Năm mươi hình người bằng gốm đầu tiên ra khỏi lò là những người Eskimo, vì đứng ngay tầm tay, gần cửa lò. Vừa may Marta kịp đưa ra ý kiến nhận xét, Để huấn luyện tay nghề thì không có bước khởi đầu nào tốt hơn thế này nữa, rất dễ vẽ, dễ hơn những con này thì chắc chỉ còn những cô y tá, vì tất cả đều vận trang phục màu trắng. Khi đã nguội hết, những bức tượng nhỏ được đưa đến các bàn hong khô, nơi Cipriano Algor dùng súng phun sơn và đeo mặt nạ sẽ phun lớp sơn lót màu trắng cho tất cả. Trong thâm tâm ông thấy chẳng cần phải che miệng che mũi làm gì. Chỉ cần mình đứng xuôi gió, và sơn sẽ bay đi xa, chẳng đụng đến mình đâu, nhưng sau đó ông lại nghĩ làm thế thì vô ơn với con rể và cũng chưa chắc đã đúng vì thời gian nay cũng có những ngày không hề có cơn gió nào thổi cả. Kết thúc phần công việc của mình, Cipriano Algor giúp con gái chuẩn bị sơn, dầu hoả, cây cọ vẽ, những bức tranh màu dùng làm mẫu, đưa chiếc ghế cô ấy phải ngồi đến, và ngay sau những nét sơn đầu tiên, ông đã nhận xét, Thế này không được, cách xếp các con búp bê thành hàng thế này sẽ khiến chúng ta phải đi đi lại lại thường xuyên hết sức vất vả, không đúng như lời của Marçal, Thế Marçal nói thế nào ạ, Marta hỏi, Rằng con phải chú ý giữ gìn sức khoẻ, không được làm gì mệt nhọc, Cái làm cho con mệt mỏi chính là phải nghe đi nghe lại những lời khuyên như vậy, Chỉ là vì hạnh phúc cho con thôi, Bố xem này, nếu để trước mặt con một tá con búp bê, bố thấy chưa, tất cả đều ở trong tầm tay của con và con chỉf kéo ghế đi bốn lần, hơn nữa con cũng nên vận động một chút, nó có lợi cho sức khoẻ, và bây giờ con đã giải thích xong cho bố hoạt động của dây chuyền này rồi nhé, con cũng xin nhắc bố nhớ rằng không có gì ảnh hưởng đến người đang làm việc bằng sự hiện diện của những kẻ không làm gì cả, như trong trường hợp này con thấy hình như là bố đấy, Bố không thể quên được điều mà bố đã nói với con khifa đang làm việc, Bố đã làm điều đó, tức là, có tệ hơn nữa, bố đã đuổi con ra,Bố đi đây, không thể nói chuyện với con được, có hai việc cần làm sáng tỏ trước khi bố đi, thứ nhất nếu có ai mà người ta có thể nói chuyện được thì người đó chính là con, Thế việc thứ hai, Bố hãy hôn con đi. Mới hôm qua Cipriano Algor đòi con rể ôm hôn mình, bây giờ lại đến Marta đòi bố hôn, có chuyện gì đó đang xảy ra trong gia đình này, chỉ còn thiếu trên trời bỗng xuất hiện Sao chổi, hào quang Bắc Cực và những thầy phù thuỷ cưỡi chổi phi nước đại, thiếu chuyện Achado sủa trăng, kể cả lúc không có trăng, thiếu chuyện bỗng nhiên cây dâu không còn ra quả. Trừ tất cả những chuyện kia đều chỉ là hậu quả của sự nhạy cảm quá mức, còn chuyện của Marta là do cô ấy đang mang thai, chuyện của Marçal là vì Marta đang mang thai, chuyện của vca thì vì những lý do mà ai cũng đã biết và vì những lý do khác mà chỉ có một mình ông hiểu rõ. Tóm lại, bố hôn con gái, con gái hôn bố, con Achado được mọi người quan tâm hơn so với điều nó mong đợi, nên không còn có thể than thở gì được nữa. Như người ta thường nói, ở đây không có chuyện gì xảy ra cả. Cipriano Algor vào trong xưởng