Cựu hoàng lặng lẽ thắt dây giầy cao su. Ông cẩn thận vuốt thẳng đôi bít tất ngắn trắng. Trái với đối thủ, thay quần áo trong phòng dành riêng ở góc vườn, ông thay quần áo luôn trong buồng ngủ. Một gian phòng đẹp, rộng rãi, thiết bị nội thất theo phong cách âu châu, một tủ quần áo mô-đéc, một tủ đựng khăn, mũ, chân tủ cẩu kỳ. Chiếc giường rộng không có nệm êm như giường nằm ở điện Kiến Trung ở Huế hay ở Hà Nội, nhưng mệt vì chuyến đi xa làm cho ông quên đi độ cứng của cái giường. Vả chăng lúc nầy đang có chiến tranh dù rằng nhìn từ Park Hotel, một khách sạn bị lãng quên ở miền Nam Trung Quốc, những cuộc chiến đấu dường như lùi xa vào quá khứ. Bảo Đại đứng dậy, như cái máy, nhìn vào chiếc gương đứng để kiểm tra bộ đồ của mình. Ông chăm chút dáng chiếc quần vải, chiếc áo sơ mi cộc tay, chọn một cặp kính râm rồi xuống sân quần vợt. Nghiêm Kế Tổ đối thủ quần vợt của ông đang đợi. Họ trao đổi vài đường ban. Xung quanh dọc hàng rào mắt cáo ngăn sân quần vợt với bãi trước khách sạn, một toán lính Quốc dân đảng canh gác, uể oải như thờ ơ với cảnh khác thường đang diễn ra. Mấy tháng trước đây, không ai chơi ban ở đây. Đã phải dọn dẹp, loại bỏ những đồ linh tinh, ngổn ngang, ghế đẩu, ghế dài, những vỏ chai. Khách sạn lại tìm lại được ít nhiều vẻ lộng lẫy của nó với sự xuất hiện của người khách du lịch không chờ đợi nầy. Hai người chơi lên lưới. Chiếc vợt của Bảo Đại dựng trên đầu vợt, xoay tròn như một chiếc cù rồi đổ xuống. Bảo Đại được giao ban. Ông bước đến cuối sân sau vạch sơn, đánh một quả ban rất mạnh. Tiếng đập rất căng vào lưới vợt đánh thức khu vườn bao quanh. Lẩn nầy bọn lính Quốc dân đảng chăm chú theo dõi các đường ban. Hai người chơi tốt, thẳng cánh không e dè. Dù hơi mập, Bảo Đại hầu như chiếm lĩnh sân, lên lưới mỗi khi có thể. Gần như một trận đấu của nhà chuyên nghiệp đến mức lính Quốc dân đảng xuýt xoa thở dài mỗi khi tính điểm hai trái ban đánh lỗi. Không còn phân biệt ai là cựu hoàng, ai là bạn chơi mà chỉ là hai đối thủ mải mê quần nhau qua đường ban, bất chấp thời gian và lịch sử. Hai bên ngang sức ngang tài nên những người Trung Quốc không hề nói gì đến kết quả trận đấu. Điều bất ngờ cho tất cả là sự có mặt của một người trẻ tuổi cao lêu đêu theo dõi cảnh tượng từ trước ban công của khách sạn. Ông ta không giống lính Quốc dân đảng cũng không giống hai đối thủ quần vợt trên sân. Cao to, tóc cắt ngắn, quần áo sẫm màu, ông theo dõi không mỉm cười vũ điệu của hai bóng trắng. Người ta gọi ông là Hương, Hà Phú Hương, một nhân vật nổi tiếng, thoát nạn từ nhà ngục Kontum trở về. Hương là một trong hai trăm ba mươi tù nhân của nhà ngục nầy, gồm công nhân, nông dân, sinh viên, phần lớn là tù chính trị. Chúa ngục là Palméséani. Hương bị đày vào đây sau những cuộc biến loạn năm 1930. Cao trào cách mạng năm 1930 đã bị dìm trong bể máu trong những vụ đàn áp tàn khốc chưa từng có, thực hiện bằng lưỡi lê, bằng súng liên thanh, đôi khi bằng cả đại bác. Để đếm tù Palméséani gõ một chiếc ba toong vào đầu mỗi tù nhân, miệng đếm một hai ba, v.v... Những kẻ bị hạ ngục có nhiệm vụ hoàn thành xây dựng một con đường thuộc địa 14, từ Dakpao đến Dakxut, trong sáu tháng từ tháng chạp năm 1930 đến tháng sáu 1931, một trăm bảy mươi tù nhân bỏ mạng. Không phải vì khí hậu vì sốt rét mà bị giết. Palméséani loại bỏ những ai không chịu đựng nổi nhịp độ tiến trình công việc. Ngày 12 tháng Chạp năm 1931, tù khổ sai từ chối không chịu rời ngục Kontum đi Dakpek nơi họ bị chết nhiều, lính canh ngục liền nổ súng. Mười sáu người chết trong số những người cứng đầu nhất. Lịch sử không nói cuối cùng họ có chịu đi không. Chính quyền Pháp biết tất cả những sự kiện đó. Ngay sau khi Việt Minh cướp chính quyền, Hương thoát ngục trở về tham gia ngay công tác cách mạng là uỷ viên phụ trách văn hoá và tuyên truyền trong Uỷ ban nhân dân Trung Bộ. Tháng 3 năm 1946 ông được triệu tập đến dinh chủ tịch chính phủ tại Bắc Bộ phủ, trước đây là dinh thống sứ Bắc Kỳ. Ông đến bằng xe đạp, phương tiện đi lại quen thuộc của ông. Giáp, người bạn học cũ tại trường Quốc học Huế, đón tiếp ông và đưa đến gặp chủ tịch Hồ Chí Minh. Mặc dầu cấp bậc khác nhau, do công việc bận rộn, những năm đau yếu, hôm nay lần đầu tiên người cựu chính trị phạm nhà ngục Kontum mới gặp lại bạn cũ. Ông Hồ Chí Minh nói với Hương: "Anh phải đi Trùng Khánh gặp Tưởng Giới Thạch nói với ông ta rằng chúng ta cần vũ khí để đánh đuổi quân Pháp". Ông Hồ giải thích thêm: quân Pháp đã chiếm Nam Bộ, đang đe doạ Hà Nội. Ông Hương kinh ngạc vì lời yêu cầu, vì sự tín nhiệm của chủ tịch Hồ Chí Minh. Chủ tịch đã giao phó cho ông sứ mệnh quan trọng nầy. Ông chẳng biết gì về chính trị đối ngoại, về những chuyến công cán ngoại giao. Nhưng ông biết rằng thời gian cấp bách và hiểu rằng vị lãnh tụ cách mạng tìm cách phân hoá Trung Hoa và Pháp, lúc nầy đang thoả hiệp thu xếp với nhau trên lưng Việt Minh. Hôm sau, ý thức sâu sắc tầm quan trọng của sứ mạng của mình, Hương trở lại phủ chủ tịch thì gặp một nhóm người, nguồn gốc chính trị rất khác nhau, người ta bảo sẽ đi với ông. Có những bộ trưởng cộng sản, cả những người của các đảng phái quốc gia thân Trung Quốc. Thời đó, chính phủ "liên hiệp quốc gia" tập hợp những người có ý thức hệ rất khác nhau. Dù có những cuộc hội họp, đón tiếp, nhưng chính là nhờ đài phát thanh Pháp mà ông Hương được biết cố vấn Vĩnh Thuỵ cũng tham gia phái đoàn. Ông không ưa cựu hoàng lắm nhưng cũng hiểu cựu hoàng không phải cùng loại với những người kia. Chuyến đi bắt đầu bằng ôtô ra phi trường. Chiếc Packard mang từ Huế ra, lại lăn bánh chở chủ cũ và những người cách mạng trong chuyến đi không biết trước nầy. Hàng ghế sau hơi chật, Nguyễn Công Truyền, một quan chức Việt