinh cho thằng Hận, dì không hỏi cha nó là ai?
Dì cười, hướng dôi mắt nhắm tịt, ứa nước ra phía cửa:
-Hỏi làm gì hở anh? Đau khổ đến thế còn chưa đủ hay sao mà hành hạ nhau nữa...
Chị Nga của tôi lại túi bụi với công việc nhà chồng, để thằng Hận nằm lăn lóc một mình, thỉnh thoảng ông Tuân mon men lại gần, nựng nó, âu yếm nó, nhưng chỉ làm nó khóc toáng lên mà thôi. Mỗi lần nó khóc bà Tuân ở dưới nhà ngang lại rên lên dữ dội. Rên một lúc bà khóc anh Kỳ. Tiếng khóc não nùng, đay nghiến như vặt thịt vặt da người nào đó. Thì còn người nào nữa, chị Nga chứ ai. Ông Tuân lúc đầu để yên, nhưng sau phải vào tận nơi, chỉ vào mặt vợ:
-Bà làm cái gì thế? Có câm cái mồm lại không!
-Ối giời ơi! Con ơi là con! Kỳ ơi là Kỳ! Con đem thân đi chết vì nước vì dân, con có biết đâu ở nhà mẹ khổ như thế này!
-Bà thì khổ cái nỗi gì? Đã là cái cục nợ cho người ta còn không biết thân biết phận...
-Ối ông giời ơi! Người ta đang rủa tôi. Vâng, tôi là cái nợ, thế còn ông là cái gì mà ông giương mắt lên nhìn cái con gà cỏ ấy?
-Gà cỏ nào? Nó là máu mủ nhà này đấy!
Cuộc đấu khẩu bất tận bằng những tiếng khóc ấy làm cả làng lắc đầu. Rồi đến một hôm, hai người con gái lấy chồng thiên hạ bảo nhau kéo về một lượt. Chị Diệu về trước chị Thông một chút. Cả hai không nể mồm ra sức nhiếc móc chị Nga, là quân ngứa nghề đồ đĩ rạc. Đã thế lại ngang nhiên đem đứa con hoang về nhà chồng. Nếu ông Tuân không dọa tự tử treo cổ lên xà nhà thì họ đã đè chị Nga ra mà gọt đầu. Kể cũng lạ, chị Nga không nói, không khóc, đến gần trưa, chị xuống nhà ngang qùy sụp xuống lẫy bà Tuân bốn lạy, lên hè cũng lạy hai bà chị chồng cũng bằng tưng ấy cái, rồi lặng lẽ bế con, đậy cái nón mê lên mặt nó, ra cổng. Ông Tuân muốn đuổi theo nhưng hai bà con gái giữ ông lại. Họ cùng đứng ở giữa sân nhìn theo cái bóng chị Nga đi về phía cánh đồng cho đến khi khuất hẳn vào sau rặng tre bờ sông. Đến lúc ấy, ông Tuân đứng giữa sân ngửa mặt nhìn mặt trời chính ngọ đấm ngực đùm đụp:
-Giời ơi là giời! Nó là máu mủ nhà này đấy, các người biết không?
Hai bà con gái nhìn nhau, nhưng không nói gì. Mãi sau chị Diệu mới lên tiếng:
-Cứ để cho nó đi! Nhà này không cần cái ngữ ấy. Hai ông bà già đã có tiền liệt sỹ của cậu Kỳ sống hết đời lo gì mà lo?
-Phải đấy! Lúc này chị Thông, người con gái thứ hai, em của chị Diệu mới góp tiếng vào. Cậu Kỳ hi sinh là để lại quyền lợi cho thầy u, chứ chứa nó ở đấy ngày nó cướp mất đem cho giai. Lại còn nhà cửa vườn tược này nữa thì ai mà giữ. Chúng con lấy chồng ăn phận nhà chồng...
Chị Nga cứ lùi lũi bồng con đi về phía bờ sông. Thực trong lòng chị vẫn hi vọng ông Tuân cất lên một tiếng giữ chị ở lại, dù chỉ là đãi bôi. Nhưng không, không có ai, không có gì níu chân chị ở lại, ngoài những tảng đất cày và đám gốc mía từ vụ trước còn loi thoi gập ghềnh dưới chân chị.
