- 2 -

    
. Bài học Lạng Sơn
Toàn quyền Đông Dương rút kinh nghiệm về trận đánh ở Lạng Sơn. Ông ta nói đi nói lại đến hai lần trong cuốn hồi ký của ông ta:
“...Biến động Lạng Sơn có cái tốt của nó là đã chứng minh cho người Pháp thấy nếu không muốn mất Đông Dương một cách không thể cứu vãn được nữa thì tốt hơn hết là không nên tái diễn lại một lần nữa một cuộc thử thách chống quân đội Nhật Bản như vậy...” (Sách đã dẫn, trang 117 và trang 165).
Riêng đối với Decoux, thì bài học Lạng Sơn là hết sức bổ ích, nên từ đó trở đi, mỗi khi quân Nhật đưa ra một yêu sách gì mới, ông ta cũng cố gắng chống đối lấy lệ, rồi cuối cùng cũng thu xếp làm vừa lòng chúng. Trong hơn bốn năm làm Toàn quyền Đông Dương, chỉ căn cứ vào một vài số liệu mà chính ông ta khai ra, cũng thấy ông ta đã cung cấp cho phát xít Nhật một khối lượng vật tư tài sản vô cùng quan trọng bóc lột của nhân dân Đông Dương. Thí dụ:
Về gạo ông ta xuất sang Nhật năm 1941: 700.000 tấn, năm 1942: 1.050.000 tấn, năm 1943: 950.000 tấn, năm 1941: 900.000 tấn.
Về cao su, chỉ riêng trong thời gian một năm, từ 1941 đến 1942, ông ta đã xuất sang Nhật một số lượng trị giá bằng: 12.907,023 kg vàng. Nếu tính cả các khoản khác, thì chỉ trong một năm này, Nhật đã “ghi nợ trên giấy” tổng cộng là:
Tiền mua cao su: 12.907,023 kg vàng
Cung cấp cho quân đội Nhật (một phần): 11.840,073 kg vàng
Các khoản thương vụ khác tính đến 31-12-1942: 7.870,044 kg vàng.
Tổng cộng 32.617,110 kg vàng trị giá lúc đó bằng 22 tỷ phrăng (Sách đã dẫn, trang 447)
Sự lũng đoạn về tài chính cũng hết sức nghiêm trọng. Thoạt đầu hai bên thỏa thuận “trên giấy” lấy ngân hàng Đông Dương (Banque de l’Indochine) và ngân hàng Yokohama Species Bank làm cơ sở hối đoái giữa đồng yên của Nhật và đồng bạc Đông Dương. Khi nào số nợ của Nhật lên quá 5 triệu yên thì ngân hàng Đông Dương có thể yêu cầu Yokohama Species Bank trả số nợ đó bằng vàng hoặc bằng những ngoại tệ mạnh có thể đổi ra thành vàng. Ngày 30 tháng 12 năm 1942, Nhật dùng áp lực bắt chính phủ Pháp phải “ký thỏa ước Mitani-Laval về tiền tệ”, bỏ hết các quy định cũ, và từ ngày đó trở đi, Nhật sẽ thanh toán bằng một đồng “yên đặc biệt”, là đồng tiền duy nhất được chấp nhận trong các thương vụ với các nước có liên hệ kinh tế với Nhật. Số vàng của Pháp để ở ngân hàng Yokohama S.B trước ngày ký thỏa ước Mitani-Laval, thì khi nào có điều kiện, Nhật sẽ chuyển sang ngân hàng Đông Dương trả lại Pháp. Còn đồng “yên đặc biệt” thì cũng sẽ được đổi ra vàng hoặc ra các ngoại tệ có thể đổi ra vàng... khi nào có điều kiện (!).
Với những quy định như vậy, Nhật thì ghi nợ “trên giấy” bằng đồng yên đặc biệt, còn chính quyền Pháp ở Đông Dương thì đưa tiền mặt bằng đồng bạc Đông Dương, để cho quân đội Nhật thanh toán mọi chi phí hằng ngày trên đất Đông Dương.
Theo cách này, từ 1940 đến 1945, Decoux đã nộp cho Nhật:
Năm 1940: 6 triệu đồng; năm 1941: 58 triệu; năm 1942: 86 triệu; năm 1943: 116 triệu; năm 1944: 360 triệu; năm 1945 cho đến ngày 9-3-45: 100 triệu. (Sau đó từ tháng 3 đến Cách mạng tháng Tám, chỉ trong vòng năm tháng Chính phủ Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật 720 triệu đồng).
