uốt buổi chiều dưới ánh mặt trời hừng hực, Bob Morane và Bill Ballantine bước đi giữa lối đường đèo ngoắn ngoèo như trong một mê cung, nhưng nhờ sự tiên liệu của Osborne và giáo sư Mainright, hai người có một bản đồ chi tiết cho phép họ đi thẳng đến nơi một cách chắc chắn. Mọi chỗ đều yên lặng, họ không thấy bóng dáng một ai khác. Những ngọn núi này hiu quạnh không cây cối, chỉ những đá là đá, im lìm giữa bầu trời hoang vắng. Hầu như từ trước đến giờ không một sinh vật nào đến đây làm xáo trộn vẻ tịch mịch hoang vu. Có chăng là trên những đường đèo tít trên trời cao vài con chim ưng quay cuồng với vẻ cứng đầu cứng cổ như những cái máy điều chỉnh sai lệch.Morane và Ballanline ngừng chân. Với những cái áo dài, khăn đội đầu, đôi dép và bộ mặt bôi dầu vỏ hạt dẻ, họ có vẻ như hai người Ấn bình thản đang rong chơi. Tuy nhiên ở chỗ thắt lưng rộng bản họ đều dắt một khẩu colt và con dao găm. Riêng Bill lại mang theo pho tượng thiêng, vẫn quấn trong khăn bỏ trong cái túi xách. Ballantine cất tiếng, hỏi:- Anh có chắc là chúng ta đi đúng đường không, anh thiếu tá?- Không thể nào lầm được. Cho đến tận lúc này chúng ta đã thấy đầy đủ những điểm chỉ dẫn ghi trong bản đồ. Đương nhiên sau khúc quẹo sắp tới đây là chúng ta tới ngôi đền.Hai người đi tiếp thêm chừng mười lăm phút nữa. Sau cùng đường đèo rẽ ngang một lần nữa, dẫn vào một đường vòng khá rộng, lởm chởm những đá.Morane đặt tay lên cánh tay bạn nói:- Nhìn kia, Bill! Chúng ta đi đúng đường rồi!Cuối đường vòng, một cánh cửa rộng nổi bật trong miệng hang. Cửa đó được đóng lại bằng hai cánh rất rộng, chắc hẳn là bằng gỗ leck, viền sắt chung quanh. Hai bên cửa là những hình điêu khắc, trình bày các kiếp sống luân hồi của thần Siva và vợ của ngài là thần Pârvatê.Hai du khách lại ngừng chân. Bây giờ thì họ không còn nghi ngờ gì nữa, biết chắc rằng mình đã tới đích. Trái với ước đoán của họ, không thấy một người nào ở quanh đó. Cũng như chỗ đường đèo, chung quanh ngôi đền hoàn toàn vắng vẻ.Bill nêu nhận xét:- Miền này có vẻ không có người ở?Morane không trả lời ngay. Sự tịch mịch này đè nặng trên tâm trí chàng. Chàng ước mong thấy bóng một người Thug với chiếc dây thiêng, hay là thấy tên khổng lồ Maimaitcheng hiện ra ở cửa ngôi đền. Chàng nói:- Úi trời! Cầu mong là lát nữa đây miền này đừng có đông người quá! Đêm sắp xuống và chắc hẳn sẽ lôi cuốn về đây rất nhiều người... Chúng ta phải mau tìm cách đột nhập ngôi đền.Bill Ballantine nhăn mặt:- Chẳng phải chuyện dễ. Ngôi nhà này có vẻ không có nhiều cửa sổ, mà tôi có thể nói là chẳng có cửa sổ nào cũng nên.Morane lặng im suy nghĩ một hồi rồi mới nói:- Thử lay cánh cửa ngoài. Nếu nó bất động thì ta tìm lối vào khác.Súng cầm tay, đưa mắt lo lắng nhìn quanh, hai người thận trọng tiến lại phía cửa. Họ tới nơi không gặp trở ngại gì. Nhưng đến đây họ mới thất vọng. Không những cánh cửa được gài kỹ bên trong mà nó còn quá nặng, quá vững chắc đến nỗi cái vai lực lưỡng của Ballantine cũng không thể làm nó nhúc