Nơi bờ sông ấy là một khu bãi bồi gọi là Soi Vạt. Soi Vạt rộng chừng vài mẫu được người ta trồng tre bao để dòng sông Công khỏi lấn vào cánh đồng. Tre rất tốt và đặc biệt những bãi cỏ xanh mướt kéo dài suốt một triền bãi xen kẽ với những bãi cây bưởi bung. Tôi cũng không hiểu tại sao ngoài đám trẻ mục đồng chúng tôi ra, người lớn rất ít khi đặt chân đến đây, và Soi Vạt trở thành một thế giới riêng của chúng tôi, như là trong chuyện cổ tích. Vì là chuyện cổ tích nên ở đó thường hay có Bụt, có Tiên, và cả những mụ dì ghẻ ác độc và cả ma quỷ nữa, rất nhiều. Vào mùa nước nhỏ chúng tôi thường lùa trâu vào Soi Vạt và tha hồ vùng vẫy dưới dòng nước trong vắt của con sông miền Trung du. Chúng tôi say mê tìm những tổ cò lửa để lấy những cái trứng màu nâu đỏ trong những cái tổ sơ sài trong bụi dứa gai. Chán, chúng tôi lại xuống sông lật những hòn đá tìm những chú tôm ngái ngủ. Có khi bắt được một mớ, chất một đống lửa bằng cành tre gai mà nướng. Những con tôm sông chuyển dần sang màu đỏ au, thơm và ngọt. Những lúc như thế đám trẻ trâu chúng tôi, cả trai lẫn gái, nằm ngả mình trên cỏ thi nhau mơ màng. Chúng tôi có một thế giới tuổi thơ êm đềm trên cánh bãi Soi Vạt. Về sau này, khi chúng tôi lớn lên trở thành những chàng trai, cô gái bay túa đi nhiều phương nhưng dòng sông vẫn thế, vẫn êm đềm và bí hiểm như là trong một thế giới cổ tích bị lãng quên...
Từ hôm ấy, Soi Vạt là nơi trú ngụ của hai mẹ con chị Nga. Những tin tức của mẹ con chị Nga bay về xóm rất nhiều chiều, nhiều luồng và đứt đoạn bởi chủ yếu là do đám trẻ con mục đồng thuộc thế hệ sau chúng tôi đem về. Rồi một ngày, ông Tuân chống gậy lần theo những rặng tre ven sông. Nhưng ông đành thất vọng trở về, bởi vì hai mẹ con chị Nga không còn ở đấy nữa. Không ai biết chị đi đâu. Mãi một thời gian sau có một nguồn tin nói rằng, vào một đêm trăng suông, những người lấn mẹt trên sông nhìn thấy bóng người, một người mẹ ôm con ngồi trên một cái mảng nứa, trôi theo con nước về mãi dưới xuôi. Thế thì đúng chị Nga rồi! Buồn quá, sự đời nước chảy bèo trôi, chỉ thương cho chị Nga của tôi, cho người thiếu phụ thời nước non loạn lạc...
Từ sau ngày có tin mẹ con chị Nga đang giữa đêm khuya đưa nhau trên mảng nứa trôi theo dòng sông Công về mãi dưới xuôi xa tít mù khơi, dân làng Sơn Cốt chúng tôi được dịp rộ lên một chặp xung quanh "vụ cô giáo Nga" để rồi lại ắng xuống như dòng sông sau cơn lũ. Mỗi lần một người nào đó gặp ông Tuân chống gậy lẩn thẩn đi về phía Soi Vạt, họ lại lắc đầu đầy vẻ thương cảm. Thời gian trôi đi chậm chạp và nặng nề một cách tai ác... Một hôm như thế, ông lão Tuân đang trên đường từ bãi soi về làng, anh Định Khiểng, người giao thông xã, chuyên lấy thư từ, báo chí và các loại công văn của xã bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng tồng tộc tới. Nhìn thấy ông lão Tuân, anh Định rà phanh xe lại dừng ngay trước mặt ông lão:
-Chào cụ! Cụ đi đâu về mà nắng nôi thế này, nón áo chả có?