Minh, uỷ viên phụ trách tuyên truyền trong Uỷ ban nhân dân Bắc Bộ và Hà Phú Hương ngồi cạnh Bảo Đại. Nghiêm Kế Tổ, người của Quốc dân đảng, thứ trưởng Ngoại giao làm trưởng phái đoàn trên danh nghĩa, sau khi Bảo Đại từ chối không nhận làm trưởng đoàn, sẽ đi sau. Dù còn trẻ nhưng Hương vừa trải qua mười hai năm cấm cố trong xà lim, cổ đeo gông nối với hai chiếc xiềng quanh mắt cá chân khiến cho ông không đứng thẳng được. Ông nổi tiếng là một tù chính trị ngoan cường với kỷ luật hà khắc trong nhà tù thực dân. Trên xe ra phi trường cố vấn Vĩnh Thuỵ thổ lộ với hai bạn đồng hành, khiến họ sửng sốt: "Tôi chủ yếu là đi du lịch". Ông ăn mặc tề chỉnh, sang trọng. Một người đi du lịch, tại sao không. Ngoài câu nói trên theo thói quen, ông không nói gì thêm. Phái đoàn lên máy bay từ phi trường Hà Nội tới Côn Minh trên chiếc máy bay DC-3 chen chúc đám quân nhân Trung Hoa, lỉnh kỉnh hòm xiểng. Trừ ông Vĩnh Thuỵ cũng biết lái máy bay lại dày dạn trong chuyến đi xa bằng máy bay, còn với những người khác thì đây là lần đầu tiên họ đi máy bay. Côn Minh chỉ là một trạm trung chuyển. Một quả đồi của Vân Nam, cao hơn hai nghìn mét trên mặt biển. Một khách sạn bị cuộc nội chiến làm hư hại. Họ tạm trú ở đây để chờ thiện ý của Tưởng Giới Thạch. Tưởng thống chế để mấy ngày mới trả lời. Nghiêm Kế Tổ từ trong nước đi sau đã theo kịp họ ở đây. Không khí trong đoàn thiếu cởi mở đầm ấm. Họ không nói gì với nhau trong cuộc họp chung toàn đoàn, chỉ trao đổi riêng từng nhóm quen biết nhau. Giờ phút trôi qua chậm chạp. Vĩnh Thuỵ, không bỏ lỡ thời cơ, qua đêm với một cô hầu buồng của khách sạn. Ban ngày ông lại mặc quần áo trắng chơi quần vợt dưới con mắt sững sờ của ông Hương. Bảo Đại, từ nay ta lại trở lại với cái tên quen thuộc của nhân vật, lại thắng ván nữa. Nghiêm Kế Tổ chạy bở hơi tai từ đầu nầy đến đầu kia của sân quần để ứng phó cũng không lại được với Bảo Đại. Cựu hoàng vẫn giữ nguyên vẻ phớt lạnh chỉ hơi đổ mồ hôi, dù trời nắng. Sau trận đấu họ đi tắm. Khách sạn được xây dựng cạnh một suối nước nóng cách đó khoảng bốn mươi cây số. Lần nầy chỉ có hai người với nhau. Không có lính Trung Quốc, không có hai ông cán bộ Việt Minh khắc khổ thường tham dự vào cuộc kiểm điểm của họ. Sau khi tắm là ăn trưa. Bí thư trưởng của tướng Lư Hán, người đã dẫn một trăm sáu mươi ngàn quân Trung Hoa vào Việt Nam mời một bàn tiệc trưa. Chỉ có Bảo Đại đến một mình không ai tháp tùng ông. Cuộc chờ đợi ở Côn Minh bảy ngày. Trong khi Bảo Đại, Nghiêm Kế Tổ, vui thú quần vợt, tắm suối nước nóng thì ông Hương không hề từ bỏ vẻ mặt cứng rắn của ông. Có một người khác cũng cảm thấy khó chịu. Đó là lãnh sự Pháp tại Côn Minh. Ông không hiểu gì về chuyến đi của cựu hoàng. Ông ta đi tị nạn hay trái lại tham gia một phái đoàn chính thức như người ta nói(1). Viên lãnh sự điện về nước một bài trả lời phỏng