Sáng sớm, mặt trời vừa mọc, bà Nam Phương đã dậy. Bà hé cửa phòng, nhẹ nhàng bước ra thềm. Bà bận chiếc áo vải nhẹ, thắt đai lưng vải, đẩu đội mũ nhưng đi chân đất, nhún nhảy đi một điệu vũ chậm rãi mặc dù không có nhạc đệm. Cánh tay đưa lên cao tạo thành một đường lượn đung đưa trên đầu, đi một vài vũ đạo rất chậm. Điệu ba lê vừa thanh thoát lại vừa nặng nề xiết bao. Năm nay vừa tròn ba mươi tuổi nhưng chưa bao giờ bà thấy mình đẹp như thời gian này. Thân hình hơi mảnh dẻ, khuôn mặt không còn thanh tú thời thiếu nữ trưởng thành lúc bước lên xe hoa nhưng là của một thiếu phụ có thân hình cân đối, kiêu sa. Cứ mỗi buổi sớm mai, bà khiêu vũ một mình dưới con mắt tò mò của chú bộ đội đóng quân gẩn đó. Tính họ vẫn nhút nhát, không dám ngẩng đầu nhìn thẳng vào người đàn bà quý tộc đang nhún nhảy, cho làm như thế là phạm thượng. Bà Nam Phương tập thể dục đều đặn hàng ngày ngay cả sau này khi có chiến tranh cũng vậy. Người dân quanh cung An Định cũng đã quen với cảnh này nên không mấy ai chú ý mà cũng chẳng bàn tán gì về sự có mặt của bà cựu hoàng với lũ trẻ lá ngọc cành vàng ở cái xóm yên tĩnh bên con kênh phía tây bắc thành Huế. Tại Huế, cũng như quanh vùng Thừa Thiên - Huế không khí chính trị đã thay đổi kể từ khi cựu hoàng rời kinh thành ra Bắc và khi phái đoàn chính phủ đã quay về Hà Nội, mang theo họ những lời hứa hẹn đối xử khoan hồng với quan lại và chức sắc của chế độ cũ... Trong khi một số quan lại cũ hội họp biểu lộ lòng trung thành với chế độ mới thì một số phần tử chống đối hoặc gây trở ngại cho chính quyền mới đều bị thẳng tay trừng trị. Không ai biết rõ con số là bao nhiêu. Trong tháng 11 các báo ở Huế đưa tin vắn tắt Phạm Quỳnh, nguyên thượng thư bộ Lại, đứng đầu Viện cơ mật của Triều đình Huế và Ngô Đình Khôi, nguyên thượng thư, cùng với con trai là Ngô Đình Huân đã bị toà án cách mạng xử tử trong thời gian thiết quân luật. Báo còn đưa tin: Sáng 10 tháng 12 năm 1945 toà án quân sự Thuận Hoá (tức thành phố Huế) đã mở phiên toà xử Nguyễn Tiến Lãng, trước đây là thư ký riêng của bà Nam Phương, cũng là con rể của Phạm Quỳnh, tuyên phạt tám năm tù, tịch thu hai phần ba gia sản. Một hôm cậu con trai lớn của bà Nam Phương, Bảo Long, gặp lại người thư ký riêng của cha mình bị cảnh sát vây quanh. Ông ta gầy giơ xương, râu ria mọc dài, run lẩy bẩy. Ông ta đến xin lại ít tiền đã gửi bà Hoàng hậu ngày trước để khi cần thì "trà thuốc" cho những người canh giữ mình hay để mua thức ăn thêm... Đám trẻ thắc mắc ông này trước đây béo tốt chững chạc mà nay trông thảm hại thế. Bà Nam Phương, không cười, giải thích khéo: Có lẽ do hút thuốc lá nhiều quá... Một điều kỳ diệu xảy ra với ông Lãng là ông chỉ bị giam một thời gian ngắn. Sau đó ông đi theo kháng chiến, được Việt Minh sử dụng vào việc dạy tiếng Pháp và dịch thuật. Còn nhiều người khác kém may mắn hơn, tại sao họ không kêu cứu với cố vấn tối cao Vĩnh Thuỵ? Dù có kêu cứu bà Nam Phương thì với vị thế của bà lúc này cũng khó có thể giúp đỡ được ai. Còn với ông cố vấn, chưa chắc ông để ý đến chuyện này tuy có thể một vài tin đồn về các vụ hành quyết đến tai ông. Ông bênh vực bạn bè và hình như nhờ đó có một số người thoát khỏi tội chết (trong đó có Ngô Đình Diệm). Nhưng những người đồng sự với ông cùng ngồi làm việc trên tầng gác Bắc Bộ phủ tức dinh Chủ tịch chính phủ đặt tại toà Thống sứ cũ, không ai còn nhớ được ông cựu hoàng có can thiệp giúp được ai không. Hoàng gia đã rời khỏi hoàng thành để không bao giờ trở lại. Cả nhà bây giờ về ở cung An Định, một ngôi nhà xây lớn nhưng kém tiện nghi ở gần khu dân cư của thành phố Huế, trông như một cửa hàng bánh ngọt, một bề chạy dọc theo con đường đi Đà Nẵng, một bề sát con sông hẹp gọi là sông An Cựu, thuyền đi lại như mắc cửi. Chiếc thuyền rồng của Nhà vua neo đậu tại đây. Dân nhà thuyền hễ trông thấy chiếc thuyền rồng neo ở đây là họ hiểu rằng Nhà vua đang ở trong cung An Định nên chỉ dám nhìn xuống mặt nước chứ không dám nhìn lên toà nhà để khỏi làm ô uế cung điện mùa hè của hoàng gia ở phía bờ nam sông Hương trong khu phố người Âu đối diện với hoàng thành. Trước toà nhà là mấy thước sân, giữa sân là hòn núi non bộ. Phía ngoài là chiếc cổng xây bề thế có hoạ tiết trang trí bằng đá. Đằng sau toà nhà là con đường dài giữa hai hồ nước ở hai bên. Cổng sau xây đơn giản, thanh thoát bù lại dáng vẻ nặng nề của cung An Định. Hai bên sân sau còn có hai dãy nhà, kiến trúc đơn giản một bên là nhà bếp và bên kia đã được dự kiến xây chuồng hổ và nuôi cá sấu. Nay hai dãy nhà này làm nơi đóng quân của đơn vị bộ đội Việt Minh vừa làm nhiệm vụ canh gác vừa giám sát hoạt động của hoàng gia. Chỉ huy kiêm chính trị viên của đơn vị cùng ở với anh em binh sĩ trong hai dãy nhà đó. Lúc mới đến ông chỉ huy còn lạ lẫm, nhưng rất nhanh chóng được đối xử như một thành viên trong hoàng gia. Cung An Định ngày nay trông hoang tàn. Dãy nhà bên trái trước dành cho bộ đội đóng quân đã bị phá huỷ trong chiến tranh không bao giờ được xây lại. Tính độc đáo của toà nhà này là sân sau được bố trí như một nhà hát ngoài trời do đích thân vua Khải Định ra lệnh xây dựng. Sân khấu là một sân trời xây trên bệ cao, trước mặt thấp hơn là chỗ ngồi của người xem. Cung An Định được xây lên từ đầu thế kỷ. Kiến trúc thô thiển, nửa âu nửa á, cổ, kim lẫn lộn tuy bề thế nhưng kém tiện nghi, đồ đạc nội thất tồi tàn, lỗi thời, trong nhà thiếu ánh sáng. Từ khi xây dựng đầu thế kỷ, nó chưa bao giờ được cải tạo hay sửa sang lớn cho hợp với trào lưu hiện đại. Nơi đây còn là nơi ở của hoàng tử Vĩnh Thuỵ sau khi được tấn phong Đông cung thái tử lúc 6 tuổi, trước khi sang Pháp học tập. Ngày nay ngôi nhà vẫn tồn tại nhưng trông như một cung điện hoang phế, biểu tượng của một sự giàu sang trong quá khứ(1). Trong nhà, gian phòng lớn tối tăm còn nguyên hàng cột, chiếc cầu thang nặng nề bằng đá, trên tường còn giữ các bức hoạ trong khung gỗ hình xoắn ốc dát vàng miêu tả phong cảnh khu lăng tẩm nhà Nguyễn ở vùng ngoại thành Huế. Tất cả còn lại như một nhà tù lớn. Nghe nói một kiến trúc sư người Pháp năm 1916 đã cho xây thêm ba sân trời ở phía sau để đón ánh sáng theo phong cách Địa Trung Hải. Nơi đây vào những ngày hè nóng nực, Nhà vua muốn tránh cái không khí oi bức trong Đại nội thường ra đây để nghỉ ngơi hóng gió Nam. Bà Nam Phương cùng các con và bà Hoàng Thái hậu Từ Cung từ khi dọn ra đây đều sống chung dưới một mái nhà. Trước đây trong Tử Cấm thành, mỗi bâ đều có cung điện riêng. Quan hệ giữa họ với nhau không êm thấm gì, không chỉ là giữa mẹ chồng nàng dâu, mà do tính cách hoàn toàn khác hẳn nhau. Một bà xuất thân bình dân, làm vợ thứ ba của vua Khải Định, nhờ sinh con giai là Vĩnh Thuỵ nên sau khi Khải Định chết, Vĩnh Thuỵ được lên ngôi, bà mới được phong làm Hoàng Thái hậu, mộ đạo Phật, ít chữ nhưng trọng lễ nghĩa theo đạo Khổng, còn một bà là con nhà đại phú hào bậc nhất nhì miền Nam, du học bên Pháp từ nhỏ, tiếp thu văn hoá phương Tây, thuộc gia đình có đạo gốc đến mấy đời. Không có những cuộc cãi lộn om sòm mà chỉ là sự đối đầu ngầm trong cuộc chiến tranh lạnh thường là về những chuyện lặt vặt như cách nuôi dạy con, cúng