gốm để bắt đầu đúc khuôn ba trăm con búp bê mẻ thứ hai, và, dưới bóng cây dâu, trước ánh mắt nhìn có ý thức của Achado vừa trở lại với trách nhiệm canh gác của mình, Marta chuẩn bị vẽ những người Eskimo. Hai cha con đã quên mất một chuyện đầu tiên phải mài nhẵn các con búp bê đã, phải cạo sạch các rìa xờm, những hạt lồi trên bề mặt, những lỗi sản xuất, sau đó còn phải lau sạch bụi bặm, và thường một nỗi bất hạnh không bao giờ đến một mình và một lần quên thường gọi the những lần quên mới, cô cũng không thể sơn chúng ngay như dự định, lần lượt đi từ màu sơn này qua màu sơn khác theo thứ tực không đứt quãng, cho đến nét sơn cuối cùng. Cô bỗng nhớ đến cuốn sách hướng dẫn ở trang giải thích rõ ràng rằng chỉ khi nào một màu thật khô mới có thể sơn màu khác được. bây giờ, đúng là mình phải sắp xếp lại dây chuyền một cách nghiêm túc, cô nói, những con búp bê sẽ qua trcmc mình từng con một để nhận màu xanh dương, lần sau là màu vàng, sau đó màu tím, sau đó màu đen, và màu đỏ, và màu xanh lá cây, và mau trắng và chúc phúc cuối cùng, chính là các màu có trong cầu vồng. Cầu Chúa cho mi đức hạnh, về phía ta, ta đã làm tất cả những gì có thể, và không thể thêm gì hơn ngoài đức hạnh mà Chúa đã ban cho mi, cũng như mọi người bình thường khác, ta cũng có khi quên và hành xử bất thường, chỉ có ý thức nhỏ nhoi rằng nếu chúng ta không làm được tốt hơn chi đơn giản là vì chúng ta không đủ khả năng. Tranh luận về mình phải là người như thế nào cũng chỉ mất thời giờ mà thôi, đó chỉ là những cuộc tranh cãi tào lao. Để Achado canh giữ các con búp bê và, không bàn cãi gì thêm về những điều không thể tránh khỏi, Marta di về bếp lấy tờ giấy ráp mỏng duy nhất còn lại trong nhà. Thứ này mòn nhanh lắm đây, cô nghĩ, mình phải mua thêm nữa mới được. Nếu rình ở cửa xưởng gốm thì cô sẽ thấy mọi chuyện ở đó cũng không khá gì hơn, Cipriano Algor khoe với Marçal là mình đã nghĩ ra một số mẹo để công việc nhẹ nhàng hơn, điều này, theo quan điểm tổng thể thì là đúng nhưng nhanh chóng không hẳn đi liền với hoàn hảo, vì thế kết quả lại là số sản phẩm hư hỏng nhiều hơn so với lô thứ nhất. Khi Marta quay lại bàn làm việc thi những sản phẩm hư hỏng đã được xếp gọn lại trên giá, nhưng Cipriano Algor, nhẩm tính giữa thời gian tiết kiệm được so với số sản phẩm bị mất, đã quyết định không từ bỏ cách làm này dù ông không bao giờ lường hết trước và giải thích về những mưu mẹo của mình. Và ngày nọ nối tiếp ngày kia qua đi. Sau những người Eskimo là đến các anh hề xiếc, sau đó đến các cô y tá, rồi nhanh chóng đến phiên các vị quan Trung Quốc và những cư dân vùng Lưỡng Hà râu quai nón và cuối cùng là các anh hề, chính là những người ở gần tường cuối xưởng. Ngày thứ hai Marta xuống thị trấn để mua một tá giấy ráp. Cửa hàng này chính là nơi Isaura bắt đầu làm việc như Marta đã biết khi đi Marta chỉ cần dùng cọ để phết sơn thôi mà, Bố cũng hiểu cô ấy như con, hễ bố nhãng ra một tí là cô ấy sẽ chiếm ngay chỗ của bố ấy và khi bố nhận thấy chuyện gì đã xảy ra thì quá muộn mất rồi, Bố không biết mình sẽ ở phòng cung ứng mất bao nhiêu thời