Trước sau tổng cộng tất cả số tiền phải nộp cho Nhật từ ngày đó là 1 tỷ 445 triệu đồng bạc Đông Dương bằng 14 tỷ 450 triệu phrăng.
Nhà Ngân hàng Đông Dương in giấy bạc không kịp trở tay: năm 1939 in 180 triệu đồng, năm 1940 từ 270 đến 280 triệu, năm 1941: 340 triệu, năm 1942: 500 triệu, năm 1943 từ 600 đến 700 triệu, và năm 1944, từ 1.014 đến 1.364 triệu đồng. Sự lưu thông tiền bạc càng ngày càng tăng lên đến mức chóng mặt. Nạn lạm phát chưa từng có làm cho đời sống của toàn thể nhân dân ba nước Đông Dương, nhất là nhân dân nước ta vô cũng cơ cực. Nạn đói khủng khiếp đã giết hại hai triệu đồng bào ta cũng là một hậu quả thảm khốc của sự đầu hàng nhục nhã khiếp nhược của bọn cầm quyền thực dân ở Đông Dương trước quân xâm lược phát xít Nhật.
Ngày 20 tháng 7 năm 1940, sau khi Pháp mất nước vừa đúng một tháng thì viên Toàn quyền Decoux chính thức lên nhậm chức. Việc làm đầu tiên của ông ta là triệu tập tất cả các chuyên viên và công chức cao cấp đứng đầu các ngành kinh tế ở Đông Dương lên báo cáo. Những người này đã không thể che giấu sự thực về tình hình nghiêm trọng lúc bấy giờ.
“... Ý kiến của các chuyên viên rất dứt khoát. Tất cả đều nhận định rằng nếu một ngày nào đó, Đông Dương bị cắt rời khỏi chính quốc, và thêm nữa lại phải từ bỏ mọi quan hệ thương mại bình thường, một mặt với Hồng Kông, Singapore, Ấn Độ, một mặt với Hoa Kỳ và Philippines, thì không bao lâu sẽ bị tắt thở về kinh tế (axphyxie économique) từ đó sẽ không tránh được đi đến chỗ sụp đổ của đồng bạc, sự rối loạn xã hội, và chỉ trong một thời gian ngắn chúng ta sẽ mất hết chủ quyền...”
(Decoux - Sách đã dẫn, trang 420)
Nhưng điều tiên đoán trên này, thực tế đã bắt đầu diễn ra ngay trước mắt rồi. Ngay từ sau khi tin tức đầu hàng của chính phủ Pháp loan ra, thì hải quân Anh đã lập tức cho thi hành mọi biện pháp cần thiết để cắt đứt quan hệ với các thuộc địa của Pháp, và đặt những xứ này vào tình trạng phong tỏa.
Ngày 3 tháng 7 năm 1940, hạm đội Anh do Đô đốc Sommerville chỉ huy, đột nhiên tấn công vào hạm đội Pháp đang bỏ neo tập kết tại cảng Mers-el-Kébir ở Algérie, do điều ước đình chiến với Đức quy định. Toàn bộ hạm đội này bị phá hủy và hơn 1.500 sĩ quan và thủy binh Pháp bị giết.
Ở nước ta chiếc tàu cuối cùng đến được Hải Phòng vào mùa xuân năm 1941 mang hiệu cờ Hà Lan, chở 4.000 tấn dầu mazút, do hải quân Anh kiểm soát và cho phép. Chiếc tàu Pháp cuối cùng rời Sài Gòn để về Pháp là chiếc Dupleix, tháng 8 năm 1941 bị Hà Lan bắt giữ và đưa về giam tại cảng Batavia, năm chiếc tàu chở khách khác, định đi đường vòng qua Phi Châu cũng không thoát. Mới tới Mũi Hảo Vọng (Capde Bonne-Espérance) thì bị chiến hạm Anh bắt giữ và đưa về giam tại Natal, một cửa biển ở Đông nam Phi Châu. Tất cả hành khách trên tàu có quốc tịch Pháp và đến tuổi đi lính đều bị đưa vào trại tập trung. Mùa đông năm 1941, còn lại 12 chiếc tàu chở hàng lớn chạy viễn dương với tổng trọng tải 8.600 tấn, và khoảng 20.000 tấn các tàu nhỏ chạy ven biển, thì bị quân Nhật bức bách chiếm hết trong chiến tranh.
