Thắng lợi của quân Pháp chỉ là tạm thời. Bộ đội Việt Minh tưởng như tan rã, tan biến vào vùng rừng núi, nhưng vài ngày sau lại xuất hiện. Họ chiến đấu bền bỉ, kiên quyết, không hề lay chuyển trước muôn vàn khó khăn. Không bao giờ có thể tiêu diệt được họ dù có gây cho họ những thất bại tạm thời lúc đầu. Còn quân viễn chinh Pháp, chẳng mấy chốc đã tăng quân số tới một trăm nghìn người gồm cả lính Âu, Bắc Phi, nguỵ quân người Việt được Pháp trang bị. Họ chỉ làm chủ được các thành phố, thị trấn, đường cái lớn, những địa điểm quan trọng, xây dựng hệ thống cứ điểm, boong-ke, tháp canh để bảo vệ vùng kiểm soát. Nhưng quanh họ là những vòng vây, tầng tầng lớp lớp... Họ chỉ làm chủ được ban ngày còn ban đêm bộ đội, du kích Việt Nam mặc sức tung hoành bất chấp pháo sáng, vũ khí hơn hẳn của đối phương. Lê dương Bắc Phi, lính dù hết thảy đều kinh hoàng... Một mối lo sợ âm ỉ, kéo dài, phát sinh ngay từ sau những cuộc giao chiến đầu tiên, mỗi ngày một tăng lên sau những cuộc đụng độ đẫm máu để lại những xác chết của đồng đội thu nhặt được mỗi sớm mai. Quân Nhật, quân Anh, quân Trung Hoa, tất cả đều đã rút về nước. Từ đây chỉ còn hai địch thủ Việt và Pháp đối mặt nhau. Chiến sự lan rộng khắp nước. Mỗi thị trấn, mỗi mảnh ruộng đều có thể là nơi diễn ra một trận phục kích, là mục tiêu của một trận pháo kích bằng súng cối. Trên mỗi đoạn đường nhỏ có thể có bẫy chông, làm bằng tre già rắn như thép sắt xuyên thủng da thịt. Hai thành phố Hà Nội và Sài Gòn được xem như những thủ đô thời chiến. Tại đây không xa mặt trận bao nhiêu, nhưng cuộc sóng khá hẳn. Tiền bạc từ Pháp rót sang để chi trả cho cuộc tái chiếm thuộc địa tràn ngập khắp các phố phường, các hiệu buôn. Các công ty vận tải, những nhà buôn, nhà ngân hàng và cả những nhà chứa là những nơi tiền vào như nước... Trong lúc người Pháp lẫn người Việt yên vị trong cuộc sống sung túc và nguy hiểm nầy thì một sự thật đập vào mắt: không thể đè bẹp đối phương, không hy vọng một thắng lợi quyết định, dứt khoát bằng giải pháp thuần tuý quân sự. Việt Minh, được đa số dân chúng ủng hộ tự nguyện hay không tự nguyện, là một đối thủ quá vững chắc, rất khó nắm bắt. Hồ Chí Minh và chính phủ của ông đã rời khỏi Bắc Bộ phủ ở trung tâm thành phố Hà Nội, phân tán các cơ quan lãnh đạo ra từng bộ phận nhỏ và di chuyển đến vùng tứ giác tây bắc thủ đô và nam đồng bằng sông Hồng để tiến hành cuộc chiến tranh du kích kinh điển hầu như không thể dập tắt được. Bộ chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp cũng phải thú nhận không đủ lực lượng giành chiến thắng quân sự. Có nên thương lượng không? Nhất định là phải thương lượng để tìm ra một giải pháp, nhưng lập trường hai bên còn xa nhau quá. Paris không chấp nhận cho sự độc lập của Việt Nam mà chỉ nói sẽ dành cho Việt Nam quy chế một Quốc gia Liên kết dưới sự kiểm soát của họ. Trong lúc Việt Minh coi Pháp là xâm lược nên đòi trước hết phải tôn trọng chủ quyền hoàn toàn và trọn vẹn của Việt Nam. Chiến tranh sẽ kéo dài và nhất là bộ tổng chỉ huy Pháp không nhận ra được chung cuộc sẽ như thế nào. Ý kiến của họ thay đổi tuỳ theo những người nắm quyền hành ở Paris. Những người thuộc đảng xã hội mong muốn tìm ra một giải pháp thoả thuận với Hồ Chí Minh, dù có sự kiện đêm 19 tháng chạp năm 1946 và cuộc đụng độ quyết liệt đang diễn ra. Trái lại, những người lãnh đạo Phong trào Cộng hoà bình dân (MRP), nay mai sẽ đứng ra thành lập chính phủ từ chối không thương lượng với chính phủ "cộng sản", hy vọng "Việt Nam hoá chiến tranh - dùng người Việt đánh người Việt" và dựng lên một nhân vật có thể đối trọng với lãnh tụ cách mạng. Người đó dĩ nhiên là Bảo Đại dù có thời kỳ hợp tác với Nhật Bản, hay đã từng làm cố vấn tối cao cho chính phủ cụ Hồ, dù tính cách chán đời và lối sống tài tử của ông. Lucien Bodard - một nhà báo chuyên viết về Việt Nam đánh giá Bảo Đại là chàng "Hamlet da vàng lẩn tránh trong tâm trạng phủ định và trác táng. Ông ta lúc nào cũng do dự giữa trách nhiệm lịch sử và hưởng thụ". Ngày 1 tháng tư năm 1947, Emile Bollaert, mới được bổ nhiệm làm cao uỷ Đông Dương đáp máy bay của hãng Air France đến Hà Nội. Cùng đi có vợ, hai con và chánh văn phòng Pierre Messmer. Đã thành thông lệ các quan chức đi công cán bao giờ cũng có vợ con và người thân đi cùng. Trong suốt thời gian làm việc ở Đông Dương, có chiến tranh hay không, cao uỷ sẽ lợi dụng những chuyến đi về Paris để hưởng những cuộc du lịch ngắn ngày. Trên đường đi, mỗi dịp dừng chân tại các thủ đô hay thành phố, ông tranh thủ đi thăm thú các nơi, khám phá nhiều cảnh quan mới lạ, bao giờ ông cũng có vợ, con cùng đi. Ngay khi đi Vatican để yết kiến giáo hoàng cũng có con gái Jacqueline đi theo. Khi ông đặt chân xuống đường băng sân bay Tân Sơn Nhất, ông đã mang sẵn trong túi áo, một tài liệu đánh máy mười một trang. Đó là mười một trang "huấn thị", như một bản điều lệnh, một bản hướng dẫn hành động để tránh được những điều dại dột, sai lầm, để chắc chắn là ông áp dụng đúng chính sách đã được Paris quyết định. Đối với chính phủ Hồ Chí Minh thì sao? Trong tài liệu ghi rõ: kiên quyết lên án. Thế còn vấn