vấn của ông Hương với một tờ báo địa phương:"Người ta nói rằng cựu Hoàng đế Bảo Đại không bằng lòng chính phủ Hồ Chí Minh? Không. Ông hoàn toàn tán thành những biện pháp của chính phủ. Nếu người Pháp không tôn trọng hiệp định sơ bộ mồng 6 tháng 3, không trao trả độc lập cho các ông, thì các ông sẽ làm gì? Trả lời: Chúng tôi sẵn sàng chiến đấu và sẵn sàng hy sinh một triệu người"(2). Cuối cùng một chiếc máy bay DC-3 đưa họ lên Trùng Khánh, một thành phố ba triệu dân, nơi chính phủ Trung Hoa đóng. Ở đây trong khách sạn mới "Bốn mùa", Bảo Đại được bố trí một phòng rộng có phòng tiếp khách riêng, trong lúc Nguyễn Công Truyền và Hà Phú Hương chung nhau một phòng nhỏ. Họ còn phải chờ đợi mấy hôm nữa. Cuối cùng văn phòng chính phủ yêu cầu cựu hoàng chỉ một mình ông đến nói chuyện với thống chế họ Tưởng. Người ta hỏi Bảo Đại, người đi du lịch, có phải đúng ông cầm đầu phái đoàn không? Bảo Đại từ bỏ cây vợt đến dinh thống chế. Vẻ uy nghiêm của dinh thự Tưởng Giới Thạch khiến ông nhớ lại cung điện vàng son của ông trong Tử Cấm thành Huế. Những nghi thức trọng thể dành cho ông, mà tại Hà Nội có đôi chút lãng quên, chứng tỏ người Trung Quốc coi sự thoái vị chỉ là một giai đoạn. Một chiếc xe công đến khách sạn đón và đưa ông đến trụ sở chính phủ. Ông được các nhân vật cao cấp Quốc dân đảng mời ăn trưa. Cựu hoàng không tiết lộ với các bạn đồng hành nội dung của những cuộc trao đổi. Sau nầy ông tâm sự với một nhân viên mật vụ Pháp: "Người ta cho tôi biết chính phủ Việt Nam, một mặt cử tôi đi thực hiện một sứ mạng hữu nghị với Trung Hoa thì đồng thời cũng cử một phái đoàn đi gặp đại sứ Xô viết. Tưởng Giới Thạch rất bất bình. Trong thực tế, chính là Mạc Tư Khoa chỉ huy mọi công việc hiện nay ở Hà Nội"(3). Ông Hương, người phát ngôn chính thức của phái đoàn, rốt cuộc được mời dự một cuộc hội đàm với những người lãnh đạo Quốc dân đảng Trung Hoa. Cuối cùng do Bảo Đại yêu cầu khẩn thiết, toàn thể thành viên trong phái đoàn được các cố vấn của Tưởng Thống chế tiếp trong một ngôi chùa để buổi hội kiến không có tính cách chính thức vì người Trung Hoa không muốn tiếp chính thức những nhân vật cộng sản. "Các ngài có thể cung cấp vũ khí cho chúng tôi hoặc giúp chúng tôi chiến đấu với người Pháp không?". Ông Hương nêu câu hỏi. "Sau khi Nhật đầu hàng, chúng tôi có quá nhiều vấn đề phải giải quyết. Hơn nữa tất cả những phương tiện chúng tôi có trong tay đều cần để cầm chân quân đội của Mao Trạch Đông. Chúng tôi không có phương tiện để gíúp các ông". Sự từ chối là dứt khoát nhưng đài phát thanh Pháp nhắc lại: "Một phái đoàn quan trọng của chính phủ cách mạng đã gặp Tưởng Giới Thạch". Thông báo nầy hình như để tỏ ra rằng mối dây liên hệ giữa nước Pháp và Trung Quốc không chặt chẽ như người ta tưởng. Chính phủ Hà Nội ra sức tuyên truyền, quảng bá rộng rãi tin nầy. Nó cũng đáng giá cho