Chiếc soái hạm Lamotte Picquet, mang cờ Đô đốc của Decoux cùng chiếc chiến hạm Chamer và nhiều tàu khác, tất cả 18 chiếc, bỏ neo trên sông Sài Gòn, bị 84 chiếc máy bay của đội Task Force 38 của hải không quân Mỹ từ ngoài khơi bay vào oanh tạc dữ đội, chỉ trong một ngày đã biến tất cả thành những quan tài sắt dưới lòng nước sâu. Tất cả lực lượng hải quân của Pháp ở Đông Nam Á như thế trở thành một con số không to lớn. Không chỉ sau này Mỹ mới tiến hành chiến tranh phá hoại đất nước ta bằng những cuộc ném bom cực kỳ man rợ, mà ngay từ những ngày đó, chúng cũng đã giết hại nhân dân ta một cách vô cùng thảm khốc. Ta hãy tính sổ với chúng những món nợ máu này:
Sau những cuộc không kích không đáng kể của quân Xiêm vào tháng chạp năm 1940, của quân Tưởng Giới Thạch tháng giêng năm 1941 vào miền Bắc nước ta, tháng 8 năm 1942 vào Hải Phòng thì không quân Mỹ bắt đầu nhập cuộc. Ngay từ năm 1943, những máy bay B29 của Mỹ liên tiếp ném bom xuống Hà Nội và Hải Phòng, ngày 21 tháng 7 giết chết 196 thường dân Việt Nam, ngày 7 tháng 8: 100 người, và ngày 12 tháng chạp, dữ dội nhất 500 người. Ngày 5 tháng 5 năm 1944, trận ném bom đầu tiên xuống Sài Gòn đã giết chết 220 người, rồi cứ tiếp tục như thế cho đến tháng 7 năm 1945. Trận ném bom cuối cùng dữ dội nhất là vào ngày 12 tháng 6 năm 1945 đã giết chết 222 người...
Ngoài ra máy bay Mỹ và tàu ngầm Mỹ còn tìm diệt những tàu chở hàng của Pháp cho Nhật, “đánh phá như trong một cuộc diễn tập, chỉ cần nhắm vào lá cờ tam tài mà nhả đạn...”.
5. Cộng tác hay kháng cự
Với những “thành tích” của Pháp phục vụ quân đội Nhật từ 1940 đến 1945 như vừa nêu trên, thì có thể nào không coi đó là một sự “cộng tác” thực sự của chính quyền thuộc địa với quân phát xít Nhật. Một buổi phát thanh của đài tiếng nói Vichy vào năm 1942 đã gọi đúng tên nó là một sự “cộng tác Pháp-Nhật” (une collaboration franco-japonaise). Phủ toàn quyền Pháp ở Đông Dương giãy nẩy lên, vội đánh một bức điện mật về phản đối: Nhật chiếm đóng thì có đấy, nhưng cộng tác với Nhật thì không.
Vậy thì có cộng tác hay không?
Paul Mus, một nhà học giả đã từng sống ở nước ta trong nhiều năm, tên tuổi không xa lạ gì với giới trí thức nước ta, lúc đó phụ trách một phòng tình báo chính trị ở Ấn Độ, có liên hệ trực tiếp với Đồng Minh, quan sát được từ bên ngoài các việc xảy ra ở Đông Dương, đã khẳng định:
“Thực sự đã có một sự cộng tác nào đó, đặc biệt về kinh tế: gạo của Nam Kỳ cứ ùn ùn được chở thẳng sang Nhật, hay chở đi nuôi quân lính Nhật chiến đấu ở các vùng biển phía Nam”. Nhưng ông cũng cố gắng thanh minh: “Nói cho công bằng, sau cuộc bại trận không mấy vinh quang của chúng ta (Pháp) ở Lạng Sơn, thật không dễ gì có thể làm khác được”.
Cũng quan sát khách quan từ bên ngoài. P. Mus lại khẳng định: “Có những dấu hiệu cho thấy có một sự kháng cự ngầm (une résistance sourde) chống lại sự xâm nhập của quân Nhật vào đời sống Đông Dương”.