đề Độc lập cho Việt Nam? Được, nhưng độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp, không có quân đội riêng, không có ngoại giao riêng, tất cả đều kèm theo sự kiểm soát chặt chẽ về chính trị. Câu kèm theo biện pháp nầy gợi lại bóng ma của đô đốc Courbet, của tướng De Courcy và các phế đế hồi giữa thế kỷ XIX. Trong tài liệu, ghi rõ "Một thí nghiệm cũ, cách đây một trăm năm, chứng tỏ bỏ qua một số bảo đảm nào đó là quá sớm"(1). Cuối cùng, với Bảo Đại, bản tài liệu nói rõ: "Lập lại bộ máy cai trị cũ, nhưng không tỏ ra là chúng ta lập lại triều đại quân chủ". Ít nhất là phải như thế. Ký tên dưới bản huấn thị có Thủ tướng Nội các Paul Ramadier, người của đảng Xã hội, còn có phó thủ tướng Maurice Thorez, tổng bí thư đảng Cộng sản. Tại Hongkong, "Con Trời" Bảo Đại không làm gì hết. Ông ta nghỉ ngơi, thưởng thức lạc thú trên đời. Năm 1932, ông đã do dự khi rời Paris để về nước nắm quyền bính. Năm 1945, ông đã thoái vị hơi vội, rồi rong chơi ở Trung Hoa trong lúc đất nước lầm than vì có mặt của quân đội chiếm đóng nước ngoài và lo sợ xảy ra nội chiến. Vậy việc gì ông phải từ bỏ những thói quen cũ của mình. Trong khi ông không chính thức được giao "một chức trách rõ rệt" nào. Ông được tự do. Ông tự nhủ: còn chưa bằng những người khác. Ông đã đổi tên. Không còn Hoàng đế Bảo Đại. Cũng không phải công dân Vĩnh Thuỵ mà là Wang Kunney tiên sinh, một người Trung Hoa. Muôn năm sự kín đáo, sự mai danh ẩn tích? Tuy nhiên ông vẫn gặp các nhà báo, vui lòng giải thích lối sống của ông, những cung cách mới của ông. Nhiều nhà báo nhanh chóng có thói quen đến thăm ông hoàng bị phế truất kỳ dị, không buồn, cũng không phải thôi thúc hỏi thăm tin tức vợ con đang sống ở Huế dưới chính quyền Việt Minh ra sao. Ông đi dạo trên bãi tắm, phô trương người tình của mình, trước tiên là Lệ Hà, tiếp theo là Mộng Điệp, một mối tình khác của ông. Đầu đội mũ panama, mình mặc chiếc một áo sơmi lụa bạch theo kiểu Trung Quốc, quần ống rộng thùng thình; giấu mặt bằng cặp kính râm to, Bảo Đại sống như một thường dân vô công rồi nghề. Như mọi người, ông đi xe công cộng chật lèn của Hongkong, tắm, chơi gôn, chơi quần vợt. Ông luôn luôn làm cho các chính khách bám quanh ông phải ngạc nhiên thán phục. Dáng dấp trẻ trung, thân hình lực sĩ, tuổi mới gần ba mươi tư, nhưng phần lớn thời gian rỗi ông phân chia giữa cờ bạc và thể thao. Tối tối, ông lao đến Paramount, vũ trường lớn nhất của thành phố. Ông thường xuyên lui tới các ca lâu tửu quán. Ngay từ giữa thời kỳ cách mạng ở Hà Nội, ông đã là khách quen của những hộp đêm ở Hà Nội. Cần gì? Ông yêu thích cái không khí choáng lộn, trong những đêm bất tận, thích cái nhìn của những người đi lướt qua bên ông trên sàn nhảy hay trong các sới bạc. Thế nhưng ông túng thiếu, gần như nghèo túng. Hoàng đế mà như thế thì nghèo cùng cực rồi. Tiền ông quăng trên các bàn bạc hoặc thanh toán tiền phòng khách sạn tồi tàn của ông là của cô nhân tình Lý Lệ Hà chi trả. Cô nầy đã phải mở két, biếu ông tất cả tiền tiết kiệm của một cô gái nhảy nửa thượng lưu, số tiền lên tới vài trăm bạc kiên trì tích cóp được nhờ tài quyến rũ của cô. Ông có thật là một con người vô dụng như các tạp chí miêu tả ông không? Ông có đóng kịch khi tỏ ra là một nhà du lịch biếm hoạ? Ông đã làm hết sức để cho chân dung về ông có thể tin được. Ông không chỉ là chàng thanh niên rám nắng, tươi cười luôn luôn xuất hiện trên các tạp chí. Tuy nhiên báo chí đã lưu lại hình ảnh ấy và qua báo chí công chúng tin rằng cựu hoàng chỉ là một con người như thế. Tiếng tăm của ông bị vẩn đục những thành công chính trị sau nầy của ông sẽ bị phai mờ vì những chuyện bê bối trong đời tư của ông. Một số bài báo đã có dụng ý tạo nên hình ảnh về ông chỉ là một kẻ ăn chơi trác táng không thể sửa được. Một tờ báo ở Nam Bộ, tờ Duy Tân đã đăng một tin giật gân, đầu đề chạy suốt trên tám cột báo: "Một cô gái người Hoa tên là Trần Nỷ - được biết nhiều hơn với cái tên Jenny Wong - từ Hongkong sang Sài Gòn, đi tìm những người có vai vế trong hội đồng hoàng tộc để báo cho biết cô đã có mang với Bảo Đại và đứa trẻ sau nầy ra đời sẽ được chính thức hoá như thế nào trong hội đồng hoàng tộc?". Bài báo bị Sở kiểm duyệt đục bỏ(2). Báo chí Pháp còn khẳng định một cách quả quyết hơn. Trong tờ Paris Presse, Merry Bromberger viết: "Muốn gặp Bảo Đại ở Hongkong chỉ cần dạo mười bốn hộp đêm trong thành phố, dễ hơn là tìm ông trong một khách sạn Anh"(3)... Thời gian qua đi, diễn biến các sự kiện, thái độ lừng chừng do dự của người Pháp làm cho Bảo Đại chán chường, mệt mỏi, chậm chạp, lười biếng, vỡ mộng nữa, hơn thời kỳ trị vì ở kinh đô Huế. Tuy nhiên, theo ghi chép của một nhân viên tình báo Pháp (SDECE) "trí tuệ của ông vẫn rất sắc sảo giống như quan hệ tầm thường không làm nhụt thú hưởng lạc và dan díu tình ái dễ dãi". Cố vấn tối cao của chính phủ Hồ Chí Minh chẳng bao lâu nối lại sự tiếp xúc với người Pháp. Ai chủ động trong việc nầy? Ông Bảo Đại: đó là Paris. Một nhân viên Ngân hàng Đông Dương bắn tin: chính phủ Pháp muốn ông trở lại ngôi báu. Thấy ông đang gặp khó khăn về tài chính, Ngân hàng Đông Dương dành ngay cho ông một ngân khoản hai nghìn đôla Hongkong. Sau đó lại thêm một món tiền của giáo hội Pháp cho vay nữa. Các giáo sĩ dòng Tên chỉ đòi hỏi món vay được đảm bảo bằng tài sản của ngai vàng. Theo cơ quan tình báo Pháp thì chính là Bảo Đại chủ động yêu cầu được giúp đỡ, sau khi đã tiêu đến đồng đôla cuối cùng. Ông nhận được một món tiền nhỏ, năm trăm đồng sau khi có ý kiến của lãnh sự Pháp, Bộ Ngoại giao và Bộ Thuộc địa. Số tiền đó chỉ đủ dùng để tránh cho cựu hoàng khỏi bị các nhân viên nước ngoài khác lôi kéo. Trong bất kể tình huống nào thì khi đã có tiền, ông lập tức đổi sang một khách sạn mới, sang trọng hơn. Đó là khách sạn Gloueester trên đường Hoàng hậu (Queen's Road). Thế cũng chưa đủ. Các phái viên Pháp tiếp tục dùng tiền để lung lạc cựu hoàng. Một người tên là Yole, tình báo viên gài vào lãnh sự quán Pháp tại Hongkong, cứ đều đều mỗi tháng rót cho ông năm nghìn đôla Hongkong. Tiền nầy lấy từ quỹ đen của ông Bollaert. Một món tiền lớn để chi cho các hoạt động chính trị: một phần dành cho các đại biểu của các tổ chức "quốc gia" đến thăm ông. Nguồn gốc của khoản tiền ấy được giữ kín. Các chính khách sa-lông khi nhận được trợ cấp ngoài mong đợi ấy, đinh ninh rằng Bảo Đại đã gia ân cho họ. Một phái viên khác tên là Reynaud, một cộng tác viên thân cận của Cao uỷ Bollaert làm con thoi chạy đi chạy lại giữa Sài Gòn và Hongkong. Không chỉ đóng vai trò trung gian, Cao uỷ còn giao trách nhiệm cho ông ta "bám sát" cựu hoàng, tham dự các hội hè ban đêm của ông, trở thành một trong những người thân tín của ông. Reynaud biết Bảo Đại từ lâu vì trước chiến tranh thế giới ông ta đã là nhân viên bảo hiểm của ông. Người bạn mới nầy còn ra sức khuyến khích ông trở lại các phi vụ làm ăn và sẽ cung cấp tiền bạc. Nhưng một người tin cẩn khác của Cao uỷ là Cousseau - nguyên công sứ Sơn La - nắm dây thắt hầu bao. Ông ta nói với nhà báo Lucien Bodard: "Tôi tin sắp thành công đến nơi vì Bảo Đại rất cần tiền. Đó là một ông vua tầm thường, bị phế truất, không có tiền tiêu, không có hoài bão gì. Ông ta đang trong cảnh gần như khốn cùng. Thực tế đó là một công việc không dễ dàng chút nào. Tôi đã đem đến hàng triệu bạc, mà vẫn không đủ [...]. Trở lại với cuộc sống ăn chơi xả láng, Bảo Đại càng bị lôi cuốn... Ông ta hiểu rằng người ta càng gắn với ông bao nhiêu thì lại càng cần đến ông bấy nhiêu". Nguồn gốc sự phất lên rất nhanh của Bảo Đại là một bí mật mà mọi người ai cũng biết cả. Trong một vụ khám va-li của con gái Bollaert tại phi cảng Sài Gòn, một khoản tiền ngoại tệ sáu trăm ngàn đồng bị phát hiện. Cô gái khai số tiền nầy gửi cho chánh mật thám. Ông nầy buộc phải nói rõ: đó là "tiền lương trả cho chi phí lưu trú của Bảo Đại ở Hongkong". Nhờ chế độ chuyển tiền hay "buôn bạc" mà những món tiền nhỏ ban đầu nhanh chóng trở thành khó che mắt thiên hạ. Những trò "ảo thuật" rất hời ấy do một thanh tra tài chính tìm ra. Tất cả những đồng bạc được phép chuyển từ Sài Gòn hay Hà Nội đến Paris đổi ra đồng franc được tăng gấp hai lần giá trị ban đầu. Làm như vậy để khuyến khích những người lao động chân chính sang làm việc ở Đông Dương hoặc bù trừ cho những nhà buôn phải liều lĩnh bỏ vốn làm ăn ở cái xứ sở đang có chiến tranh. Một đồng bạc Đông Dương được phép chuyển về chính quốc ăn mười bảy franc. Nhưng nếu quá hạn mức cho phép được chuyển tiền về nước thì một đồng bạc Đông Dương chỉ ăn có tám franc. Bảo Đại nhận đổi cho người Pháp làm việc hay kinh doanh ở Đông Dương muốn chuyển tiền về nước ngoài hạn mức, từ đồng bạc Đông Dương ra đôla Hongkong với giá tám franc/đồng bạc Đông Dương. Ông gửi những đồng bạc Đông Dương đó về Sài Gòn và làm thủ tục chuyển tiền về Paris, làm như những đồng bạc đó kiếm được một cách hợp pháp tại Đông Dương chứ không phải mua lậu tại Hongkong. Tiền nầy trở về Paris đổi thành franc với giá hối đoái mười bảy franc một đồng. Như vậy chỉ cần cho tiền lộn về Hongkong và lại tiếp tục hành trình đi - về. Phải chăng cựu hoàng đã phất to nhờ hệ thống chuyển tiền ma quái nầy? Đúng là như thế. Dù sao tài sản của ông tăng vọt. Sau nầy ông thú nhận: "Tiền ngoại tệ ồ ạt gửi đến cho tôi, kèm theo những móc ngoặc trong bộ máy ngân hàng - tài chính, khiến tôi có thể làm biến đổi tỷ giá hối đoái của đồng bạc Đông Dương ở Hongkong"(4). Như vậy có phải là phi pháp, bất bình thường không? Ở Đông Dương, trong thời kỳ đầu của chiến tranh thì chuyện đó không có gì là bất bình thường. Vòng quay của đồng tiền không ngừng tăng tốc độ, những phi vụ không có gì nguy hiểm và khó khăn... mà ai cũng có phần trong khi vẫn phải tiếp tục các cuộc giao chiến, sống chết không biết lúc nào. Không kể các vụ buôn bán khác dứt khoát là đáng ngờ, mà một số người thân cận của ông là thủ phạm. Còn ông không thể không được chia phần, một khi các vụ làm ăn phi pháp trót lọt. Cựu hoàng cho Phan Văn Giáo, bí thư của ông, hai mươi ngàn đôla Hongkong để thưởng công cho Giáo đã làm việc tốt. Với số tiền đó, Phan Văn Giáo mua mười lăm hòm kháng sinh gửi về Sài Gòn trên một con tàu hải quân của quân đội quốc gia. Một nơi khác một xe cứu thương dỡ hàng xuống