Chương 1
Tiếng đá

Gió hầm hập từ phía Tây thổi về Nghệ An. Gió lùa cơn nóng đến độ chó ngậm hơi không sủa, trâu bò uể oải nằm dài, rớt dãi chẩy trắng mép, lim dim tựa như vừa no đầy sau cơn xác thịt. Ðợi đến nửa đêm, gió mới hà được một chút hơi lạnh của núi trong tiếng xào xạc từ rừng lá rạc vây bủa trại Bùi Phong.
Căn nhà ba trái nằm yên ả dưới rặng chèm. Tiếng võng thỉnh thoảng kẽo kẹt nhịp cho tiếng quạt phành phạch phẩy gió. Không biết loài chim gì bay ngang, quàng quạc kêu làm vỡ bấy cái êm đềm một đêm nồm ngột ngạt. Lửa đóm lóe lên trong nhà, hắt qua khe liếp những vệt sáng đỏ đục. Tiếng rít thuốc lào sằng sặc, rồi tiếng người sột soạt ra mở then cửa. Nguyễn Thiếp ra đứng, ngửa mặt nhìn trời. Ánh trăng chếch tỏa xuống mầu xanh huyển hoặc trên những lùm cây chập chờn nhẩy múa.
Trước khi gia đình họ Nguyễn ở Nguyệt Ao lên lập trại cuối năm ngoái, khoảng đất bằng phẳng rộng độ hai mẫu ta đất này chỉ toàn là rạc, lá nhọn, sắc, tua tủa chĩa ra như lông nhím. Cũng bởi vì Thiếp nổi tiếng là người sành thuật phong thủy nên tiếng đồn đãi rằng chỏm Bùi Phong ở phía đông ngọn Lạp Ðính trong rặng Thiên Nhận là nơi có mạch rồng, ai để mả ở đó thì đời sau sẽ hạnh phát đế vương. Thế là nghe đâu có vài kẻ cùng một lúc lên quan kiện, ai cũng đưa từ chứng rằng đó là đất của tổ tiên mình. Nhưng chuyện kiện cáo không đến nỗi nhì nhằng. Ở vào những năm cuối cùng đời chúa Trịnh Doanh, ai cũng biết là từ chứng có thể mua bằng tiền, giá thường chỉ bằng giá một đôi gà. Vả lại, miệt Hải Dương có giặc Nguyễn Hữu Cầu, và ngay tại hai trấn Thanh-Nghệ này, Nguyễn Diên mời được Hoàng tôn Lê duy Mật kéo cờ tôn phù vua Lê dấy binh chống chúa Trịnh. Nổi loạn chiếm Ðồ Sơn năm 1742, Cầu thường lấy của nhà giầu ra phân phát cho người nghèo, chống với chúa Trịnh được gần mười năm. Mật là tôn thất nhà Lê, nổi loạn đánh Trịnh Doanh ở Thăng Long, thất bại phải chạy ra Thanh Hóa năm 1738. Trong cảnh loạn lạc, quan huyện La Sơn tìm cách khu sử cho thật gọn. Coi chỏm Bùi Phong là công thổ, quan để cho người đồng liêu họ Nguyễn vừa mới nhậm chức huấn đạo ở Anh Ðô mua lại.
Thuở Hiến sát sứ Nguyễn Hành thụ bệnh qua đời ở Thái Nguyên cách đây mười lăm năm, nỗi đau xót người chú đã nuôi mình ăn học khiến Thiếp mắc chứng cuồng dĩ. Nhẩy xuống ruộng bùn huyện Kim Hoa nằm mê man ba ngày, Thiếp may được người xã Do Nhân mang về nuôi cả tháng, sau mới tìm đường về nhà. Ba ngày trước, tức là đúng vào ngày mùng tám tuần trăng thứ sáu, Thiếp lại lên cơn động kinh. Ðang phạt cỏ tranh bới đất trồng thêm chục gốc chè, Thiếp bỗng ngã vật ra, chân tay co quắp, miệng méo xệch, người giật lên như đỉa phải vôi. Thiếp muốn kêu nhưng cổ tắc lại, nước dãi đặc sệt phòi ra từng vũng sùi bọt trắng. Thiếp ngửng mặt nhìn lên trời: mây đùn lên, bay vùn vụt, bỗng nhiên đổi mầu thành mây bẩy sắc, ráng tía ngày càng chói lọi đến lóa mắt. Trên cao, vô số khuôn mặt từ phương Nam bay lại, sà xuống, mặt người có, mặt ma mặt quỉ có, mặt Thánh mặt Phật cũng có, lúc thì nhe nanh nhe vuốt như chực cắn xé, lúc lại bi thương đại lượng nhỏ nước mắt từ bi.