Theo P. Mus thì:
“Người Nhật có đủ sức mạnh để áp đặt với chúng ta (người Pháp) việc làm này hay việc làm kia mà họ đã chọn lựa và đòi hỏi ta phải thực hiện bằng mọi giá. Nhưng theo kinh nghiệm họ lại không đủ mạnh để bắt chúng ta phải phục tùng ngay tức khắc, lúc nào cũng phục tùng và phục tùng ở bất cứ đâu. Họ chỉ mạnh ở một số địa điểm nhất định, chủ yếu ở Sài Gòn là nơi họ tập trung nhiều phương tiện của họ”.
Để chứng minh điều này, từ Ấn Độ, Mus đã nhiều lần chứng kiến những động tác “hoãn binh” của Decoux. Khi bị bức bách quá ông lại từ Sài Gòn né tránh lên Đà Lạt hay ra Hà Nội. Đã có lần tướng Mordant, tư lệnh quân đội Đông Dương, gợi ý với Decoux nên lấy cớ bị một bệnh “bệnh ngoại giao” nào đó, hay một cớ gì khác, né tránh hẳn đi, để cho một chánh văn phòng dưới quyền thay thế, không có thẩm quyền giải quyết các yêu cầu lớn của Nhật. Biện pháp này hoàn toàn hợp pháp đã được quy định trong các sắc lệnh tổ chức thuộc địa, như thế không ai bàn cãi gì được, vừa hoãn binh vừa không mất thế diện. Decoux đã từ chối: ông ta là người cầm lái, không thể bỏ con tàu trong lúc sóng gió này.
Ở Đông Dương, những trung tâm tuy quan trọng, nhưng cũng chỉ có một quy mô tương đối nhỏ. Điều chủ yếu là ở khối nông thôn, chiếm tới hơn 90% đất đai và dân số, được chia nhỏ ra lúc đó thành 85 tỉnh. Ở cấp này, người Nhật khó thâm nhập vào được vì thiếu chuyên gia, không hiểu ngôn ngữ và cũng vấp phải sự ác cảm của dân chúng địa phương. Họ chỉ có thể ở những trung tâm quan trọng, thủ đô, thành thị lớn, gây sức ép với những đại diện của chính quyền Pháp ở cấp cao.
Trong thời gian này, bộ máy chính quyền của Pháp hầu như vẫn còn nguyên vẹn. Trên từ Toàn quyền, Thống sứ, các đốc lý, công sứ các tỉnh, các chỉ huy quân đội, chỉ huy lính khố xanh, khố đỏ, cảnh sát, mật thám, đến các giám đốc các cơ quan hành chính sự vụ, kho bạc, ngân hàng, bưu điện, hỏa xa... tất cả đều vẫn do người Pháp nắm giữ. Tình trạng này đã che giấu thực trạng suy sụp đến mức cùng kiệt của chính quyền thuộc địa. Paul Mus viết:
“Ngoài một số nhỏ người được thông tin đầy đủ hơn, thì có thể nói, cho đến tận 9 tháng 3 năm 1945, cả Đông Dương đã sai lầm về thực trạng của chúng ta, và về tương quan giữa các lực lượng đối diện... Thấy ở nơi nào cũng có người Pháp thì tưởng chúng ta vẫn còn vững lắm, nhưng thực tế không phải thế. Và điều này đã giúp chúng ta còn trụ lại được mấy năm...”
Nhưng người Nhật đâu có mù quáng! Họ biết, mà biết rất rõ về thực lực quân sự, kinh tế của Pháp và nhất là biết rõ sự căm thù lâu đời sâu sắc của nhân dân Việt Nam đối với bọn thực dân xâm lược Pháp. Nhưng họ vẫn để nguyên tình trạng mập mờ này, vì theo tính toán chiến lược của họ, thì Đông Dương là một bàn đạp quan trọng để tiến về phương Nam, tiến sang Ấn Độ. Đông Dương là một vựa thóc tiền tiêu để nuôi quân lính của họ. Nên ở đây họ cần có một chính sách hòa dịu ổn định, nhất là chính sách tăng gia sản xuất ở địa phương để nuôi chiến tranh. Với hai mục tiêu này, sự có mặt của bộ máy chính quyền Pháp, của những cán bộ và kỹ thuật viên Pháp là vẫn còn cần thiết. Mặt khác, người Nhật vẫn biết rằng nhân dân Việt Nam có ác cảm cũng sâu sắc đối với họ, và họ không thể, chưa thể hất cẳng Pháp nắm lấy quyền cai trị. Hãng truyền thanh Domei của Nhật đã chẳng có lần cay đắng nhận xét là thanh niên và giới trí thức Việt Nam chỉ chú tâm vào việc giải phóng dân tộc và độc lập tự do thống nhất đất nước của họ, chứ có mơ màng gì đến thuyết viễn tưởng “Đại Đông Á” của Nhật đâu.