giỗ tổ tiên. Bà Nam Phương không chịu được mùi hương. Thế nhưng trong Đại Nội, mỗi cung điện đều có bàn thờ riêng, thờ tổ tiên, thờ thổ công, thổ địa như phần lớn các gia đình Việt Nam khác. Trong số gia nhân thị nữ theo các bà hoàng có Sử Lệ, một chị hầu phòng rất mực trung thành, đã rút cả tiền để dành để giúp đỡ hoàng gia. Cũng như cựu hoàng bà Nam Phương không có nhiều tiền để dành ngoài những đồ trang sức đắt tiền do chồng bà cùng các bạn biếu tặng. Tuy đã giảm rất nhiều nhưng số gia nhân đầy tớ theo hai bà về cung An Định cũng còn đến mười người. Bà cựu hoàng Nam Phương và các con được tự do đi lại chỉ cần báo trước cho ông chính trị viên đơn vị bộ đội được giao canh gác cung An Định cũng như bảo đảm an toàn cho các thành viên hoàng gia mỗi khi cần đi ra ngoài phố. Dĩ nhiên bà không chịu để người này nhìn soi mói vào cuộc sống của bà nhất là sau khi có một số vụ hành quyết của toà án cách mạng gây nỗi kinh hoàng cho những ai trước đây hay giao du với người Pháp. Các linh mục và tu sĩ Công giáo cung cấp đều đặn tin tức cho bà, nhờ đó bà biết rõ diễn biến của các sự kiện, và càng làm tăng thêm nỗi lo âu của bà. Bà hay nổi nóng một cách vô cớ. Cộng với những lo lắng về chính trị bà còn sợ hãi những cơn giận dữ của con trai bà. Bảo Long không phải là đứa trẻ dễ tính. Những người thân thuộc rất sợ mỗi khi cậu bé nổi giận vô cớ hoặc chỉ vì những chuyện không đâu như phải chờ đợi lâu mỗi khi đòi hỏi một điều gì đó. Bà hoàng với mấy gia nhân còn lại không còn biết nhờ ai giúp thằng bé trở lại bình tĩnh. Bản thân bà cũng trở nên nghiêm khắc hơn, kém kiên nhẫn và kém độ lượng hơn. Tuy vậy, Bảo Long tỏ ra là một thiếu niên ngoan ngoãn. Ít có những ảnh chụp nào mà không thấy mấy anh em quây quần bên nhau: Một đứa con trai mẫu mực, chững chạc, biết suy nghĩ. Cậu bé lại cắp sách đến trường. Nhưng không phải là trường cũ. Không còn điều kiện lên tận Đà Lạt để đi học trường Công giáo như trước. Cũng không còn gia sư trong nhà. Bây giờ là đi học trường công trong thành phố, đúng hơn là trường Lycée cho con gái nhưng ở các lớp dưới, con trai con gái học chung. Cậu ta vào học lớp tám theo chương trình trung học tương đương với lớp nhì tiểu học. Chương trình học có một cải tiến làm cậu ta ngao ngán: cấm nói tiếng Tây ngược hẳn với trước đây Ai vi phạm sẽ bị kỷ luật. Lúc đầu, cậu bé nói tiếng mẹ đẻ rất kém nên ít nói, cậu ta thấy lạc lõng nhưng rồi hoà nhập rất nhanh với bạn bè trong lớp. Có hôm, thấy các cháu lúng túng không tìm được từ tiếng Việt thích hợp, cô giáo phải nhắc nhưng lại dặn đừng kể với ai, vì làm như thế chúng sẽ chóng quên tiếng mẹ đẻ, nhất là mấy đứa em gái Bảo Long. Còn cậu ta thì vẫn say mê với đống sách truyện tiếng Pháp của ông nội là đức vua Khải Định để lại, nhất là mấy cuốn truyện viễn tưởng khoa học của Jules Verne. Nhờ đọc thẳng từ nguyên tác tiếng Pháp, nên những câu chuyện về đại uý thuyền trưởng Nemo và về Phileas Fogg - những nhân vật trong tác phẩm của Jules Verne - Bảo Long vẫn có dịp tiếp xúc với tiếng Pháp. Bây giờ Bảo Long đi học không phải để sau này làm vua nữa. Với cái tên được ghi danh là Nguyễn Bảo Long, cậu ta cũng chạy nhảy, rong chơi ngoài đường, nô đùa, nghịch ngợm, cãi nhau, đánh nhau như mọi học trò khác. Không còn bị ràng buộc bởi bao điều cấm kỵ gò bó như đối với một đông cung thái tử khi trước. Các bạn học trong trường chẳng mảy may phân biệt đối xử, thù ghét gì dòng dõi hoàng gia. Hơn thế mọi người vẫn kính nể ông vua cuối cùng triều Nguyễn đã tự nguyện rời bỏ ngai vàng để giao chính quyền cho