nhà bà Didelot, chị gái bà Nam Phương Hoàng hậu. Các hòm hàng được đem bán lại ở chợ đen, được bảy trăm năm mươi nghìn đồng. Ai mua? Người của Việt Minh mua hàng đem về bưng biền! Bảo Đại có biết không? Không thể nào không biết. Chính ông cũng tham gia vào các vụ áp-phe của đám cận thần. Ngoài Phan Văn Giáo còn có Nguyễn Hữu Thí, giám đốc cơ quan tình báo của ông cũng là cố vấn tài chính cho ông. Thí nắm độc quyền cung ứng và vận tải cho miền Trung Việt đồng thời cũng buôn bán kim cương, rượu vang, cao su và cùng với Pierre Reynaud trở thành nhân vật thân tín của cái "hợp tác kinh tế và quân sự ở Trung Kỳ". Ấy thế mà chẳng có gì rõ ràng cả. Chẳng ai biết chính xác ông cựu hoàng lưu vong làm việc cho bên nào. Các vụ áp-phe lớn thu lợi cho ông và đám cận thần đã đành mà Việt Minh được một nguồn tiếp tế có đảm bảo chẳc chắn. Quan hệ tay đôi giữa nhà cách mạng lão thành Hồ Chí Minh và cựu hoàng Bảo Đại lưu vong thế là tan vỡ chăng? Không hoàn toàn như vậy. Hãng thông tấn Anh Reuter loan tin: Bảo Đại khẳng định: "Không bao giờ tôi trở lại Huế để lập một chính phủ bù nhìn cho người Pháp. Tôi thấy ông Hồ Chí Minh là một con người tài năng, một người yêu nước chân chính". Riêng đối với ông Hồ, không bao giờ Bảo Đại lên án. Ông tránh không tỏ ra đứng hẳn về phe nào. Có lẽ như thế là khôn ngoan. Việc tự nguyện thoái vị của ông đã được lòng dân chúng. Ai cũng biết hai người đều có chung một nguyện vọng muốn cho đất nước được độc lập dân chúng được sung sướng, nhưng con đường đạt mục đích khác nhau, lối sống khác nhau, nhưng trong thời kỳ còn hợp tác với nhau Hồ Chí Minh bao giờ cũng có thái độ tôn trọng cựu hoàng - cố vấn tối cao của chính phủ. Chính phủ Việt Nam, một mặt duy trì Bảo Đại trong cái vị thế kỳ quặc "cố vấn tối cao", mặt khác tấn công triệt để vào các nhân vật thân cận của ông. Nhân vật thân cận chứ không phải ông. Hồ Chí Minh kiên nhẫn chờ đợi kết cục các cuộc thương thuyết giữa cựu hoàng với Pháp rồi mới tỏ thái độ dứt khoát. Ngày 5 tháng 7 năm 1947, Bảo Đại lên tiếng ở Hongkong trong một cuộc trả lời phỏng vấn: "Nếu toàn dân Việt Nam đặt lòng tin vào tôi [...] tôi sẽ sung sướng trở về Đông Dương. Tôi không ủng hộ cũng không chống lại Việt Minh, tôi không thuộc đảng phái nào!". Mặc dù lên án chủ nghĩa cộng sản, ông không lớn tiếng đả kích chế độ Dân chủ Cộng hoà đối phương, không trực diện công kích cá nhân Hồ Chí Minh... Nhưng cuộc mặc cả vẫn chưa ngã ngũ. Bảo Đại cao giọng đòi Pháp phải trao trả độc lập, công nhận nền thống nhất, Nam Bộ phải trở về lãnh thổ nước Việt Nam không cần trưng cầu ý dân. Về hình thức tưởng như cựu hoàng còn đòi hỏi cao hơn Hồ Chí Minh năm 1946. Trong dân chúng nhất là trong vùng Pháp kiểm soát, có dư luận cho rằng cựu hoàng giao thiệp với Pháp là có sự thoả thuận với Hồ Chí Minh, như năm 1945, ông đã nhận nền độc lập từ tay Nhật để rồi mấy tháng sau lại trao lại cho Việt Minh. Phải chăng, tại Hongkong, ông lại tái diễn lớp trò nầy. Ông thương thuyết với người Pháp để trở lại nắm quyền bính, rồi sau đó, ông sẽ cai quản đất nước cùng với Hồ Chí Minh? Philippe Franchini, người Pháp chuyên về chiến tranh Đông Dương viết: "Một nhóm người nhìn ông như quốc vương của một nước Việt Nam tìm lại được đạo trung dung của Khổng Tử. Nhóm khác thì xem ông là sự bổ sung cho Hồ Chí Minh, giống như âm và Dương, như Mặt trời và Mặt trăng, chụm lại thì thành vòng tròn hoàn chỉnh, hình dung về một nước Việt Nam lý tưởng"(5). Từ căn cứ kháng chiến, ông Hồ Chí Minh nói với S. Ehe Maissie phóng viên hãng thông tấn Mỹ International New Service Mỹ, như để đính chính: "Ông Vĩnh Thuỵ là cố vấn trong Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã tuyên thệ trung thành trước Quốc hội, trước Chính phủ và trước quốc dân. Ông ta chỉ có tư cách đứng ra điều đình khi nào được Chính phủ Cộng hoà Việt Nam uỷ quyền".(6) Người Pháp tỏ vẻ sốt ruột còn Bảo Đại vẫn tỏ ra vẻ bí hiểm. Ông không vội đáp lại năn nỉ của người Pháp. Biết mình chẳng có hậu thuẫn gì của dân chúng nhưng ông biết lợi dụng sự khó khăn của Pháp trong việc đối phó với phong trào kháng chiến của Việt Minh. Hơn nữa trong các phe phái đang ve vãn, lợi dụng vị trí ông vua cuối cùng triều Nguyễn của ông cũng chưa nhất trí với nhau trong việc tranh giành chỗ đứng - kèm theo là quyền lợi trong chính phủ bù nhìn tương lai, có phái bảo hoàng miền Trung, có phái Nam Kỳ muốn có nhiều quyền và lợi hơn trong chính phủ Việt Nam thống nhất, nói rộng hơn có ý đồ của người Mỹ muốn lợi dụng Pháp suy yếu để dần dần thay thế Pháp biến Đông Dương sớm trở thành mắt xích trọng yếu trong vành đai chống cộng của Đông Nam Á, một khi bị Trung Cộng đánh bật khỏi lục địa Trung Hoa. Là một người không kém thông minh, Bảo Đại không phải là không biết mọi sự toan tính đó. Ông bình thản chờ xem tình hình phát triển ra sao rồi mới tỏ thái độ dứt khoát. Còn thái độ của người Pháp? Bollaert tỏ ra rất sốt ruột. Lập trường đàm phán của ông đã bị Hồ Chí Minh cự tuyệt sau chuyến công cán của đặc phái viên Paul Mus đến khu kháng chiến. Tiếp đó là thất bại quân sự trong trận tấn công quy