gian, bố sẽ hỏi về con ở đây hay vào trong đó tìm con, Bố đừng vào làm gì, không cần thiết đâu, con sẽ để chiếc mặt nạ ở chỗ bạn đồng nghiệp ngay cổng này đây, Tuỳ con thôi, Hẹn mươi ngày nữa gặp lại bố nhé, Mười ngày nữa gặp lại nhé, Bố ơi, nhớ chăm sóc Marta giúp con nhé, Ừ, bố sẽ chăm sóc nó, con cứ an tâm đi, con không yêu thương nó hơn bố được đâu, Con không biết liệu có thương cô ấy nhiều hay ít hơn bố hay không nhưng chắc là con thương yêu cô ấy theo cách khác, Marçal này, Bố nói đi, Con hãy ôm hôn bố đi. Khi ra khỏi xe, hai mắt của Marçal rơm rớm nước mắt. Cipriano Algor không đấm lên đầu mình, chỉ nhủ thầm trong bụng cùng với nụ cười mỉm buồn bã. Hoá ra một người đàn ông đã đến mức cầu xin một vòng tay ôm hôn, chẳng khác gì một đứa trẻ con thiếu tình thương yêu rồi ư. Ông nổ máy khởi động chiếc xe, cua một vòng quanh khu nhà, bây giờ đã rộng lớn hơn trước do sự bành trướng của Trung tâm, Không bao lâu nữa chắc chắn chẳng ai còn nhớ xem khu đất này trước đây là gì, ông nghĩ. Mười lăm phút sau, ông đưa xe xuống tầng hầm, trong lòng cảm thấy ngỡ ngàng như người vừa đi đâu lâu ngày nay mới quay lại nơi này, dù thấy không có gì thay đổi mấy. Sau khi báo cho nhân viên bảo vệ ở cửa biết mình đến hỏi công việc chứ không phải đến để dỡ hàng, ông đỗ xe ở mép đường. Đã có một dãy dài xe tải đang chờ, một số xe trông rất lớn, mặc dù phải còn đến hai tiếng nữa bộ phận tiếp nhận hàng hoá mới mở cửa làm việc. Cipriano Algor ngồi ngay ngắn lại và cố ngủ. Trước khi đi phải, ông nhìn lần cuối qua lỗ quan sát vào bên trong lò nung và thấy mẻ nung đã chín, bây giờ chỉ chờ cho lò tự nguội đi từ từ, tránh vội vàng giống như người tự đi trên chính đôi chân của mình. Để ngủ được ông bắt đầu nhẩm đếm số lượng búp bê như người ta thường đếm cừu, bắt đầu bằng số búp bê anh hề và ông đã đếm hết, sau đó chuỷên sang đếm các anh hề xiếc và đếm được toàn bộ, năm mươi búp bê loại này và năm mươi loại kia, số thừa ra dự phòng bù cho số bị hư hỏng thì ông không quan tâm đến, sau đó ông định quaysang đếm búp bê hình người Eskimo, nhưng không hiểu sao lại đếm các cô y tá trước,và trong cuộc chiến để đếm cho hết số lượng các cô y tá, ông đã ngủ thiếp đi lúc nào không biết. Không phải lần đầu tiên ông ngủ thiếp đi trong buổi sáng ở dưới đường xuống tầng hầm của Trung tâm, cũng không phải lần đầu tiên ông bừng tỉnh vì tiếng âm vang của động cơ xe tải. Ông xuống xe và đi về quầy đón khách, nói mình là ai, nói rằng mình đến để làm sáng tỏ một vấn đề, rằng mình muốn được nói chuyện với ông trưởng phòng cung ứng, nếu được. Đó là một vấn đề quan trọng, ông nói thêm. Người nhân viên nhìn ông với vẻ nghi ngờ, rõ ràng là cả vấn đề và cả con người vừa đi ra khỏi chiếc xe tải nhỏ cà tàng tự giới thiệu là thợ gốm kia chắc chẳng có gì quan trọng đâu, nên người nhân đã trả lời ngay là ông trường phòng rất bận rộn. Đang họp, anh ta nói cụ thể hơn, và còn bận suốt buổi sáng nữa, nên yêu cầu ông nói rõ đến đây để làm gì đi nào. Ông thợ gốm giải thích vấn đề cần nói, cũng không quên bịa ra chuyện đã nói chuyện qua điện thoại với ông