cách mạng rồi trở thành cố vấn tối cao của chính phủ, ngang hàng với chủ tịch Hồ Chí Minh, người giải phóng cho dân tộc. Được cái Bảo Long học rất khá. Đứng đầu lớp, được ghi tên trên bảng danh dự. Trong các buổi chào cờ ngày đầu tuẩn, cậu ta được vinh dự kéo lá cờ đỏ sao vàng lên đỉnh cột cờ ở sân trường như mấy tháng trước đây cậu ta cũng được chọn để kéo là cờ tam tài của nước Pháp? Có những niềtn vui tuổi trẻ con mà trước đây trong cuộc sống trong cung cậu ta không bao giờ được biết tới: đi chăn vịt với trẻ con đường phố, té nước vào nhau trên các vũng nước trong mùa mưa xứ Huế. Lần đầu tiên, Bảo Long biết thế nào là mùa mưa ở Huế. Mọi năm, cứ đến trước mùa Giáng sinh mấy mẹ con bà Nam Phương lại kéo nhau lên nghỉ ở Đà Lạt có khí hậu vùng núi cao, để tránh mùa mưa xứ Huế. không phải là mưa rào từng cơn mà là mưa phùn, lâm thâm, không ngớt suốt đêm ngày, kéo dài từ tháng chạp năm trước đến tháng ba năm sau. Mọi thứ đều ẩm ướt, đường sá nhớp nháp, cảnh tượng thiên nhiên buồn bã. Từ sau khi Vua Bảo Đại thoái vị, hoàng gia dọn về ở trong cung An Định không còn cha cố đến nhà rao giảng kinh thánh, không còn cầu nguyện ngay trong phòng riêng, vào mỗi buổi tối. Mỗi buổi sáng sớm, tập thể dục xong, bà chỉ cần qua sân sau sang bên kia đường mấy chục mét là đến giáo đường dòng Chúa Cứu thế để cầu nguyện và nghe cha cố giảng giáo lý, và cũng là dịp để nghe ngóng tin tức. Còn các con bà thì chúng đã nhanh chóng hoà nhập với cuộc sống học đường, đã tiếp thu ảnh hưởng mác-xít của Việt Minh. Cuộc sống dường như phẳng lặng nhạt nhẽo. May mà còn có các cuộc míttinh, biểu tình chẳng ngày nào không có, chẳng khác nào vào mùa lễ hội. Đó là thời kỳ của những hoạt động sôi nổi tác động mạnh đến tâm lý người dân. Cũng như cha chúng ở Hà Nội, con của bà Nam Phương, những hoàng tử, công chúa lá ngọc cành vàng trước đây, chẳng cuộc míttinh, biểu tình nào vắng mặt. Chúng còn hô khẩu hiệu to hơn những đứa trẻ khác. Hoàng gia còn tích cực hưởng ứng các cuộc lạc quyên trong đó có Tuần lễ Vàng. Bà Nam Phương đóng góp vài chiếc xuyến bằng vàng ròng. Được tuyên dương, bà thấy cũng chẳng có gì đáng gọi là công trạng. Tiếp theo là tuần lễ quyên góp đồng, quyên vải may quần áo giúp trẻ em nghèo trong mùa đông lạnh giá. Dư luận tỏ thiện cảm với bà khi bà tuyên bố với nhà báo: "Tôi rất vui mừng và cảm ơn Chính phủ Dân chủ Cộng hoà đã đối đãi rất tử tế với gia đình chúng tôi. Chúng tôi rất vui mừng thấy chị em đã tiến rất chóng trên con đường cứu nước. Từ trong nội mới dọn sang, nhà cửa xếp đặt chưa xong, hiện nay tôi chưa làm gì được nhiều, song nay mai khi nào chị em có việc gì cần đến tôi, tôi sẽ rất sung sướng mà gánh lấy một phần công việc"(2). Khi dự tiệc của các nhà báo chiêu đãi phóng viên Mỹ của hãng Associated Press ghé qua Huế, bà yêu cầu nhà báo Mỹ lúc nào về nước làm ơn cho chính phủ và dân chúng Mỹ biết chồng bà, Hoàng thân Vĩnh Thuỵ đã rất vui lòng thoái vị đế tỏ lòng đoàn kết với toàn dân Việt Nam ủng hộ chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà(3). Ngày 18 tháng 11 năm 1945, bà cựu hoàng ra lời kêu gọi phụ nữ toàn thế giới, được các báo đăng toàn văn như sau: "Nước Việt Nam đã thoát khỏi ách nô lệ... Chính phủ Lâm thời Dân chủ Cộng hoà đã thành lập. Chồng tôi, ông Vĩnh Thuỵ tức cựu Hoàng đế Bảo Đại đã từng tuyên bố "Vui lòng làm dân một nước tự do hơn làm vua một nước nô lệ" nên đã đồng ý thoái vị. Tôi cũng đã đồng ý với chồng tôi, nên chồng tôi đã làm cố vấn trong chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Riêng tôi, tôi