mô Thu Đông năm 1947 vào chiến khu Việt Bắc để chụp bắt cơ quan lãnh đạo kháng chiến. Các đoàn đại biểu các phe nhóm, các đảng phái lũ lượt sang Hongkong ngày càng nhiều. Có người sang thăm dò, mặc cả rồi trở về. Số người ở lại cũng không ít. Ngô Đình Diệm, sau một thời gian dài ở Mỹ cũng không chịu vắng mặt ở Hongkong với đề nghị lập một chính phủ gồm các nhà chuyên môn hơn là đại diện các đảng phái. Tháng 11 năm 1947, Robert Schuman thay thế Paul Ramadier đứng đầu chính phủ. Là người của Mặt trận tập hợp bình dân (MRP do De Gaulle sáng lập) chính phủ Pháp ngày càng ngả sang hữu. Emile Bollaert là người của đảng cấp tiến. Dù nội các thay đổi, ông vẫn tiếp tục các cuộc mặc cả ở Hongkong. Ông sẽ ở lại chức vụ hiện nay, dù cho có thay đổi nội các thế nào đi nữa, trong 18 tháng nữa, đến 15 tháng 9 năm 1948, để nhường chỗ cho Léon Pignon. Hồ Chí Minh cũng thay đổi tuyên bố trước các nhà báo về tình trạng của Bảo Đại. Ngày 8 tháng 12 năm 1947, một ngày sau cuộc gặp Bollaert - Bảo Đại (ngày 6, 7 tháng 12 năm 1947), trả lời các nhà báo Hồ Chí Minh tuyên bố trước các nhà báo có tính răn đe: "… Cố vấn Vĩnh Thuỵ ở xa không khỏi bị những thám tử Pháp như bọn Cousseau bưng bít và những người vô sỉ như Nguyễn Hải Thần, Lê Văn Hoạch v.v... bao vây cho nên cố vấn có thể nghe những lời hứa hẹn suông của bọn thực dân Pháp mà đi gặp chúng. Nếu cố vấn Vĩnh Thuỵ biết rõ tình hình trong nước thì chắc cố vấn không bị chúng lừa bịp... Chính phủ và nhân dân ta rất mong cố vấn Vĩnh Thuỵ không có những hành động trái ngược với những lời thề trước Tổ quốc và trước đồng bào trái với nguyện vọng của dân tộc"(7). Sau nhiều cái bắt tay, kèm theo là ý chí và lòng kiên nhẫn, Bollaert cố gắng thuyết phục Bảo Đại chấp nhận trở về nước và đứng đầu chính phủ, nhưng với điều kiện thống nhất và độc lập phải được bảo đảm. Nhiều cuộc hội đàm tiếp theo đi đến thoả ước Hạ Long, một bản nghị định thư quy định những điều Pháp sẵn sàng dành cho Việt Nam và những điều Bảo Đại có thể chấp nhận. Vịnh Hạ Long, với cảnh quan hùng vĩ và trang nghiêm được tạo thành bởi những đảo nhỏ khắc hoạ trên bầu trời, trở thành địa điểm ưu ái cuộc tái hợp Pháp - Việt. Độc lập, thống nhất bao giờ cũng là vấn đề gay cấn trong đàm phán. Bảo Đại đòi độc lập hoàn toàn, toàn diện còn Pháp chỉ nhân nhượng cho Việt Nam tự do dưới sự giám sát của Pháp còn vẫn nắm chặt một số lĩnh vực. Phạm vi và số lượng của các lĩnh vực ấy giảm dần trong quá trình thương lượng. Cuối cùng, hai bên đi đến thoả ước Hạ Long dự kiến Việt Nam độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp, có hành chính riêng, cảnh sát riêng, nhưng quân đội và ngoại giao vẫn ở dưới quyền Paris. Điểm nổi bật quan trọng là chính phủ trung ương có quyền lực trên toàn bộ đất nước gồm cả Nam Kỳ, có nghĩa là chính thức hoá sự thống nhất của Việt Nam. Như vậy là những biện pháp trên gần phù hợp với chỉ thị của chính phủ Pháp trao cho cao uỷ Bollaert sáu tháng trước đây, rộng rãi hơn những điều dành cho Hồ Chí Minh hồi ký hiệp định sơ bộ tháng 3 năm 1946. Nhưng phạm vi quyền lực của chính phủ trung ương của Bảo Đại phỏng được bao nhiêu ngoài các thành phố thị trấn và dọc đường giao thông do Pháp kiểm soát và bảo vệ còn gần như toàn bộ vùng rừng núi và phần lớn nông thôn mênh mông đều đặt dưới quyền của chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nhưng lạ lùng thay, vừa ký tắt xong Bảo Đại tuyên bố bác bỏ thoả ước, la lối rằng ông đã bị lừa. Về phía Pháp cũng vậy. Phe bảo thủ không muốn nghe nói đến thoả ước vừa được ký kết. Người ta bỗng nhận ra Bảo Đại hoá ra không phải là con người dễ bảo, yếu mềm, hơn nữa không phải là một tên bù nhìn đã bán mình cho quỷ. Người ta thấy ông tỏ ra cứng rắn, độc lập trong suy nghĩ và hành động hơn là những nhà chức trách Pháp đã hình dung về ông. Các nhà thương thuyết từ Paris sang, không giấu sự bực mình trước tính thiếu thiện chí, và thái độ không khoan nhượng của ông. Ông vua bị hạ bệ nầy là ai mà phải cầu cạnh đến như thế nhỉ. Vừa mới ký thoả thuận xong bước đầu đã phủi tay ngay. Chính phủ Pháp đã nhầm chăng? Ông ta có thực sự độc lập trong hành động không hay do một số cố vấn có ảnh hưởng điều khiển ông trong bóng tối như thời kỳ ở Huế ông dễ dàng tuyên bố thoát ly quan hệ với Pháp, nhận sự bảo hộ của Nhật để rồi lại nhanh chóng thoái vị và làm cố vấn cho chính phủ Hồ Chí Minh. Giờ đây, sau sự kiện Hạ Long, ai mới là người không khoan nhượng và khôn khéo? Phải chăng sau lưng ông ta, chính là người Mỹ đang mưu mô nắm con bài Bảo Đại, muốn ông độc lập với Pháp để vừa làm suy yếu thế lực Pháp ở Đông Nam Á, vừa tiến tới xây dựng một chính quyền tay sai đủ mạnh làm rào cản chủ nghĩa cộng sản ở châu Á. Sau cuộc gặp ở Vịnh Hạ Long, giới hữu trách chính trị ở Pháp vô cùng thất vọng không tìm được ai có thể thay thế Bảo Đại mặc dù họ không ưa Bảo Đại nữa. Tháng tám năm đó, đài phát thanh Việt Minh phát từ Huế một cái tin khá lạ lùng, thuật lại một bài đăng trên báo Continental Daily Mail ra ngày 25 tháng 7 năm 1947 tại London: "Các nhà chức trách Pháp đến thăm cựu Hoàng hậu Nam Phương, đề