trưởng phòng để gây ấn tượng mạnh hơn với người nhân viên, và cuối cùng ông cũng nghe thấy anh chàng kia nói, Tôi sẽ đi hỏi ông phó phòng. Cipriano Algor sợ rằng người đi ra đây sẽ là tay phó phòng xấu bụng đã làm cuộc đời ông cay đắng, nhưng viên phó phòng xuất hiện lần này lại là một người có giáo dục và lịch duyệt, chú ý lắng nghe và khen đó là một ý tưởng tuyệt vời. Thật là một cuộc gặp gỡ tốt đẹp, vâng thưa ông, rất tốt cho cả ông và còn tốt hơn đối với chúng tôi, trong khi các ông sản xuất lô thứ hai ba trăm sản phẩm và chuẩn bị cho việc sản xuất tiếp số sáu trăm còn lại, làm hai đợt, như trong trường hợp hiện nay, hoặc chỉ một đợt duy nhất, trong khi đó chúng tôi khảo sát mức độ tiếp nhận của công chúng khách hàng, những phản ứng đối với sản phẩm mới, những bàn tán công khai hoặc âm thầm, thậm chí chúng tôi còn có thời gian để tổ chức những cuộc thăm dò theo các hướng, thứ nhất, tình hình trước khi mua, tức là sự quan tâm, sự khao khát, nguyện vọng bột phát hay có định hướng của khách hàng, bước thứ hai, tình hình kết quả của việc sử dụng, tức là, sự thích thú khi sử dụng, ích lợi được thừa nhận, sự hài lòng, từ quan điểm cá nhân cũng như từ quan điểm một nhóm người, là của gia đình, một giới nghề nghiệp, hoặc bất cứ nhóm người nào khác, vấn đề, đối với chúng tôi hết sức cơ bản, chính là đánh giá xem nó có giá trị sử dụng hay khôngbằng, yếu tố biến động ra sao, yếu tố ổn định đến mức nào, yếu tố chủ quan, nó ở mức quá thấp hoặc quá cao so với giá trị trao đổi, Và khi chuyện đó xảy ra thì các ông sẽ làm gì, Cipriano Algor hỏi chỉ để mà hỏi, nên viên phó phòng trả lời với giọng pha chút mỉa mai, Thưa ông, tôi đồ rằng ông sẽ không khoanh tay ngồi chờ cho đến khi ở đây người ta phát hiện ra bí quyết của mật ong chứ, Tôi thường nghe nói là bí quyết của mật ong là không tồn tại trong thực tế, chẳng qua là người ta thần thánh hoá nó lên, một quan niệm sai lầm, một huyền thoại được thêu dệt lên, một câu chuyện tưởng là thật mà không phải là thật, Ông có lý đấy, bí quyết của mật ong là không có thật, nhưng chúng tôi biết nó. Cipriano Algor rút lui cứ như mình là nạn nhân của một cuộc tấn công bất ngờ. Viên phó phòng hài lòng nhấn mạnh rằng ý tưởng là tốt, rất tốt, rằng ông ta sẽ chờ lô hàng đầu tiên rồi sau đó sẽ thông báo cho ông thợ gốm các tin tức tiếp theo. Buồn bã, đầy cảm giác bị đe doạ, Cipriano Algor bước vào trong xe và đi ra khỏi tầng hầm. Câu nói cuối cùng của viên phó phòng cứ nhảy múa trong đầu ông, Bí quyết của mật ông không có thật, nhưng chúng tôi biết nó, không có thật, nhưng chúng tôi biết nó, chúng tôi biết nó, chúng tôi biết nó. Ông đã nhìn thấy một chiếc mặt nạ rơi xuống và nhận thấy đàng sau lại có một chiếc khác giống y như vậy, ông đã hiểu rằng những chiếc mặt nạ tiếp theo cũng giống hệt như những chiếc đã rơi xuống, đúng là bí quyết mật ong không có, nhưng bọn họ biết nó. Ông không thể nói nỗi băn khoăn lo lắng của mình cho Marta và Marçal được bởi vì chúng sẽ không thể hiểu, và chúng sẽ không thể hiểu được vì chúng không ở đó cùng với ông, ở phía bên ngoài quầy