cũng đã cùng với các chị em phụ nử giúp nhiều việc trong công việc xã hội ở nước chúng tôi. Chúng tôi chỉ đinh ninh phụng sự cho tổ quốc của chúng tôi. Nhưng từ lâu nay bọn thưc dân Pháp được sự che chở của phái bộ Anh đã xâm chiếm đất nước chúng tôi và miền Nam nước Việt Nam hiện giờ, nơi chôn rau cắt rốn của tôi đang bị chìm đắm trong vòng khói lửa. Đồng bào chúng tôi trong ấy có cả thân quyến của tôi bị giết, bị hành hạ bởi sự tham tàn của một bọn người xâm lược. Những bạn bè của tôi ở nhiều nước châu Âu, các ông các bà đã quen biết tôi, tất cả những người yêu chuộng tự do công lý, các người kêu gọi chính phủ của các người cương quyết can thiệp để ngăn cản bàn tay đẫm máu của bọn thực dân Pháp ở miền Nam nước Việt Nam là các người đã làm ơn cho dân tộc chúng tôi, làm ơn cho tất cả phụ nữ chúng tôi, cho cả tôi nữa. Các người hãy tin chắc chắn rằng mối cảm tình nồng nàn của dân tộc chúng tôi, của riêng tôi đối với các người sẽ nhờ đó mà tồn tại mãi mãi. Thay mặt cho mười ba triệu bạn gái của nước Việt Nam, một lần nữa tôi kêu gọi lòng bác ái nhân đạo của các người. Tôi mong mỏi các người không để cho chúng tôi phải thất vọng". Tóm lại, cuộc sống êm thuận, vui vẻ. Một cuộc cách mạng thực sự. Chỉ có một điều dè chừng. Ông chính trị viên luôn luôn có mặt, giám sát chặt chẽ mọi hoạt động của bà. Trong lúc chuyện trò, bà phải cẩn thận giữ gìn ý tứ, lựa lời để không làm phật lòng ông ta. Ngoài ra tâm trạng bà lúc nào cũng lo âu phấp phỏng. Sáng sáng, bọn trẻ đến trường bằng xe kéo. Trừ đứa bé nhất chưa đủ tuổi vào lớp, còn ba đứa chất đầy một xe kéo. Trên đoạn đường ngắn từ nhà đến trường chúng được chứng kiến bọn lính Trung Hoa xử sự như đất nước chúng: Chúng ngang nhiên cướp bóc, trấn lột vơ vét của cải của người dân đem về doanh trại. Nhưng vui nhất là lúc đi qua khu phố Tây gần trường học, trong đó những gia đình kiều dân Pháp sống chen chúc biệt lập trong các nhà theo kiểu biệt thự. Bọn trẻ con người Việt hễ thấy lũ con Tây là trêu chọc, chửi bới xua đuổi vào trong nhà, dùng súng cao su hay ném đá vào các cửa sổ. Anh em Bảo Long cũng đua đòi theo các bạn chơi cái trò độc ác đó. Người học sinh cũ của trường dòng Oiseaux và của trường trung học d'Adran cũng hò hét, ném đá vào cả những đứa trẻ mà chỉ chưa đầy một năm trước đây cậu hằng yêu mến. Dân quân Việt Minh ngày đêm canh gác khu phố Tây để ngăn mọi hành động quá khích. Một hôm tình hình trở nên căng thẳng hơn mọi ngày: Xảy ra một cuộc xô xát giữa mấy anh bộ đội Việt Minh với một số kiều dân Pháp. Số là trên mặt trận Nam Bộ, bộ đội Việt Nam vừa dùng lựu đạn đánh chìm chiếc tàu Pháp Richelieu. Bộ đội Huế nghe tin liền tổ chức hội họp ăn mừng chiến công đó. Quá phấn khích, suýt nữa thì họ xông vào các nhà Pháp kiều để tàn sát. Các lực lượng trật tự đến kịp: chỉ có đấm đá nên chỉ gây thương tích nhẹ cho nạn nhân. Bà Nam Phương có thêm những lý do để lo lắng tình hình sẽ xảy ra tồi tệ hơn nữa. Những kỷ niệm thời Pháp thuộc phai mờ dần trong tâm trí người dân, kể cả những đứa trẻ trong hoàng gla. Quyền lực được xây dựng và tồn tại gần một thế kỷ phút chốc tiêu tan qua các phong trào nổi dậy của đông đảo quần chúng. Không còn bóng người Pháp nghênh ngang trên đường phố. Kiều dân Pháp sống tập trung trong khu biệt cư. Binh lính và sĩ quan của đội quân thuộc địa một thời đã từng diễu binh hùng dũng dưới chế độ Decoux, hãy còn bị giam giữ trong các trại tù binh từ ngày đảo chính mồng 9 tháng 3, mặc dù Nhật đã đầu hàng(4). Số phận hoàng gia đã bị thế giới phương Tây, những kẻ bảo hộ họ trước đây, bỏ quên. Chẳng ai buồn đoái hoài đến họ. Thật lạ lùng chỉ có đô đốc D'Argenlieu, vừa mới được tướng De Gaulle bổ nhiệm Cao uỷ Pháp tại Đông Dương nhớ đến. Từ Chandernagor, một tỉnh Ấn Độ, thuộc Pháp ông ta theo sát tình hình để chờ thời cơ thuận lợi tiến vào Đông Dương. Ông liên tiếp báo cáo về Pháp: "Hoàng hậu An Nam và các con bị những người nổi dậy nhốt ở Huế. Hoàng Thái hậu kỳ thị bà, chính quyền cách mạng luôn luôn đe doạ tính mệnh bà. Bà có ảnh hưởng lớn đối với tín đồ công giáo Đông Dương. Hy vọng Toà Thánh sẽ can thiệp với Trung Hoa đang chịu trách nhiệm giữ gìn trật tự khu vưc bắc Đông Dương có những biện pháp cần thiết đế đưa bà Hoàng hậu và các con về Sài Gòn" (điện ngày 9 tháng 10 năm 1945). Nhưng Laurentie trong Uỷ ban Đông Dương nhận bức điện "tối mật" ngày 9 tháng 10 năm 1945 đã bác bỏ đề nghị của D'Argenlieu. Trong hồ sơ của Bộ Pháp quốc hải ngoại lưu giữ ở Aix-en-Provence, người ta còn thấy dấu tích bút phê bằng bút chì của ông Laurentie chua ở bên lề bức điện của đô đốc D'Argenlieu: "Tôi thấy không đúng lúc việc nhờ Toà Thánh can thiệp và Trung Hoa gây sức ép với những người chúng tôi muốn thương thuyết(5). Nhiều phóng viên đến gặp bà cố vấn tối cao để viết bài. Trước tiên là hai phóng viên báo Quyết thắng, cơ quan của Việt Minh Trung Bộ. Họ thuật lại: Đến cung An Định họ được yêu cầu chờ ở phòng khách. Một người râu rậm, có vẻ trí thức tiếp họ. Đó là Nguyễn Duy Quang, nguyên Đại nội đại thần của Bảo Đại. Ông nói bà phu nhân cố vấn đang tắm nên không thể tiếp họ được, yêu cầu nhà báo để lại những câu hỏi phỏng vấn để hôm sau trở lại. Hôm sau, vào đến cổng họ chú ý đến một cậu bé, chín mười tuổi kháu khỉnh đang câu cá bên sông đào. Chắc là Bảo Long. Ông Quang dẫn họ vào một phòng dài có hai ghế bành lớn, hai ghế bành của cặp vợ chồng Nhà vua trước đây. Bà Nam Phương từ trong buồng trong bước ra. Hai ông nhà báo bất ngờ thấy bà đứng thẳng người, nâng nắm tay phải lên ngang tai chào theo kiểu Việt Minh? Một bà cựu hoàng "đỏ", bà có đi quá xa không? Được hỏi về tình hình ông cố vấn ở Hà Nội. Bà cho biết ông vẫn mạnh khỏe, làm việc nhiều, thỉnh thoảng viết thư về, thư nào cũng nói tốt về cụ Hồ(6): Cụ có tuổi nhưng làm việc miệt mài, có hôm về rất muộn, thức ăn đã nguội mà cũng không yêu cầu người phục vụ hâm lại. Nhà báo hỏi về vai trò của bà cựu hoàng trong xã hội mới và trách nhiệm của phu nhân cố vấn tối cao, bà vui vẻ trả lời: "Bây giờ đất nước được độc lập rồi, đã đến lúc người phụ nữ phải coi trọng vai trò của mình. Phụ nữ Trung Nam Bắc có nhiệm vụ chung là tích cực tham gia uào công cuộc tái thiết đất nước". Bà còn tỏ ý mong Chính phủ cụ Hồ sẽ giao cho bà một trách nhiệm cụ thể. Mỗi khi viết thư trả lời ông cố vấn bà đều nhắc lại nguyện vọng đó. Trả lời câu hỏi về gia đình, các hoàng tử công chúa, bà cựu hoàng trả lời: tất cả đều mạnh khỏe. Cảm ơn các nhà báo đã đến phỏng vấn. Bà đứng dậy, đột ngột cắt dứt câu chuyện, tươi cười bắt tay tạm biệt hai nhà báo và lui vào buồng trong. Tác giả kết luận bài báo: Tính cách bà cựu hoàng thật đặc biệt. Ít lâu sau, đáp ứng nguyện vọng của bà muốn tham gia vào công cuộc kiến thiết quốc gia, Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh bổ nhiệm bà cùng với hai chục nhân sĩ trí thức có tên tuổi tham gia "Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc" thành lập ngày 31 tháng 12 năm 1945. Tuy vậy chưa khi nào bà rời Huế để tham gia các cuộc họp của Uỷ ban này. Tháng mười năm 1945, ông Phạm Khắc Hòe, cựu Tổng lý Ngự tiền Văn phòng nay làm việc ở