nghị bà đưa con trai bà mười ba tuổi lên ngôi. Bà không trả lời. Trong lúc các vị khách Pháp giải thích thì bà đến trước đàn dương cầm thản nhiên chơi bài Tiến quân ca, quốc ca của Việt Nam...". Một tháng sau, tờ Echo du Vietnam tiết lộ âm mưu: "Một kế hoạch xảo quyệt do Hội thuộc địa trình bày. Họ chủ trương khôi phục chế độ quân chủ ở An Nam. Có thể khởi đầu bằng một cuộc thoái vị trọng thể của Bảo Đại nhường ngôi cho con trai. Cựu hoàng phải thừa nhận sai lầm của bản thân, tự nguyện rút lui khỏi chính trường để mở đường cho sự hoà hợp chân thành với nước Pháp"(8). Một nhà báo hỏi cựu Hoàng hậu Nam Phương lúc đó đang ở Đà Lạt: "Có phải con bà sắp lên ngai vàng không?". Bà không trả lời nhưng cũng không cải chính. Còn Bảo Long, mùa hè năm 1947 đang sống dưới sự chăm sóc yêu thương của bà ngoại tại Đà Lạt. Người ta nhắc đến vua Thành Thái năm 1910 bị buộc phải rời khỏi ngai vàng và xuống tàu đi đày ở đảo Réunion, vì rối loạn tâm thần. Tại đây, ông đã chứng kiến con ông, Duy Tân, rời khỏi đảo, về đất liền phục vụ quân đội nước Pháp tự do. Sống bên ông còn có một công chúa. Chính cô nầy đã thông báo cho cao uỷ biết nguyện vọng của cha cô muốn được sống những ngày cuối đời tại quê nhà. Lời thỉnh cầu ấy và những bàn tán thêu dệt đã khiến người ta cho rằng người Pháp đang nghĩ đến việc tìm kiếm con bài thay thế Bảo Đại. Lời đồn đại nầy sau đó đã không thành sự thật. Nhưng Vua Thành Thái đã được phép về sống ở giữa Sài Gòn, chờ ngày về Huế, thành phố của ông. Ông già tỏ ra là con người dễ thương, lịch sự, gần gũi với dân Sài Gòn. Lúc đầu chỉ là sự tò mò, dần dần ông được cảm tình của mọi người. Nhưng vấn đề chỉ dừng lại ở đó. Ngày 12 tháng 8 tại Huế, bốn mươi ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn yêu cầu Hoàng đế Bảo Đại trở về nước nắm quyền bính. Giải pháp Bảo Long, Thành Thái hay ai khác không còn được mấy ai nhắc đến. Đó lại là lúc cựu Hoàng hậu Nam Phương quyết định rời khỏi Việt Nam. Cố nhiên bà và các con đáp máy bay Anh để tới Hongkong gặp chồng. Lũ trẻ ôm hôn các anh em họ và sau mấy giờ bay đã phát hiện ra thế giới hiện đại. Ánh đèn nêông choáng lộn, tàu thuỷ và tiền bạc. Cuộc sống dễ dãi, kỳ diệu bên cạnh cái nghèo nàn của Đà Lạt, ngay cả Huế. Lần đầu tiên chúng nhập vào một thành phố như thế và không thể quen được với chiều cao của những nhà chọc trời, với vô vàn ánh sáng, với sự trộn lẫn giữa sức sống và sự hỗn độn, đặc trưng của bán đảo. Ông cựu hoàng gặp lại vợ con sau hai năm xa cách. Một thời gian, Bảo Đại phải bớt đến tiệm nhảy Paramount và những sòng bạc khác. Cuộc sống vợ chồng mới gặp lại nhau được đặt lên hàng đầu. Lý Lệ Hà, Mộng Điệp và các cô gái trẻ khác tạm lánh mặt, ít nhất trong một thời gian. Không bao lâu sau đó bà Nam Phương và các con rời Hongkong sang Pháp. Một chuyến đi vất vả gian nan. Phải tạm dừng lại ở Bangkok chờ khắc phục những trục trặc kỹ thuật của chiếc thuỷ phi cơ. Do không đề phòng trước những hỏng hóc, nên sau nhiều ngày, mọi người đều phải chuyền sang đi tàu thuỷ cùng với hành lý. Tới Pháp, trong thời gian đầu, mẹ con bà Nam Phương về Cannes, nơi có toà lâu đài Thorenc tráng lệ được dành cho cả gia đình. Từ nay trên đất Pháp bà Nam Phương chỉ có thể biết qua loa tình hình trong nước nhờ những lá thư của bà chị ruột là bà bá tước Didelot ở lại Sài Gòn kể những chuyện lặt vặt cho bà. Anh rể bà, bá tước Didelot ở lại Đà Lạt. Trong một bức thư viết cho con gái - lá thư bị Sở kiểm duyệt giữ lại - ông nói về Bảo Đại: "Cha tin vào ông chú của con - chỉ Bảo Đại - ông ta không phải là một vĩ nhân cũng không phải là một thằng ngốc nhưng nếu được biết rõ tình hình, ông ta sẽ có thể nhận định đúng đắn. Ông ta hay bị một số người có đầu óc vụ lợi phỉnh phờ và chịu ảnh hưởng của họ. Trước đây một số người ủng hộ ông thoái vị và hợp tác với Hồ Chí Minh cũng là để cứu vãn vị thế của họ. Bây giờ ở Hà Nội (... Việt Minh đã rút đi, Pháp đã trở lại) có những biểu ngữ, truyền đơn dán trên tường yêu cầu Bảo Đại trở về nước nắm quyền bính...". Cựu hoàng khác nào một kẻ đang đánh bạc trong khi những người ngồi chầu rìa và những tay đứng ngoài cá cược với nhau về cơ may được, thua. Mọi người chung quanh từ vợ, anh rể, địch thủ, hay thẩn dân hình như ai cũng biết rõ những chủ bài cũng như những điểm yếu của ông. Ông là con người thông minh có nhận thức nhanh nhưng lại ham thích ăn chơi. Liệu ông có biết chơi canh bạc cuộc đời nầy không hay trái lại để cho người Pháp hay Việt Minh chinh phục. Bảo Đại có vẻ như tự tin, ông đánh giá quá cao về vị thế "ông vua cuối cùng triều Nguyễn" của mình. Trong Hồi ký Con rồng An Nam ông viết: "Riêng tôi, tôi cảm thấy rất thoải mái, thời đó người ta hay nói: trong tay tôi chẳng có gì nhiều, ngay cả tính đại diện của tôi cũng còn phải bàn cãi. Nói như thế là coi nhẹ một yếu tố chủ yếu, ở chỗ tôi là đại diện chính thông cho một triều đại, tôi là đấng Thiên tử, là Con Trời, được Trời giao sứ mệnh trị vì thần dân. Có lẽ chỉ có mình tôi nhận thấy tính đại diện chính thông nầy. Nó không thể được xem như một luận cứ trong một cuộc đàm phán ngoại giao, cũng không