Ông lão từ từ ngẩng lên và từ từ cất giọng:
-Ừ! Thế ông là ai...?
Anh giao thông cười:
-Con đây mà cụ! Định giao thông đây...
Nhận ra người quen, ông lão chững lại một giây, rồi thều thào:
-Tôi có thư à? Hay là lại giấy báo tử?...
-Khổ quá! Làm gì có giấy báo tử nữa... Hoà bình từ mấy năm nay rồi! Các anh bộ đội ai còn sống thì đã về làng cả rồi!
-Ừ nhỉ! Ông lão Tuân cười nhợt nhạt, nhe hàm lợi khô, nhăn nhúm.
-Con có tin này cho cụ đây. Rồi giữa đường vắng, anh giao thông xã vẫn ghé sát vào tai ông lão, giọng thì thào, như sợ có ai nghe thấy. Con biết chỗ mẹ con cô giáo Nga ở rồi!
-Thế à? Ông lão giật mình, nói to lên bằng giọng reo mừng như quát. Anh thấy mẹ con cô ấy ở đâu? Họ có khỏe mạnh không?
-Cụ ơi, nho nhỏ thôi, không có các bà con gái cụ mà biết lại chửi cháu là đồ hóng hớt. Cháu không nhìn thấy, nhưng anh bạn bưu chính huyện thấy và tả lại thì con nghĩ đúng là mẹ con cô giáo Nga, chứ còn ai?...
Ông lão vịn một tay vào ghi đông xe đạp của anh giao thông:
-Anh chỉ chỗ cho tôi mới!
-Nhưng mà xa lắm, không phải ở tỉnh ta đâu!
-Xa là ở đâu?
-Bên Phú Thọ kia!
Ông lão chống cái gậy tre vào cằm, nghĩ ngợi:
-Phú Thọ à? Tôi biết. Hồi năm đi dân công lên Điện Biên tôi cũng đã đi đường ấy... Thế anh bạn của anh thấy cô Nga nhà tôi làm công việc gì?
Anh giao thông tỏ ra ái ngại:
-Con cũng không hỏi...
-Bây giờ anh ta ở đâu? Cho tôi gặp một cái được không?
-Vâng! Để hôm nào con mời anh ta vào nhà chơi, rồi con bảo cụ. Thôi, bây giờ con phải đem công văn vào ủy ban xã kẻo muộn. Mà này, cụ nhớ giữ kín chuyện này hộ con nhá!
Ông lão Tuân gật đầu hai ba cái rồi nhìn theo anh giao thông thọt chân đang dướn mình "nhảy-bê-đan" trên chiếc xe đạp tróc sơn đèo đằng sau lũng lẵng hai cái túi bạt lòi cả ra những tờ báo còn mới mùi mực in...
Ông lão Tuân bỗng thấy trong ruột gan bắt đầu có cái gì đó bào xé, nếu như trước đây nó chỉ âm ỉ sôi réo, thì bây giờ nó thật sự bào xé. Ông không thẫn thờ mà cảm thấy có ai đang đợi mình ở đâu đó. Ở đâu thì ông không biết, có thể là ở nhà, mà cũng có khi là ở một nơi nào đó xa thẳm. Hình như ông sợ chết! Nếu cách đây vài phút đồng hồ trước khi gặp Định Khiểng, ông chả còn thiết sống, ông coi lần ra với Soi Vạt này là lần cuối cùng, để rồi vĩnh viễn nằm lại trên chiếc chõng tre, chờ người ta gói ông vào tấm vải liệm. Ông sẽ ra đi mà trong lòng không thể thanh thản, nhưng còn cách nào khác đâu? Người già như ông làm sao lột da sống lại để trả các món nợ nhân gian!