Ðột nhiên, một vùng đất nổi lên cao, chung quanh là rừng núi, một đàn voi xông ra, dẫn đầu là một con voi trắng đầu như đầu rồng. Mấy chục con voi lồng lên trong cát bụi mịt mù rượt đuổi một đàn ngựa, con chạy về phương Nam, con dạt về phương Bắc. Tiếng cồng nổi lên nghe đinh tai nhức óc, lẫn vào đó là tiếng tù và, tiếng chiêng, tiếng trống, tiếng kim khí chát chúa choạng vào nhau, rồi tiếng rên la, tiếng van vỉ, tiếng kêu khóc, tiếng chửi rủa. Thiếp cố xoay người về phía trái, tì tay vào một mô cỏ vừa cào. Mặt trời rát bỏng xối xuống từng chậu lửa sánh sệt, làm cho đống cỏ tranh mới cắt cháy bùng lên. Cháy! cháy! cháy rừng! Thiếp hả miệng hớp lấy chút không khí mỗi lúc một ngột ngạt, cố đến độ cổ họng bung ra thành tiếng « chạy! chạy đi! », rồi lịm dần trong lớp sóng lửa vỗ sôi lên giữa một cái vạc dầu đang từ từ nhận chìm cả nhân loại.
Khi Thiếp mở mắt ra, trời đã tối mịt. Ánh đèn dầu hắt bóng Ðặng-thị lên vách mới trát còn ngan ngát mùi đất ẩm. Thiếp thều thào gọi vợ. Ðặng thị cúi xuống xốc cho Thiếp ngồi lên, giọng nửa mừng nửa tủi:
- Mấy năm nay tưởng yên rồi, nay đột nhiên thầy nó lại ngã bệnh.
Thiếp gượng cười.
- Thầy nói, thầy kêu, rồi lại khóc nữa.
- Nói gì?
- Thầy bảo bây giờ là thời mạt pháp!
- Còn kêu gì?
Ðặng-thị im lặng một chặp, ngập ngừng:
- Thầy kêu nhiều lắm, khó nhớ hết được. Có lúc thầy vừa khóc vừa bảo đến thánh thần cũng hư huống chi là người...
- Thế kêu với ai?
Ðặng-thị lắc đầu, kéo tấm chăn đơn đắp cho Thiếp, nhỏ nhẹ:
- Tôi không biết! Thầy nó uống cho tôi bát thuốc này đã. Uống cho hạ cơn xuống đêm nay.
Thiếp từ tốn nâng bát thuốc do một người bạn nổi tiếng danh y bốc cho. Từng ngụm thuốc đắng chát trôi qua như đốt cổ họng, song vào đến bụng thì lại thành mát rượi. Thiếp đặt bát thuốc lên cái ghế đẩu kê cạnh giường, nhớ lại ngày nào họ Lê bắt mạch cho mình trên chùa Hương Tích, nửa đùa nửa thật cười bảo «...chẳng biết Cuồng ẩn đó hay Lãn ông này sẽ tạo nghiệp để phải giây vào đám bụi bậm dưới kia ». Thiếp với tay lấy bình nước chè, nhưng mất thăng bằng, ngã chúi xuống chân giường, miệng thở hổn hển. Bóng đèn hắt bóng Ðặng-thị lên vách, hấp tấp đang xốc Thiếp lên. Lúc sau, bấc đèn vặn nhỏ lại khiến cái bóng khổng lồ ngả dài ra rồi biến mất.
Từ hôm Thiếp lên cơn động kinh, cứ chập choạng tối là Ðặng-thị bắt cả ba đứa con đi ngủ sớm. Hai đứa lớn biết nghe, nhưng Thúc Khảim vào giữa, đắp thêm chiếc chăn rồi một tay ôm con, một tay ôm thằng bé. Ủ hơi nóng thân thể mình vào cái thân thể cùi hủi bệnh hoạn bên cạnh đang run rẩy co quắp, nàng nhắm mắt quên đi những vết ghẻ lở tàn phá, miệng nho nhỏ nói «... ngủ đi, ngủ đi! »
°
Thư vất chiếc cuốc vào gốc cây, mồ hôi nhễ nhại, đến với ống nước tu ừng ực. Nhìn lên trời, Thư vui vẻ:
- Sắp Ngọ rồi, chú nghỉ tay đi. Ta bới cơm ăn.