thể viện ra ngay từ đầu. Tuy nhiên nó vẫn hiện hữu, mạnh mẽ hơn mọi luận cứ chông lại tôi. Chắc chắn là những ai không phải là dân Việt Nam thì không cảm nhận được điều đó mà tôi cũng không thể thuyết phục được họ. Khi tôi phản ứng hay tỏ thái độ, những người đôl thoại với tôi không thể hiểu được, họ chỉ đưa lý lẽ giữa con người với nhau, ngang tầm với họ, hợp với trình độ của họ...". Một điều chắc chắn là phải thương lượng, chấm dứt mọi mưu mô. Từ tháng 12 năm 1946, chiến tranh lan rộng khắp cả nước với mức độ ngày càng khốc liệt. Việt Minh vẫn thi hành chính sách vườn không nhà trống ở những vùng họ tạm rút đi. Thời gian ngày càng thôi thúc. Quân Pháp chỉ chiếm được các thành phố, thị trấn, còn vùng nông thôn mênh mông vùng rừng núi hiểm trở vẫn nằm trong tay Việt Minh. Người Mỹ gia tăng áp lực. William Bullit, cựu Đại sứ Mỹ tại Pháp ủng hộ giải pháp Bảo Đại. Nhân danh chính phủ Mỹ, ông ta vừa khuyên Pháp nhượng bộ thêm nữa trước đòi hỏi của Bảo Đại, vừa khẩn khoản yêu cầu Bảo Đại phải đương đẩu với Pháp, tóm lại là đòi cho được độc lập(9). Tại Hongkong, Bảo Đại hình như đã thoát khỏi cảnh cùng quẫn. Ông trở lại cuộc sống xa hoa giàu có. Nơi ông ở là một toà nhà rất đẹp theo phong cách kiến trúc Anh, gần bờ biển cách Hongkong độ hai mươi cây số ông có một ban thư ký riêng giúp việc. Ông sống ở Stanley Beach nhưng thường hay tiếp các đoàn trong nước ra ở Causeway Bay, cho họ nghỉ tại Hongkong Hotel hoặc ở Paramount hay Saint-Francis. Sau khi bán tài sản riêng ở Hongkong cộng với đồ đạc và ôtô, ông được một khoản tiền tươi đến một triệu đồng Đông Dương. Ông đi châu Âu, sau sáu năm xa cách. Đầu tiên ông đến Anh để chữa mắt rồi về Cannes nơi Nam Phương và các con đang đợi ông. Gián tiếp và trực tiếp người Pháp đã giúp ông trở lại cuộc sống sung túc. Các phe nhóm đảng phái "quốc gia" tâng bốc ông, tạo vốn chính trị hào nhoáng bên ngoài cho ông trước hết vì quyền lợi của chính họ. Có lẽ ông cũng biết ông chẳng có hậu thuẫn gì đáng kể ở trong nước, càng không đủ sức chống lại kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo nhưng đã ngập sâu trong cuộc sống phù phiếm hưởng lạc, ông không thể lùi được nữa. Phải ký kết. Tháng 1 năm 1948, ông đi gặp cao uỷ Pháp ở Genève. Tại sao ông lại chọn Thuỵ Sĩ, một nước trung lập truyền thống, mà Genève là một địa điểm lý tưởng cho các cuộc mặc cả ngoại giao, giúp ông có được có một khoảng cách với những người đối thoại. Lần nầy ông chọn đường đến Cannes trên một chiếc xe hơi đặc biệt, đó là chiếc Gordini, từ khi trở lại giàu có, ông tài trợ cho nhãn xe nầy. Chiếc xe có tốc độ nhanh, xài xăng pha octane với tỷ lệ cao, không bán ngoài thị trường tự do, nên phải lập riêng một hệ thống kho xăng dọc đường từ Cannes đến Genève. Mặc dù tình hình lúc nầy nghiêm trọng, nhưng trong lúc chiến tranh đang tiếp diễn ác liệt mà lại đi đàm phán để chấm dứt chiến cuộc thì đâu phải là một việc tầm thường. Ông cũng biết phải đi những nước cờ cao. Báo chí cánh tả một lần nữa đưa ra hình ảnh về ông như một kẻ trác táng ích kỷ. Đặc phái viên của tờ Combat (Chiến đấu) viết: Những cuộc thương thuyết với ông Bollaert chẳng đi đến đâu, nhưng ông Bảo Đại cũng không bỏ lỡ dịp ở Genève để sắm thêm nhiều bộ cánh mới. Tôi đã dự một bữa điểm tâm rất sang của ông. Tóc uốn, tay đút vào túi chiếc áo choàng màu nâu nhạt, ông sải bước bên cạnh bà hoàng rất trẻ đẹp, có phong thái rất "Paris". Những cuộc thương thuyết kéo dài bất tận, mỗi lẩn lại đánh dấu bằng những tuyên bố lạc quan nhưng không có hiệu quả gì. Bảo Đại ra vẻ một con người kỳ cục chưa từng thấy bao giờ. Phải cầu khẩn van nài, phải lấy lòng bằng những cái cười nụ, cười nhoẻn dỗ dành. Phải trải thảm đỏ để ông lên máy bay về Sài Gòn. Mỗi lần tưởng như ông chắc chắn nhận lời, thì ông lại lần khân, tránh né, im lặng. Báo chí phẫn nộ, các nhà chức trách điên đầu. Bên kia đại dương chiến tranh ngày càng dữ dội. Còn ông Hoàng đế nầy cứ làm cao, nâng giá lên mãi, mà không quyết định vào cuộc. Thời gian thúc bách lắm rồi. Bằng mọi giá phải dựng lên một chính phủ để chiêu hồi tất cả những phần tử "quốc gia" chống cộng sản. Nhưng không. Con Trời Bảo Đại luôn muốn đứng trên mọi cuộc xung đột đảng phái, không muốn dấn thân vào thực địa. Có lẽ ông chả thèm muốn gì hơn vị thế hiện nay của ông, với ngôi biệt thự đẹp đẽ ở Hongkong, toà lâu đài xinh xắn ở Cannes. Tuy nhiên cuộc đấu tranh của ông không vô ích. Mỗi lần thương lượng lại được thêm một chút nới rộng quyền tự trị cho Việt Nam ngay cả từ "độc lập" cũng không còn là điều cấm kỵ nữa. Đầu năm 1949, dường như Bảo Đại nghe theo lập luận của những người thân cận đang bu quanh ông, công bố một "tạm ước" (modus vivendi) theo cách của ông. Chưa giải quyết được gì cả, nhưng cả hai bên Pháp và Việt phải cố cùng sống chung với nhau, trong khi chờ đợi tình hình được cải thiện. Và thế là ra đời một chính phủ tàm tạm có quyền lực cả nước dưới quyền của thủ tướng Nguyễn Văn Xuân, một sĩ quan do Pháp đào tạo, leo lên cấp thiếu tướng, người của Bảo Đại. Như một trò phù phép. Báo chí không tiếc lời ca ngợi thoả thuận đạt được công