Nhưng không! Định Khiểng với cái chân thọt nhảy nhoay nhoáy trên chiếc bút chì pê-đan đã đem lại cho ông một tia hy vọng mới! Hy vọng gì và làm thế nào để thực hiện nó thì ông chưa biết, nhưng ông biết chắc chắn là thế nào ông cũng phải gặp được mẹ con chị Nga của tôi. Đó là món nợ đời của ông. Ông nợ ai? Nợ anh Kỳ? Nợ chị Nga hay nợ thằng Hận? Tất cả, tất cả đã giằng xé ông trên con đường làng khấp khểnh toàn dấu chân trâu truyền nhau để lại.
Vào nhà, ông lão cẩn thận dựa cây gậy vào góc cột rồi ngồi vật xuống chiếc tràng kỷ long mộng. Nghe tiếng động, bà lão dưới nhà ngang bắt đầu rên to dần. Cả con lợn trong chuồng, cũng như một phản ứng dây chuyền, nghe tiếng rên của bà lão, nó hực lên một tiếng rồi bắt đầu rít. Cùng với sự nổi loạn đồng loạt ấy, bầy gà đang bới ngoài gốc rơm cũng táo tác, nhảy tứ tung vào trong sân, lên bệ nước. Ông lão Tuân đang rối ruột, càng thêm bực bội. Ông muốn làm một cái gì đó cho tan hoang cái cơ ngơi này đi, để khỏi nhìn thấy nó, để khỏi phải lo lắng cho nó... Ông vê điếu thuốc lào, châm đóm nhưng không hút ngay, que đóm cháy leo lên gần ngón tay, đến khi nó xém vào da thịt, ông lão thả nó xuống nền đất, ngọn lửa còn leo lét cháy một lúc nữa mới chịu tắt. Nhìn ngọn lửa bùng lên dưới chân mình trước khi tắt ngấm, vươn lên một sợi khói mảnh ngoằn ngoèo, ông lão bật cười. Ông đang có một dự tính, và châm que đóm khác. Điếu thuốc làm ông đê mê chừng vài giây, vài giây đồng hồ thoát khỏi căn nhà và những ý nghĩ.
Có tiếng động mạnh ngoài hiên, ông lão không buồn ngó ra cũng biết là ai. Đó là con Thảo, đứa cháu ngoại con gái đầu lòng của chị Diệu. Nó là một con bé mười ba tuổi, chưa trổ mã, người cao ngẳng, xanh xao. Từ ngày mẹ con chị Nga bỏ đi, chị Diệu bàn với cha mẹ:
-Thôi thế cũng là xong, là gọn, thày u khỏi phải bận tâm. Con thử về bàn với nhà, rồi chúng con sẽ cho cháu Thảo sang ở với ông bà. Trước là để cho có người ruột thịt, sau là để nó đỡ đần, cơm nước, thuốc thang cho bà...
Ông lão Tuân không buồn đáp, ông đang đau lòng, còn bà lão thì khóc nức nở:
-Ối Giời ơi là Giời! Có con trai mà không được nhờ, phải nhờ đến con gái với cháu ngoại! Giời bảo tôi thế có đau không?
-Cháu nào chả là cháu, bà cứ nói thế, chả trách! Chị Diệu gắt lên với mẹ. Giá kể thằng Thu nó lớn thì con cho nó sang, sau này nó sẽ là người trông nom hương khói cho ông bà. Tội cái, nó hãy còn bé, chả biết việc gì vào với việc gì...
Nghe đến đây, ông lão Tuân thấy trong ruột gan nóng ran, như thể ai vừa châm cái đóm vào:
-Thôi được rồi, không phải bàn bạc gì nữa, chị muốn thế nào thì cứ thế là làm... Nhưng mà cũng phải bảo chồng chị sang đây, cho tôi nói chuyện. Đấy, dinh cơ vợ chồng tôi và thằng Kỳ làm ra đấy, liệu mà trông nom. Còn thì hưởng, chả còn thì thôi, tôi nhắm mắt xuống đất, thì còn thiết cái gì. Nhưng cơ mà các chị cũng ác đức lắm...