Rút cục lúc đó ở Việt Nam, vừa có cộng tác vừa có kháng cự. Người Nhật đã khôn ngoan không đập nát bộ máy chính quyền của Pháp là để có lợi cả về mắt kinh tế lẫn sự ổn định ở hậu phương của họ.
Cuộc kháng cự ở trong nội địa Việt Nam như vậy chủ yếu chỉ có tính chất “hành chính và thụ động”, kết quả tất nhiên chỉ có thế rất hạn chế. Lúc đó quân đội Pháp vẫn còn hầu như nguyên vẹn, nhưng không thế nghĩ đến việc đưa đội quân này ra trực diện chiến đấu chống lại quân Nhật, vì tương quan lực lượng quá chênh lệch, nghiêng hẳn và nghiêng quá xa về phía Nhật. Đông Dương lại không thế trông cậy gì được ở các nước Đồng Minh, càng không thế trông cậy được vào bất cứ một sự cứu viện nào của chính quốc. Các nước Đồng Minh đang phải đối đầu sinh tử với trục phát xít Đức, Ý, Nhật, sẽ không giơ nửa ngón tay lên để cứu vớt cái thuộc địa này của một nước Pháp đã bại trận. Sau này vào ngày 16 tháng 4 năm 1944, ở Trùng Khánh, Phó tổng thống Mỹ Wallace đã tuyên bố thẳng thừng không úp mở là Trung Quốc, Liên Xô và Mỹ đã thỏa thuận gạt bỏ người Pháp ra khỏi Đông Dương. Sau này nữa vào tháng 8 năm 1945, khi quân Nhật đầu hàng, Mỹ cũng đã quyết định đưa 180 ngàn quân Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc nước ta để giải giáp 30 ngàn quân Nhật, chứ không giao việc này cho người Pháp, tuy lúc đó nước Pháp đã được giải phóng và đã có ý định chiếm lại Đông Dương bằng võ lực. Đây là một hành động bày tỏ thái độ vừa muốn gạt Pháp ra khỏi thuộc địa Đông Dương, vừa cực kỳ tàn nhẫn đối với nhân dân ta, lùa một đội quan đói khát như thế vào một đất nước đã kiệt quệ, vừa trải qua một nạn đói khủng khiếp làm hai triệu người chết thảm khốc.
Như vậy là người Pháp ở thuộc địa chỉ có thế trông cậy vào chính mình mà thôi. Trong nội địa cũng đã có một nhóm Hoffet - Bertrand - Graffeuil định tổ chức một mạng lưới kháng cự, dựa vào quân đội và liên lạc với một nhóm khác ở Calcutta, Ấn Độ. Nhưng chưa hề có kinh nghiệm hoạt động bí mật, cả nhóm đã bị Nhật khám phá, đem giết hết không có một người nào sống sót. Sau này vào tháng 2 năm 1945, trước cuộc chính biến, Paul Mus cũng đã bí mật về được Việt Nam, có một cuộc hội đàm bí mật với Decoux về việc này. Decoux đã kể lại trong cuốn hồi ký của ông (sách đã dẫn):
“Người đối thoại bí mật của tôi đã trao cho tôi một giấy ủy nhiệm do một “Ủy ban Giải phóng Đông Dương” (Comité de Liberation de l’Indochine) cấp cho ông. Ông Paul Mus cho tôi biết, ông trở về xứ này là nơi ông đã từng sinh sống trong nhiều năm để mở rộng mạng lưới kháng cự (Réseau de Résistance) trong những phần tử chắc chắn nhất của lớp những người bản xứ tiến bộ. Tôi đã nói ngay cho nhà bác học bỗng chốc trở thành chính khách này, biết tất cả những điều nguy hiểm mà tôi thấy của một kế hoạch như vậy”. Và tất nhiên là Decoux từ chối tham gia và giúp đỡ.
6. Cuộc kháng cự có bài bản
Vào khoảng tháng 6 năm 1940, có vài chủ đồn điền ở Mã Lai thuộc Anh, lúc đó còn chưa bị Nhật chiếm đóng, quyết định bỏ tất cả công việc khai thác để đi theo De Gaulle. Trong số họ, nổi lên nhất, có ba sĩ quan cũ của quân đội Pháp: đó là đại tá Pechkoff, thiếu tá Langlade, và trung úy Boulle.
Pechkoff là một người gốc Nga, con nuôi của nhà văn Nga nổi tiếng Maxime Gorki. Năm 1914, ông ta đầu quân vào đội lính Lê dương của Pháp, và kiên trì trong binh nghiệp, lên dần tới cấp bậc đại tá. Đi theo De Gaulle, năm 1943, ông được cử cầm đầu phái đoàn quân sự của Pháp ở Trùng Khánh, và trở thành một đại diện của “Ủy ban Giải phóng Đông Dương”. Tháng 5 năm 1941, ông được cử là đại diện của De Gaulle tại chính phủ Tưởng Giới Thạch.
Cuộc đời của Boulle thì trôi nổi hơn. Sinh năm 1912 ở Avignon miền Nam nước Pháp, tốt nghiệp trường đào tạo kỹ sư, năm 1938, Boulle được tuyển mộ vào làm việc cho một công ty cao su ở Mã Lai. Tháng 11 năm 1939 phải động viên vào quân đội, ông chỉ huy một đội ôtô có súng liên thanh, dự vài trận đánh chống quân Xiêm ở vùng Hạ Lào, rồi đào ngũ đi theo Langlade sang Trung Quốc để tìm về với De Gaulle. Ngày 1 tháng 8 năm 1942, ông vượt biên giới Hoa-Việt ở vùng bản Nam Kum, phía tây bắc Phong Thổ, một mình làm một chiếc bè nứa, ban đêm xuôi dòng sông Nậm Tề về Lai Châu, định để liên hệ với mạng lưới kháng cự ở Đông Dương. Ngày 6 tháng 8 thì bị quân đội Pháp bắt được, và, ôi mỉa mai, bị đưa ra tòa án binh vì tội đào ngũ và phản quốc! Tòa kết án tù chung thân, đem về giam ở Hà Nội rồi chuyển vào Sài Gòn. Tháng 10 năm 1944, trong khi di chuyển ông sang Lào, đến Vinh thì được những người trong mạng lưới kháng cự giải thoát. Ông trở về Hà Nội, tìm lại được thủ trưởng cũ của ông là Langlade... Sau chiến tranh ông trở thành một nhà văn nổi tiếng, Pierre Boulle, tác giả của 20 tác phẩm, trong số đó hai cuốn nổi tiếng nhất là “Hành tinh của khỉ” (La planete des singes) và nhất là cuốn “Cây cầu trên sông Kwai” (Pont de la rivière Kwai) đã được quay thành phim, đưa lên màn ảnh đi khắp thế giới.
Cuộc đời của Langlade còn truân chuyên hơn nhiều và có thể coi như một bản tóm tắt của sự kháng cự từ bên ngoài mà ông là linh hồn sôi động.
Từ Mã Lai, Langlade sang Côn Minh, lập lại ở đây mạng lưới tình báo của Pháp ở Viễn Đông. Tháng 10 năm 1942, ông bí mật về biên giới Hoa Việt để bắt liên lạc với các sĩ quan Pháp ở Bắc Kỳ. Rồi ông được De Gaulle triệu về Luân Đôn. Tháng 7 năm 1943, ông được biệt phái sang Ấn Độ ở Kandy chỉ huy phân ban Đông Dương của lực lượng 136, trong tổ chức biệt động của Anh. Ông lại đi Alger nhận chỉ thị của De Gaulle về tiếp xúc với Decoux và tướng Mordant. Ngày 5 tháng 7 năm 1944, ông được thả dù xuống vùng Lạng Sơn, chỉ cách nơi đóng quân của một đại đội Nhật có ba cây số. Ngày 6 tháng 7 ông đã nhanh chóng tiếp xúc được với Mordant. Nhưng vài ngày sau thì Mordant bị Decoux cách chức chỉ huy, thay thế bởi tướng Ayme, tư lệnh sư đoàn Bắc Kỳ.