nhích. Anh chàng khổng lồ đứng dậy, nói:- Không ăn thua, thiếu tá ạ! Ít nhất cũng phải một viên đạn đại bác mới làm nổi. Chẳng khác nào tính chuyện phá cửa két sắt của nhà ngân hàng Anh quốc bằng một khẩu súng bắn đá.Morane đưa mắt nhìn lên đỉnh của miệng hang cao gần mười thước:- Ngôi đền này phải có những lối ra vào khác. Có thể là có những ống thông hơi. Ta thử xem có thể leo lên đấy được không.Tiến bước dọc theo vách đá, cuối cùng họ phát hiện một chỗ mà nước chảy xói mòn, đã đục trên đá thành một thứ cầu thang thô sơ. Lập tức hai người leo lên dọc theo vách đá. Việc leo trèo tương đối cũng dễ, nhưng cũng phải mất chừng mười phút. Khi Morane và Ballantine đặt chân lên đỉnh miệng hang thì mặt trời đang khuất dần về phía chân trời, còn hắt lại tia sáng cuối cùng, đỏ như đồng.Bob nói:- Nhanh lên! Tôi có cảm tưởng là thời giờ gấp rút đến độ trước, sau một giây là ta thành công hay thất bại!Trước mặt họ trải dài một khoảng đất rộng, lởm chởm những đá. Ở giữa có đào một cái lỗ hình vuông, mỗi chiều chừng một thước. Bob lại gần, nằm sát bụng cúi xuống nhìn thì thấy ở chừng vài bước bên dưới có ánh sáng leo lét. Chàng lẩm bẩm: “Quả thật ống thông hơi đây rồi. Tôi sẽ thử leo xuống trước. Nếu tôi đặt chân được vào một chỗ nào đó thì anh đưa pho tượng cho tôi nhé!”Được bạn giúp đỡ, Morane chui vào trong cái lỗ, từ từ tìm cách xuống, chàng ghé vai, đặt chân vào vách đá như kiểu người leo núi phải leo một vách núi dựng đứng. Chàng đưa mắt nhìn xuống dưới thấy chỉ cách khoảng hai thước là tới mặt đất sáng mờ mờ. Bám chặt hai tay vào một chỗ lồi của vách đá Bob đung đưa như người bị treo rồi buông tay, rơi vào khoảng không. Chàng tới mặt đất không gây tiếng động, hai chân gập lại. Lập tức chàng lại đứng lên, đưa mắt nhìn quanh. Chàng thấy một hành lang hẹp không có tường nhô ra ngoài chỗ chính điện, một đôi nơi có ánh sáng. Ngọn đèn ở chỗ bàn thờ lại quá lu, đến nỗi chỉ phân biệt được các vật như những cái bóng lờ mờ. Bên trên có tiếng Bill hỏi vọng xuống, nhẹ như hơi thở:- Tốt đẹp chứ, thiếu tá?Bob cũng thì thào đáp lại:- Tốt đẹp! Tôi đang ở trong đền. Đưa cho tôi cái túi!Chàng đưa tay, chụm lại và xòe ra như hình cái chén ở bên dưới lỗ thông hơi. Lập tức có tiếng của Ballantine:- Cẩn thận này, thiếu tá. Túi đây! Một, hai, ba!Một vật gì rơi xuống trượt theo cổ tay của Morane. Chàng khép bàn tay trái, nắm lấy cái quai túi xách. Bây giờ chỉ còn có một việc phải làm là xuống chỗ chính điện đặt trả pho tượng lên trên bàn thờ và ra đi theo cách đã đến.Chàng suy nghĩ: “Phải có một cầu thang ở chỗ nào đó!”Đột nhiên chàng nhảy dựng: một vật gì động đậy trong bóng tối của hành lang, rồi một giọng nói rất quen, không phải tiếng của Ballantine, dịu dàng cất lên:- Tôi biết là thế nào ông cũng tới, thiếu tá ạ. Mừng gặp ông!Gần ngay đó một khuôn mặt xuất hiện, mờ mờ trong ánh sáng yếu ớt của ngôi đền. Morane nhận ra ngay cái bộ mặt dẹt đe đe, bè bè, cái cằm nhô ra, lưỡng quyền cao và đôi mắt xếch. Đó là Maimaitcheng.