nhận Việt Nam độc lập trên giấy trắng mực đen. Nhưng là độc lập trong khuôn khổ Liên hiệp Pháp. Đó là quy chế cuối cùng dành cho Việt Nam. Một lần nữa, cảnh quan hùng vĩ của vịnh Hạ Long được chọn làm địa điểm lễ ký kết. Nhưng lần nầy, thủ tướng Xuân là một bên ký kết dù chỉ là ký tắt hiệp ước, có sự chứng kiến của Bảo Đại. Lần nầy ông chỉ làm công việc giám sát từ xa những hành động đầu tiên của cái chính phủ do ông vừa dựng nên. Nhưng lại một lần nữa, thoả ước mới chẳng thay đổi được bao nhiêu tình hình đang diễn ra. Việt Minh vẫn trụ vững ở các vùng nông thôn. Mặt khác quân Pháp không có ý định giữ trọn quyền lực của mình. Tại Nam Kỳ, nghị viện cũ của thuộc địa tẩy chay chính phủ Nguyễn Văn Xuân. Tóm lại là chính phủ trung ương của tướng Xuân chẳng cai trị gì hết. Người ta nhanh chóng thấy rang duy chỉ có cựu hoàng Bảo Đại là có thể khẳng định quyền lực của mình và chỉ có ông mới là lực đối trọng của Hồ Chí Minh. Bảo Đại còn muốn người Pháp phải van nài hơn nữa. Ông đòi thêm các điều bảo đảm mới nhất là thu hồi được Nam Kỳ (10) (Nam Kỳ phải trở vè lãnh thổ Việt Nam). Bên Trung Hoa, quân cộng sản của Mao Trạch Đông đang thắng như chẻ tre, tạo một sức cổ vũ mạnh mẽ cho kháng chiến Việt Nam. Tình hình nhanh chóng chứng tỏ rằng chỉ có cựu hoàng Bảo Đại mới có thể khẳng định được quyền lực của mình và chỉ có ông mới có thể đối chọi được với Hồ Chí Minh. Người Mỹ càng sốt ruột. Cuối cùng Tổng thống Cộng hoà Pháp Vincent Auriol và Bảo Đại ký thoả ước 8 tháng 3 năm 1949, Cựu hoàng sẽ trở về nước, bổ nhiệm các thủ hiến cai trị ba "kỳ". Các dân tộc miền núi được hưởng tự trị nhưng đặt dưới quyền trực tiếp của Bảo Đại, gọi là "Hoàng triều cương thổ". Nhưng không lập lại nền quân chủ. Bảo Đại sẽ không trở lại làm Vua mà là Quốc trưởng Việt Nam. Sau nầy khi hoà bình được lập lại, nhân dân sẽ bỏ phiếu lựa chọn chế độ chính trị cho mình. Nhưng trong khi chờ dợi, Bảo Đại vẫn cho phép và còn mong muốn được mọi người "tâu Hoàng thượng" hoặc "tâu Bệ Hạ". Sau nầy khi về nước, Văn phòng Quốc trưởng vẫn đóng ở Đà Lạt vì người Pháp dùng dằng không chịu giao dinh Norodom, tượng trưng cho quyền lực của Toàn quyền Đông Dương cũ cho Quốc trưởng Việt Nam. Còn thái độ của chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh? Ngày 25 tháng 1 năm 1949, trả lời các nhà báo, Hồ Chí Minh nói: "Ông Vĩnh Thuỵ đã thề trung thành với Tổ Quốc, với nhân dân và Chính phủ. Nếu ông ấy cam tâm buôn dân, bán nước thì ông ấy sẽ bị tội phản quốc như những kẻ phản quốc khác"(11). Ngày 2 tháng 2 năm 1949, trả lời phóng viên hãng thông tấn Anh Reuter hỏi về ông Vĩnh Thuỵ có còn được coi là cố vấn tối cao trong chính phủ nữa không, Hồ Chí Minh khẳng định: "Ông ta đã tự cách chức ấy rồi"(12). Hai tháng sau, bình luận về bản ký kết 8 tháng 3 giữa Bảo Đại và Pháp, Hồ Chí Minh tuyên bố. "Bản ký kết 8 tháng 3 đối với nhân dân Việt Nam chỉ là tờ giấy lộn. Thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy chẳng lừa bịp được ai... Vĩnh Thuỵ trở về với 10.000 viễn binh Pháp để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thuỵ cam tâm bán nước. Đó là sự thật... Vĩnh Thuỵ làm tay sai cho thực dân là một tên phản quốc... Chính phủ Việt Nam sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân…" (13). Đầu tháng 10 năm 1949, trả lời nhà báo Mỹ A. Steele, báo New Herald Tribune, Hồ Chí Minh tuyên bố dứt khoát: "Chúng tôi không cần gì đến bọn bù nhìn... Chỉ có bù nhìn và phản quốc mới ủng hộ Bảo Đại"(14). Cũng vào thời gian nầy, tại căn cứ kháng chiến của Liên Khu III, hữu ngạn sông Hồng, một phiên toà đặc biệt của Toà án quân sự đã tuyên án tử hình vắng mặt Vĩnh Thuỵ về tội phản quốc. Chủ trương xử công khai tội bán nước của Bảo Đại phản ánh thái độ của chính phủ kháng chiến do Hồ Chí Minh lãnh đạo thể hiện qua một loạt các bài báo và tuyên bố chính thức của Hồ Chí Minh lên án Bảo Đại bán nước, hại dân và làm tay sai cho Pháp, chống lại kháng chiến. Chú thích: (1) Hồ sơ lưu trữ bộ Ngoại giao Pháp - Vụ Á - Đông Dương, tập 15. (2) CAOM, Lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - Sở Mật thám. SPCE 376. (3) Paris Presse, 2/4/1947. (4) Bảo Đại, Le Dragon dAnnam (Con Rồng Annam) Nhà xuất bản Plon, Paris. (5) Philippe Franchini: Les Guerres d'Indochine (Các cuộc chiến tranh Đông Dương), Nhà xuất bản Pygmalion,1988. (6) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995, trang 220. (7) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995, trang 310. (8) CAOM, Hồ sơ lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại - Tập Cố vấn chính trị số 2, Nhà nước - 285. (9) CAOM, Hồ sơ lưu trữ bộ Pháp quốc Hải ngoại, SPCE (Service Presse Corps Expéditionnaire - Phòng báo chí quân đội viễn chinh) - Hồ sơ 376. (10) Ông đòi họp Hội đồng quản hạt Nam Kỳ biểu quyết đòi trở về với Việt Nam, sau đó Nghị viện Pháp sẽ hợp pháp hoá yêu cầu đó (11), (12) (13) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995, tập 5, tr. 562. (14) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 5, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 1995, tr. 581, 694.