tiếp khách, nghe viên phó phòng giải thích thế nào là giá trị trao đổi và giá trị sử dụng, có lẽ bí quyết mật ong chính là tạo ra và phát triển những biện pháp khuyến khích và gợi ý trong khách hàng đủ để những giá trị sử dụng dần dần nâng cao về mặt danh tiếng, bước kế tiếp ngay sau đó là sẽ là nâng cao những giá trị trao đổi, được nhà sản xuất áp đặt một cách tinh tế cho người tiêu thụ khiến họ mất dần thói quen tự vệ trong người, tức là mất đi ý thức về bản thân mình vốn đã từng cho họ, dù ở mức độ thấp, chút ít khả năng để chống trả và giữ quyền tự chủ. Sở dĩ phải giải thích tỉ mỉ và rối rắm bởi vì là vì Cipriano Algor vốn chỉ là một người thợ gốm đơn thuần, chẳng có nổi bất cứ một bằng cấp xã hội học nào và chưa bao giờ được học về kinh tế, thế mà ông ta đã dám với cái đầu nhà quê của mình, chạy theo một ý tưởng để cuối cùng phải tự thừa nhận, do thiếu ngôn từ thích hợp và do tính mù mờ lấp lửng trong những khái niệm mà người kia đã dùng, không thể chuyển nổi sang thứ ngôn ngữ đủ khoa học khải dĩ khiến ta dễ hiểu hơn, tóm lại, ông chỉ hiểu theo cách của mình những điều người kia nói theo cách của ông ta. Lúc này Cipriano Algor chỉ còn nhớ đến sự rối rắm của cuộc đời và sự rối rắm trong việc hiểu đời sống, khi đến phòng cung ứng của Trung tâm để đặt ra câu đơn giản nhất trong các câu hỏi và ra khỏi đó với câu phức tạp và tối tăm nhất trong số các câu trả lời, thế cho nên việc ông bị lạc trong cái mê hồn trận của chính đầu óc mình là một lẽ đương nhiên thôi. Nhưng ít nhất thì cũng cứu vớt được ý định ban đầu. Để tự bào chữa, Cipriano Algor có thể sẽ viện cớ rằng mình đã làm hết sức trên cương vị một người thợ gốm để cố giải mã ý nghĩa được che giấu dưới những câu chữ bí hiểm của viên phó phòng luôn tươi cười kia, và thậm chí ông cũng tự thấy rõ ràng là mình chẳng giànhiểu được điều gì cả, rằng con đường mà mình đi có lẽ chẳng đưa đến đâu. Những chuyện này chẳng biết để cho ai đây, Cipriano Algor tự nghĩ, không thể nào để im được những băn khoăn ở trong lòng. Dù sao thì chúng ta cũng có thể nói, những kẻ khác làm ít hơn mà lại tự phụ hơn. Cái hộp mà Marçal gửi lại người gác cổng đựng hai chiếc mặt nạ, chứ không phải là một, để đề phòng hệ thống lọc khí của một trong hai chiếc bị hỏng, thư gửi kèm nói vậy. Và một lần nữa lời đề nghị Bố nhớ chăm sóc Marta hộ con nhé. Gần như đã đến giờ ăn trưa, thế là mất cả buổi sáng, Cipriano Algor nghĩ, và nhớ ngay đến công việc làm khuôn, đến việc nhào đất sét đang đợi mình, đến chiếc lò nung đã dần dần nguội, đến dãy những con búp bê xếp trong lò. Sau đó, khi đã đi được đến nửa đại lộ, quay lưng với bức tường của Trung tâm có hàng chữ, QUÝ VỊ LÀ KHÁCH HÀNG TỐT NHẤT CỦA CHÚNG TÔI, NHƯNG, XIN QUÝ VỊ ĐỪNG NÓI ĐIỀU NÀY VỚI HÀNG XÓM CỦA MÌNH được viết một cách ngạo mạn đến nực cười, nói lên tỷ lệ hợp lý giữa tòng phạm vô ý thức của thành phố với sự lừa dối có ý thức đang điều hành và nuốt chửng tất cả, thì cũng là lúc Cipriano Algor nảy ra ý nghĩ trong đầu hoá ra không chỉ mất cả buổi sáng nay, mà những câu nói châm chọc của viên phó phòng cũng làm