Bộ Nội Vụ từ Hà Nội vào Huế mang đến cho bà một phong thư có ba tờ giấy xanh kín chữ to rộng của Bảo Đại. Bà Nam Phương xúc động run tay nhè nhẹ thong thả đọc bức thư đầu tiên của ông cố vấn. Ông Hòe gặp bà trên đường dọc bờ kênh. Bà vừa đi dự lễ chầu ở nhà thờ Phú Cam về. Ông Hòe theo bà vào cung An Định, lên cầu thang lớn đến một căn phòng nhỏ, khá cổ. Nơi đây không nghe tiếng ồn của phố xá, cũng không nghe tiếng hò của những người kéo thuyền trên sông bên cạnh nhà. Bà ngồi trên một chiếc ghế bành nặng nề có tay vịn chạm rồng. Ghế đó có lẽ từ thời vua Khải Định để lại. Dù người nhỏ thó và mảnh khảnh, Khải Định thích những đồ dùng lớn. Ông Hòe ngồi bên cạnh trên một ghế bành cùng loại, chờ bà đọc thư xong. Ông giữ im lặng. Bà vốn nặng tai nếu không ngồi gần sát, bà không nghe được người đối thoại nói gì. Trước đây có Nguyễn Tiến Lãng được mệnh danh là "cái tai" của Hoàng hậu Nam Phương chuyên nghe rồi nói lại cho bà hiểu. Lúc này ông Lãng đang ngồi trong tù. Hôm nay bà mặc chiếc áo dài lam giản dị, cổ đeo chiếc kiềng vàng nặng, không trang điểm vì vừa đi lễ về. Ông Hòe ngạc nhiên thấy bà như già đi, những nếp nhăn nhẹ hiện trên gương mặt đẹp. Ông cảm động thấy bà bối rối, hai giọt nước mắt lăn chầm chậm trên gò má. Bà cựu hoàng thấy không cần che giấu cơn xúc động. Bà hẹn ông đến buổi chiều sẽ trở lại để lấy thư trả lời gửi ông Vĩnh Thuỵ. 4 giờ chiều hôm đó, y hẹn, ông Hòe trở lại cung An Định. Lần này, cuộc trò chuyện có vẻ thân tình hơn. Sau khi đưa thư, bà nói: - Ông Hòe này, tôi rất tin ông, trước thế nào thì nay cũng thế, tôi muốn ông cho biết tất cả sự thật về việc ông Vĩnh Thuỵ mê con Lý. - Chúng tôi rất tiếc không được biết tường tận, nhưng đúng là ở Hà Nội tôi có nghe nói loáng thoáng về việc Ngài cố vấn có "quan hệ" (đương thời gọi là "mèo") với Lý, ông Hòe ấp úng. - Ông biết con Lý nhiều không. Con ấy là người như thế nào? - Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy cô ta. Chỉ nghe nói là cô ta đẹp nhưng về tư cách thì khỏi phải nói. - Ông Hòe nói thêm - Chúng tôi không biết gì khác vì tôi không ở cùng nhà với Ngài cố vấn. Công việc ở bộ Nội vụ choán hết thời gian nên chúng tôi không quan tâm đến những chuyện khác. - Ông Hòe im lặng một lát, rồi nói thêm - Bà cùng các con nên ra Hà Nội cùng sống và chăm sóc Ngài... - Nếu chồng tôi được hạnh phúc với người tình thì tôi không hề ngăn cấm. Tốt hơn là tôi ở lại một mình ở đây. Ngoài ra cụ Hồ có đề nghị tôi ra sống ở Hà Nội không…? - Tôi chưa biết. Đây mới là ý kiến riêng của tôi. Cuộc nói chuyện kết thúc. Bà còn hẹn ông một cuộc gặp nữa vào sáng hôm sau trước khi lên đường ra Hà Nội, bà có câu chuyện muốn nói.(7) Dù sống và làm việc ở Hà Nội, ông Hòe vẫn có nhà riêng cho gia đình ở cố đô Huế. Về thăm lại vợ con, ông còn nghe được. nhiều tin đồn trong thành phố. Bà Nam Phương còn có chuyện gì nữa muốn nói với ông? Ông thắc mắc tự hỏi. Chắc hẳn bà sẽ nói với ông về một kế hoạch mà ông đã được nghe phong thanh. Nếu tin đồn là có thật thì đó là một kế hoạch, đúng hơn là một âm mưu đảo chính đang được ấp ủ mà linh hồn chính là Nam Phương. Cánh bảo thủ trong hoàng tộc tập hợp một số người công giáo sẽ tiến công đồn Mang Cá ở phía bắc hoàng thành, giải thoát đám lính Pháp đang bị Nhật canh giữ rồi tổ chức cướp chính quyền, với sự ủng hộ của hoàng tộc sẽ đưa Bảo Long lên ngôi vua. Trước đây khi Bảo Đại thoái vị, hoàng tộc không được tham khảo ý kiến nên trong lòng vẫn oán hận. Kế hoạch này nếu đem ra thực thi, chắc chắn sẽ nổ ra nội chiến. Có lẽ bà thăm dò ý kiến ông