Chị Diệu tỏ ra đã hiểu câu nói xa gần của bố, chị rời khỏi cái ghế đẩu sang ngồi đối diện trước ông bố trên cái tràng kỷ:
-Sao thày lại nói thế? Sao thày bảo con ác đức? Thế dễ thường cứ để cho mẹ con cô ấy ở đây là mát mặt lắm đấy chắc? Thày u già thì cũng phải chết, nhưng cơ mà còn chúng con, còn các cháu, cất mặt vào đâu được?
-Cất vào đâu ấy à? Việc gì đến các chị? Có mà các chị tiếc cái nhà này, tiếc cái mảnh vườn này... Tôi nói thật cho các chị biết...
Chỉ một tí nữa thôi là ông lão nói ra cái sự thật chết người, mà chỉ một mình ông cất giữ. Ông kịp giữ lại trong lòng. Nhưng ông sẽ giữ được bao lâu? Không! Nhất định ông phải nói ra, nhưng nói vào lúc nào và nói với ai, chứ không phải với những bà con gái tham lam, hãnh tiến và mưu mô giả dối này!
Chị Diệu khóc tấm tức, khóc nức nở:
-Sao thày lại nỡ nói thế! Chúng con chỉ muốn cho cha mẹ khỏi khổ! Chúng con có sung sướng gì khi cha mẹ đơn độc? Nếu cậu Kỳ còn sống thì thử cho chúng con cũng đã dám nhận nào...
-A, ra cái con này hỗn láo! Mày dám thách thức ông, thách thức bố mày à? Thằng Kỳ nó không chết thì ai còn nói làm gì? Nó còn sống mà về đây thì cho ăn vàng chúng mày cũng không dám ho he...
Thực tình, chị Diệu không phải là người xấu, ít nhất là trong trường hợp này. Cái lý của chị, cái tình của chị không thể chê trách, bắt bẻ chị được. Có điiều, ông lão Tuân đã giận quá, mất khôn. Trong lòng ông đang dào lên nỗi nhớ thương chị Nga và thằng con trai của chị, thằng Hận! Thế là niềm hy vọng, không, niềm tin, không, báu vật của ông đã vuột mất. Vuột ngay trước mắt ông, nhưng ông đã không giữ nổi, đau đớn hơn nữa là ông không dám giữ. Lúc đó ông là một người đàn ông, tồi tệ, một người cha hèn mạt. Rồi đây, ông sẽ ăn nói thế nào với tổ tông, cụ kị? Ừ, thì cứ cho là việc làm của ông với chị Nga là tồi bại đi! Thì đã sao? Ông đâu phải là con quỷ dâm dục, ông chỉ làm một việc là gìn giữ cái dòng họ của ông mà thôi... Ngay lúc này đây mà xảy ra cái chuyện hai bà con gái của ông xa xả đuổi mẹ con chị Nga, thì ông đã...
Cuối cùng thì ông cũng chấp nhận đề nghị của bà con gái là để đứa cháu ngoại, con chị Diệu sang ở với ông bà. Con bé tuy khờ khạo, nhưng được cái ngoan hiền, không dám cãi ông bà. Nhất là bà. Bà cụ Tuân sau nỗi đau mất con, bệnh tình của bà càng trầm trọng. Người đàn bà quê tôi thường không mấy người chịu ngồi nhà chịu cảnh tôi mọi để chồng nuôi. Bà lão Tuân vốn là một tay đi rừng, luồn măng, hái củi cừ khôi. Bằng ấy năm, khi bà chưa bị cái bệnh tê thấp đánh ngã gục, bà đã chèo chống cái gia đình vốn rất đa đoan, đáo để. Ấy thế mà khi bệnh tật, lao lực đánh bà ngã gục xuống, như là một trận hỏa hoạn, mọi cái đã tiêu tan... Cho nên bà đau đớn lắm. Đau thì bà phải kêu!
Thực tình bà thương con dâu lắm. Đời người đàn bà làm dâu có chồng bên cạnh đã khổ, đằng này mới cưới nhau được hai tháng thì chồng đi biền biệt vào nơi hòn tên mũi đạn, chẳng có ngày về. Thế rồi, bây giờ, chồng chẳng còn, con cũng không có, ở lại nuôi hai cái nắm xương ư? Thì nó phải phá ra, nó phải đi thôi! Nhưng, như thế thì oan uổng cho con bà, cho thằng Kỳ quá! Nó chết có nhắm được mắt không? Hả Giời!