biến mất, tất cả những gì thực sự còn lại trên thế gian mà ông đã học được và đã quen sống, thế là từ hôm nay mọi thứ chỉ là bề ngoài, ảo tưởng, vô nghĩa, những câu hỏi không có trả lời. Thật muốn đâm sầm chiếc xe vào một bức tường nào đó, ông nghĩ. Ông tự hỏi tại sao trước đây mình chưa làm điều này và có thể là không bao giờ mình sẽ làm, sau đó ông tự điểm lại các lý do. Mặc dù đây mới còn nằm trong phạm vi phân tích, ít nhất cũng là về nguyên tắc, thì những người tự tử trước hết phải flà những người không muốn sống, lý do đầu tiên trong số các lý do mạnh mẽ nhất khiến Cipriano Algor không tự tử chính là việc ông còn đang muốn sống, và tiếp ngay sau đó xuất hiện Marta, con gái ông, luôn gắn liền với cuộc sống của cha, nên cũng có thể coi hai lý dó là một, sau đó là xưởng gốm, lò nung, và còn cả anh con rể Marçal nữa, đương nhiên rồi, anh ta đẹp trai và rất yêu thương Marta và Achado, mặc dù nhiều người thấy đưa chó vào diện này là chuyện vớ vẩn vì về khách quan họ không thể nào giải thích được rằng ngay một con chó cũng có khi đủ sức giữ một người ở lại với cuộc đời, và còn nữa, và còn nữa, và còn gì nữa nào, Cipriano Algor không thể tìm thêm được các lý do khác, tuy nhiên ông có cảm tưởng vẫn còn thiếu một nguyên nhân nữa, gì nhỉ, gì không phải nhỉ, bỗng nhiên, không hề báo trước hồi ức của ông bỗng tung ra trước mặt cái tên và gương mặt của người phụ nữ đã mất, tên và gương mặt của Justa Isasca, tại sao thế, Cipriano Algor đang tìm những nguyên nhân khiến mình không lái xe đâm vào tường cơ mà, và ông đã điểm được lượng và chất đủ rồi, này nhé, bản thân ông, Marta, giải thích gốm, lò nung, Marçal, con chó Achado và ngoài ra còn có cây dâu ông quên chưa nhắc đến, thế thì sẽ hết sức vô lý và lý do cuối cùng, cái lý do bất ngờ mà sự tồn tại chẳng khác gì chỉ là một chiếc bóng hay một sự khiêu khích, lại chính là người đã không còn thuộc thế giới này nữa rồi, đúng là không phải là một ai khác, mà chính là người phụ nữ mà ông đã từng cưới làm vợ, người đã từng làm việc cùng với ông, người mẹ của con gái ông, nhưng,dù là thế, dù có năng lực biện chứng tài tình đến đâu thì cũng khó mà biện bạch được rằng hồi ức về một người đã chết lại có thể là lýdo khiến một người sống muốn tiếp tục sống. Một người yêu thành ngữ, tục ngữ, châm ngôn và các cách nói dân dã khác có thể nói rằng ở đây có con mèo bị nhốt nhưng đuôi vẫn thò ra ngoài. Xin lỗi về sự so sánh khập khiễng và bất kính này, chúng tôi muốn nói là cái đuôi của con mèo, trong trường hợp đang xem xét đây, chính là bà Justa, và để gặp được cái còn thiếu của con meo thì chỉ cần vòng qua góc tường kia thôi. Cipriano Algor sẽ không làm điều này. Tuy nhiên, khi về đến thị trấn, ông sẽ để xe lại trước cửa nghĩa trang nơi ông chưa hề quay lại lần nào kể từ hôm đó, và ông sẽ đi đến mộ của vợ. Ông sẽ ở đó một lúc để suy nghĩ, có lẽ để cảm ơn, có lẽ để hỏi, Tại sao em lại xuất hiện, có lẽ nghe hỏi, Tại sao em lại xuất hiện, sau đó sẽ ngẩng đầu và sẽ nhìn xung quanh như tìm ai đó. Dưới ánh nắng này, vào giờ ăn trưa, thì chắc sẽ không thể thấy ai.