Hòe. Tại sao lại là ông? Bà biết ông rất thân cận với chính quyền Việt Minh. Có thể quan hệ thân tình trước đây khiến bà nghĩ rằng ông sẽ giữ im lặng hoặc kế hoạch đã xúc tiến đến mức ông có biết cũng không thể ngăn cản nổi. Hôm sau ông Hòe đi luôn Hà Nội, không trở lại cung An Định nữa. Sau đó không có chuyện gì xảy ra. Có thể bà cựu hoàng đã thay đổi ý kiến, cũng có thể người Pháp đã khuyên bà không nên làm gì. Ông Trần Hữu Dực, nguyên Phó thủ tướng chính phủ kể lại: Thời gian này với tư cách chủ tịch Uỷ ban nhân dân Trung Bộ tôi cũng đến thăm gia đình bà Vĩnh Thuỵ tại cung An Định trên bờ sông An Cựu, cùng ở với mẹ chồng (tức bà hoàng thái hậu Từ Cung), và các con trai, con gái, cấp 10 mẫu ruộng ở thôn An Cựu, theo yêu cầu của bà Từ Cung để lấy hoa lợi dùng vào việc thờ cúng các vua nhà Nguyễn, cấp một xe tải theo yêu cầu của bà Nam Phương để chạy xe lấy tiền chi tiêu thêm... Có lần ra Hà Nội họp, gặp Vĩnh Thuỵ tôi hỏi có cần gì không, Vĩnh Thuỵ nói ông ta ở Hà Nội cũng như gia đình ở Huế đều được chính phủ chăm sóc(8). Ông Lê Văn Hiến, bộ trưởng Lao động, trong một chuyến công cán đặc biệt vào các tỉnh phía Nam, đã đến thăm bà Vĩnh Thuỵ. Nhân danh chính phủ ông chính thức đề nghị bà cùng các con ra sống ở Hà Nội. Đó là một vinh dự mà chính phủ dành cho bà. Nhưng bà cựu hoàng đáp lại một cách từ tốn: Bà rất sung sướng được thấy ngày vinh quang của xứ sở. "Bà không mong gì cho cá nhân bà, cho gia đình bà cả. Bà chỉ mong sao cho cho nển độc lập của nước nhà được vững bền. Bà cũng mong được có dip ra Bắc để thăm đồng bào Bắc Bộ nhưng như vậy sẽ tổn hao và phiền phức cho chính phủ nên bà hẹn chờ ngày nước nhà được độc lập chính phủ khỏi cơn khó khăn, bà sẽ ra Bắc. Bà rất mong chồng bà đem hết tài sức giúp chính phủ".(9) Trong lúc Vĩnh Thuỵ đang sống lưu vong tại Trung Hoa, trong phiên họp ngày 20 tháng 5 năm 1946, sau khi nghe Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam báo cáo về tình hình gia đình bà Vĩnh Thuỵ, Hội đồng chính phủ quyết định sẽ dùng đủ phương pháp để lo cho sự an toàn gia đình ông Cố vấn, và nếu bà Cố vấn ưng ra ngoài Bắc hoặc ưng thế nào thì chính phủ sẽ tuỳ lo liệu(10). Tại sao bà khước từ lời đề nghị ra Hà Nội cùng sống với ông cố vấn? Hẳn bà biết quá rõ tính nết của ông chồng, bà có ra Hà Nội ở cùng, vị tất dã làm ông chấm dứt thói trăng hoa của ông, hơn thế nữa xung đột gia đình được phơi bày trước mắt mọi người chỉ làm mọi người chê cười, làm hoen ố thêm uy tín ông cố vấn và khơi sâu thêm nỗi chua xót của bà. Chú thích: (1) Cung An Định là nơi ở của bà Hoàng Thái hậu Từ Cung cho đến năm 1954, sau đó Ngô Đình Diệm buộc bà phải rời cung. Sau năm 1975, cung An Định trở thành di tích của cố đô Huế. (2) Báo Quyết chiến, cơ quan ủng hộ chính quyền nhân dân cách mệnh tại Thuận Hoá, xuất bản ngày 18 tháng 9 năm 1945. (3) Báo Dân quốc xuất bản tại Hà Nộị ngày 24 tháng 9 năm 1945. (4) Đại tá Cédille, được De Gaulle cử làm uỷ viên cộng hoà Pháp tại miền Nam Việt Nam nhảy dù xuống Lộc Ninh ngày 22 tháng 8 năm 1945 bị Nhật bắt đưa về Sài Gòn trao cho Gracey, trưởng phái bộ Anh (ND). (5) COM, bộ Pháp quốc Hải ngoại, Hồ sơ 1211, NF. (6) Ít nhất ông Cố vấn gửi đến năm bức thư về cho vợ, nhờ cán bộ đi công tác vào Nam chuyển. (7) Phạm Khắc Hòe, Sách đã dẫn. (8) Xem Hồi ký Trần Hữu Dực, Bước qua đầu thù, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1996. (9) Báo Dân quốc xuất bán tại Hà Nội ngày 20 tháng 12 năm 1945. (10 Biên bản họp Hội đồng Chính phủ ngày 20 tháng năm 1946, lưu trữ tại Bảo tàng Hồ Chí Minh.