Ngày 17 tháng 8 năm 1944, ông trở về Alger, trao cho De Gaulle một bản báo cáo về tình hình kháng cự chống quân Nhật ở Đông Dương. De Gaulle cho thành lập một “Ủy ban Hành động vì Đông Dương” (Comite d’action pour l’lndochine) và cử Langlade cầm đầu. Theo sự đề cử của ông, De Gaulle, bí mật và chính thức ủy nhiệm tướng Mordant giữ chức chỉ huy cuộc kháng cự trong nội địa.
Ngày 15 tháng 1 năm 1944, Langlade được thả dù xuống Điện Biên Phủ với sứ mệnh mới, tổ chức một mạng lưới hoạt động quân sự và phá hoại. Sau đó với 119 lần thả dù, các lực lượng hành động đã đưa được vào Đông Dương 35 chuyên viên vô tuyến điện với đầy đủ máy móc thông tin liên lạc, 59 điệp viên, 4.000 vũ khí, 4 tấn thuốc nổ... Langlade bí mật tiếp xúc được với Decoux hai lần vào ngày 19 và 28 tháng 11 năm 1944. Ngày 24 tháng 11, hợp đồng về những mật hiệu phát trên sóng vô tuyến trong trường hợp bị tấn công bất ngờ. Đó là những mật khẩu: “Port Arthur”, “Một cách thô bạo” (A la hussarde), “Bản giao hưởng anh hùng” (Symphonie héroique) và (Eduard Detaille)...
Tất cả những chuyện này xem ra có vẻ bài bản và rất đẹp “trên giấy”. Nhưng khi vào việc, trong cuộc chính biến đêm 9 tháng 3 năm 1945, thì những hành động “một cách thô bạo”, những nét nhạc của “bản giao hưởng anh hùng” đều bị chìm trong tiếng thét xung phong khát máu man rợ của quân lính Nhật, và nhường chỗ cho sự thật phũ phàng của sự tiêu diệt chủ quyền Pháp và sự tàn sát sĩ quan, quân lính Pháp.
Nói cho công bằng, màng lưới kháng cự cũng có làm được đôi ba việc. Chẳng hạn từ ngày 15 tháng 10 năm 1944 đến đêm 9 tháng 3 năm 1945, nhờ những tin tức tình báo của Pháp, 33 chiếc tàu của Nhật đã bị đánh chìm ngoài khơi vùng biển Đông Dương. Nhưng có thấm tháp gì, đúng là chỉ như muối bỏ bể thôi.
Ngày 29 tháng 3 năm 1945, Langlade còn trở lại Điện Biên Phủ, tiếp xúc được với tướng Sabattier bây giờ là người chỉ huy cuộc kháng cự, sau khi Mordant đã bị Nhật bắt. Nhưng Điện Biên Phủ năm 1945 cũng không may mắn gì hơn năm 1954 cho vận mệnh của Pháp ở thuộc địa Đông Dương.
Nếu vào tháng 7 năm 1944, tướng Sabattier đã có những nhận xét chán chường về tổ chức kháng cự trong nội địa “... tổ chức này chưa đứng được lên chân, nó không bao giờ đứng được lên chân. Người ta bơi trong một mớ bòng bong, và càng ngày càng dấn sâu vào sự rối loạn và vô tổ chức”, thì vào năm 1945, Georges Gautier, phụ tá thứ nhất của Decoux, còn nhận xét cay đắng hơn: “Những lời huênh hoang khoác lác, những hành động dại dột như vậy, thì bất cứ một người bình thường, có lương tri nào cũng nghĩ là tất nhiên sẽ dẫn đến một phản ứng tàn bạo của Nhật. Không biết những người lãnh đạo nước Pháp tự do có ý thức được điều này không?”.
Và quả nhiên là Nhật đã phản ứng tàn bạo thật, chỉ trong một đêm đập tan tành chính quyền của Pháp ở Đông Dương, chặt đầu từ tướng chỉ huy đến binh nhất, binh nhì...