Con bé Thảo lướt qua vách dừng, nó biết ông lão Tuân đã về, nhưng nó không có thói quen chào ông, mà chỉ lướt qua, đánh động để ông nó biết. Ông lão Tuân, sau phút say xiêu vẹo của điếu thuốc lào, gọi vọng ra ngoài sân:
-Thảo ơi! Lên đây ông bảo!...
Con bé rón rén vào nhà, ông lão e hèm mấy cái rồi hỏi nó:
-Bà ăn cơm chưa?
-Bà cháu ăn rồi ông ạ! Ông ăn cơm để cháu dọn lên...
Ông lão nhìn ra ngoai sân, cái cần kéo nước ngất nghểu trên miệng giếng, làm ông phân tán ý nghĩ, suýt thì ông quên mất cái ý định nói với nó lúc đầu. Ông "sùy" một tiếng đuổi con ngan đang lễ mễ trong sân giếng, thỉnh thoảng lại "phẹt" một bãi. Con bé Thảo thấy thế toan chạy ra, ông gọi lại:
-Đứng đấy ông bảo. Ông chưa muốn ăn cơm đâu, cứ để đấy cho ông. Bây giờ cháu về bên nhà bảo mẹ chiều qua ông nói cái này nhé!
-Mẹ cháu đi họp ngoài huyện ông ạ! Không biết đã về chưa...
-Ừ, cháu cứ về xem, nêu có mẹ mày ở nhà thì bảo sang ngay. Còn không thì bảo ông nhắn...
Con bé Thảo vào buồng, lúc sau vó đi ra với cái áo mới và cái nón trắng của chị Nga để lại. Nó lễ phép:
-Ông ơi cháu về!
Ông lão Tuân, chỉ tay vào buồng:
-Lấy xe đạp mà đi cho nhanh con ạ!
Khuôn mặt con bé Thảo chợt ửng lên. Nó sung sướng! Từ hôm nó sang ở với ông bà, nó nhớ nhà, thỉnh thoảng lại ra đống rơm nhìn ang bên kia sông, rớm nước mắt. Nhưng nó không để cho ông bà thấy, bố mẹ nó đã dặn là phải ở với ông bà, sau này ông bà sẽ lo cho... Lo cho cái gì thì nó chưa quan tâm, vì nó chưa hiểu. Nhưng cái xe đạp thì nó thích lắm. Đấy là chiếc xe đạp của chị Nga để lại, chiếc xe đạp Thống Nhất màu xanh nước biển, mà không chỉ con bé Thảo mà rất nhiều người mơ ước. Nó ao ước được leo lên chiếc xe đạp ấy lắm! Nó cũng biết đó là xe của "mợ Nga", mà mợ Nga thì đã đi rồi. Nó ở đây thì nó sẽ được đi thôi, con bé tin như thế. Nhưng chưa bao giờ nó được ngồi lên cái xe ấy, mà nó thì không dám hỏi. Thỉnh thoảng ông nó cũng lấy ra lau chùi chiếc xe bóng loáng, rồi ông đạp thử mấy vòng quanh sân, ra cổng rồi lại vào nhà, cất đi. Bây giờ thấy ông bảo thế, nó sung sướng đến nóng cả mặt. Chắc phải là việc gì quan trọng lắm, khẩn thiết lắm, ông mới cho nó lấy xe đi chứ! Xe của mẹ, dù mẹ là cán bộ xã, được phân phối nhưng cũng chưa là "cái đinh gì" so với cái xe nó sắp đi đây. Mẹ nó mà thấy cũng phải ghen lên chứ đừng nói gì mấy đứa em! Con bé Thảo cẩn thận nhắc cái xe từ trong buồng ra, nó dẫn ra hết sân rồi mới bước lên pê-đan. Tiếng líp tách-tách ròn tai lăn ra cổng...