chuyến đi nầy, Hồ Chí Minh không mong gì hơn thế. Buổi tối Bảo Đại được tự do nhưng có kiểm soát. Người Trung Hoa không để cho ông được tự do sống cuộc sống ban đêm của ông dù rằng, mặc dù trong thời chiến, Trùng Khánh không thiếu trò tiêu khiển hấp dẫn. Có nhiều cạm bẫy, người Pháp có thể bắt cóc ông. Cuối cùng, khi người Trung Hoa nhận thấy cựu hoàng không thể nhịn những cuộc đi ra ngoài phố đó, họ phái đến cho ông một cô gái gọi. Cô nầy ngày đêm không rời ông nữa. Chuyến đi và những cuộc thương thuyết của Bảo Đại với thống soái gây ra một mối băn khoăn lớn trong các nhân viên mật vụ đang giám sát thành phố Trung Quốc. Báo cáo của họ mâu thuẫn lung tung. Cựu hoàng đi Trung Hoa chính xác vì lý do gì, cho ai? Đây là một đề tài nghiên cứu thú vị của giới tình báo. Lúc đầu, cơ quan mật thám Pháp báo tin, ông sang Trung Quốc để đạt được việc rút ba mươi nghìn quân được gửi sang Việt Nam để chống lại quân đội do Paris gửi sang. Sau đó họ lại khẳng định: ông sang để thương lượng vay hai mươi triệu đồng của các nhà tài chính Mỹ do Tưởng Giới Thạch giới thiệu. Theo một loạt nguồn tin khác, nguồn tin nào cũng nói là có nguồn đáng tin cậy, Bảo Đại suýt nữa thành nạn nhân của một vụ mưu sát ở Côn Minh, ông không ngừng kêu gọi sự can thiệp của các cường quốc đồng minh công nhận ông là chủ tịch chính phủ Việt Nam thay thế Hồ Chí Minh đã bị cộng sản Pháp mua chuộc. Một tin khác: cựu hoàng tìm cách bán cho Trung Quốc các mỏ than ở Hồng Gai để lấy súng đạn, điều chắc chắn là Nhà vua trẻ đã nhiều lần tiếp xúc với đại sứ quán Hoa Kỳ. Ông mong Washington sẽ vào cuộc và người Mỹ sẽ chấp nhận làm trọng tài giữa nước Pháp và Việt Nam mới. Thời kỳ Nhà vua phải mưu mẹo mới mua được quyển album dán tem đã xa rồi. Chiến tranh và cách mạng đã khiến ông trở nên quan trọng. Không phải do hành vi của ông hay sự lựa chọn đã chứng tỏ sự sáng suốt nhìn xa trông rộng của ông. Nhưng từ nay ông cân nhắc các sự kiện và mánh khóe. Con người ông chứa đựng một mớ hỗn tạp nhập nhằng. Có lúc ông thật sự là một thanh niên cường tráng lúc nào cũng mang một nỗi phiền muộn triền miên. Hình ảnh ông mờ nhạt. Hơi mềm yếu. Hình như ông để cho các sự kiện kéo đi mà không có chính kiến, hay không có cả nghị lực vững vàng. Hình như ông để mặc cho ngọn gió đẩy ông theo chiều hướng tốt. Đến lúc phải trở về, cựu hoàng thông báo thẳng thừng với các thành viên trong phái đoàn "Tôi ở lại, tôi sẽ đi du lịch". Ông thêm: "Nếu gặp vợ tôi, nhờ các ông nói giúp tôi khỏe". Hà Phú Hương nổi giận, không giữ được những điều kìm nén trong lòng từ lúc ra đi: "Thưa ngài, ngài chỉ nghĩ đến ăn chơi, gái và cờ bạc". Cựu hoàng mỉm cười nhưng không nói gì. Nhận xét của ông Hương đâu có sai sự thật. Chuyện nầy do Hương thuật lại, chuyện kể chắc có thể khác nếu mấy tháng sau Bảo Đại không chống lại những người cộng sản. Rõ ràng là cựu hoàng không trở về với gia đình. Một học sinh trốn học. Một vấn đề chính trị cao siêu hay đơn giản chỉ là lo cho sinh mạng không bảo đảm an toàn, nếu trở về với cách mạng là vấn đề an toàn. Bỏ trốn hay chỉ là vắng mặt, vấn đề nầy ông đã lưỡng lự lẩn tránh từ khi cách mạng nổ ra, bây giờ ông mới giải quyết. Quyết định của cố vấn khiến mọi người sửng sốt. Phái đoàn Việt Nam nghe Bảo Đại nói vậy tưng hửng như từ trên cao rơi xuống. Muốn hay không, đoàn cũng phải rời Trung Hoa về nước. Ngoài Bảo Đại, Nghiêm Kế Tổ cũng ở lại không chịu về. Từ sau hiệp định 6 tháng 3, quân Pháp thay thế quân Trung Hoa lo giải giáp và hồi hương quân Nhật. Quân của tướng Lư Hán rút khỏi miền Bắc, các đảng phái đội lốt quốc gia chống phá cách mạng mất luôn chỗ dựa. Chính phủ nhân cơ hội nầy thẳng tay trừng trị chúng, giải tán các toán vũ trang, xoá bỏ chính quyền ly khai ở một số tỉnh. Ông Hương và Nguyễn Công Truyền trở về Hà Nội để báo cáo với chủ tịch Hồ Chí Minh. Biết nói gì đây? Một cuộc chạy trốn, một sự đào ngũ hay chỉ là ý muốn ngông cuồng đi du lịch? Kể lại có ích gì. Bình thường ra, phái bộ đi Trung Hoa sẽ phải có một người ở lại Trung Hoa là đại diện như trong quyết định của hội đồng chính phủ trong phiên họp ngày 11 tháng 3 năm 1946. Nhưng người đó là ai? Hồ Chí Minh chắc chắn biết trước ý định của ông cố vấn tối cao. Ông có viết thư cho Bảo Đại bảo ông ta ở lại chờ lệnh mới không? Không ai khẳng định điều nầy. Ngoài mặt ông tỏ ý tiếc sự lựa chọn của Bảo Đại. Tuy nhiên nhịp cầu không vì thế bị cắt đứt. Hơn thế nữa, Hồ Chí Minh còn thuyết phục chính phủ gửi cho Bảo Đại một số tiền để ông ta có thể trở về nước trong trường hợp ông muốn trở về. Trong thực tế, ông cố vấn tối cao không còn một xu dính túi. Tiền vợ nhờ chuyển cho chẳng còn gì, tiền nằm trong tài khoản của ông ở nhà băng Đông Dương bị phong toả. Muốn sống ở Trung Hoa ông phải vay nợ. Lúc đầu ông vay của một người Tàu tên là Wong Phu. Ba năm sau, khi ông lại được làm quốc trưởng, người Tàu nầy gõ cửa đòi nợ. Ông vay của Lý Lệ Hà, cô nhân tình đã lặn lội sang Trùng Khánh theo ông, chia sẻ ngày đêm với ông và mở hầu bao. Bảo Đại lao vào các cuộc thương thảo với người Trung Hoa và Pháp. Ông sống nhờ vào tiền tiết kiệm của nhân tình. Sau nầy ông còn được một người Trung Hoa khác bao ông. Zing Tsong Phao, một nhân viên tình báo Trung Hoa-Mỹ, người đã tiễn ông ở Côn Minh. Bảo Đại đi rồi, dù báo chí Hà Nội không có bài nào lên án hành động phản bội của ông nhưng đây đó những tin đồn về nguồn gốc đáng ngờ của ông được nhắc lại truyền tai nhau. Những chuyện xấu xa về tư cách ông được bàn tán, lan rộng khắp phố phường Hà Nội. Chú thích: (1) Hồ sơ lưu trữ bộ Ngoại giao Pháp. (2) Yunnan Ye Pao - Vân Nam Nhật báo, số ra ngày 24 tháng 3 năm 1946. (3) Hồ sơ lưu trữ bộ Ngoại giao Pháp - Vụ Á - Châu Đại Dương,