Phạt nốt cho xong đám cỏ tranh, Toàn Nhật lững thững xuống suối rửa tay. Vừa ăn, Thư vừa rủ rỉ kể cho Nhật nghe về cuộc sống gia đình mình. Trốn khỏi Phú Xuân cách đây đâu gần mười năm, Thức trở lại trại Bùi Phong. Sau đó Thức ngược dòng sông Mã đi tìm mẹ con Mai. Thư gặp cha lúc đã lên mười, vẫn còn nhớ cảnh mẹ mình cuống quít lên gọi tên cha rồi ngã bất tỉnh. Từ đấy, cuộc sống an vui cho đến ngày Thức nhận được tin đến từ Pháp qua một linh mục ghé thăm giáo phận Tây Ðang Ngoài. Người bạn Thức rất quí là hầu tước Condorcet - kẻ đã cưu mang và giúp Thức từ Paris trở về nước - nghe đâu bị chém cổ. Một số những người lãnh đạo Cách Mạng Pháp cũng lần lượt lên đoạn đầu đài. Nước Pháp hỗn loạn rồi từng bước được ổn định dưới thời Tam đầu chế, nhưng bao nhiêu lý tưởng xã hội Cách Mạng cứ dần dần tiêu vong. Sáu bảy năm trở về đây, Thức trở nên thầm lặng, có khi cả ngày không mở miệng. Nhiều hôm, thình lình Thức nói một mình cả buổi bằng tiếng Pha-Lang-Sa. Mẹ-bề trên đến lắng nghe ở cửa, lắc đầu không hiểu gì. Từ ngày nghe tin Nguyễn Ánh chiếm lại được Phú Xuân, Thức thỉnh thoảng nổi cơn lên đập phá, miệng quát «... thế thì còn hy vọng gì! ». Sau thời gian đó, hễ có dịp là Thức lại dọ hỏi tìm tin tức của Toàn Nhật.
Nhìn ra xa, Thư cười:
-... mà chú thì như cánh nhạn đầu trời cuối bể. Lạy Chúa tôi, mẹ cháu cầu xin với Ðức Mẹ mãi, cho đến ngày biết rằng chú về Thăng Long là bố cháu đòi lên đường đi gặp chú ngay.
Toàn Nhật nhắm mắt, hồi tưởng lại ngày mình bỏ Qui Nhơn, ôm xác Chúa Út chạy một mạch vào rừng cho đến lúc chân nhũn ra khuỵu xuống. Khi Nhật tỉnh lại, Nhật thấy cặp mắt một nhà sư hiền lành nhìn mình, không nói, không hỏi, thản nhiên như chẳng có chuyện gì. Nhật bật khóc hu hu. Nhà sư ngồi yên, vẫn nhìn hiền dịu.
Ðợi Nhật khóc xong, nhà sư hỏi trống không: «... đỡ khổ chưa? ». Chẳng đợi trả lời, nhà sư đứng dậy lấy một cây thuổng ra lặng lẽ đào huyệt. Cởi bộ áo giáp võ quan ra bọc lấy xác Chúa Út, Nhật ôm đặt vào lòng huyệt, quơ tay vun đất. Nhà sư giọng đều đều, tụng kinh cầu siêu trong tiếng khóc rấm rứt của Nhật. Một lúc sau, nhà sư lên tiếng: «... vợ của thí chủ? ». Nhật lắc đầu. « Vậy sao lại khóc thảm thiết thế? ». Nhật nhìn nhà sư, không biết nói gì, gật đầu. «... Ðỡ khổ chưa? ». Nhật lại lắc đầu. Nhà sư đứng dậy vừa đi vừa hỏi: « Có muốn dứt được khổ không? ».
Nhật bước theo, từ đó trở thành vị pháp tự truyền đăng thứ hai mươi hai của Diệu Nguyên thiền sư. Sau hai năm tu tập cạnh thầy, Nhật xuống núi đi hoằng pháp. Nay đây mai đó đã mười lăm lần xuân về rồi lại xuân lại đi, lấy gió trăng làm bầu bạn, thiên hạ làm anh em, và đất trời làm nhà cửa, Nhật chẳng đậu ở chùa chiền nào hơn dăm ba tháng.
Thư tưởng Toàn Nhật ngủ, định đứng lên, bỗng nghe hỏi về quyển từ điển Việt - Pha Lang Sa - Latinh ngày xưa Thức đã bỏ công ra tu sửa. Thư đáp:
-... quyển ấy thì xong lâu rồi, cháu không nghe thấy cha cháu nhắc. Từ ngày ở trại đây, cha cháu soạn quyển từ điển Pha-Lang-Sa -Việt - Pha-Lang-Sa. Riêng phần cháu, cha cháu bảo cháu dịch quyển « Về tinh thần luật pháp » của Montesquieu và quyển « Công ước Xã hội » của Rousseau, mười phần nay đã được bảy.
Nhật trầm ngâm:
-... còn cha cháu cặm cụi viết lách cả ngày, chắc cháu biết viết gì chứ?
- Vâng, cha cháu đang hoàn thành một trước tác gọi là « Tề Nhân Thế Ðạo », chỉ thỉnh thoảng mới nói đến với mẹ cháu. Cha cháu thảo ra cả mấy thếp giấy, nhưng cháu chưa được đọc...
- Sao lại « Tề Nhân »? Con người như nhau, bằng nhau là thế nào?
Thư lắc đầu:
- Chú phải hỏi cha cháu - Thư cười - Ngày rộng tháng dài, chắc cha cháu chỉ đợi chú hỏi là nói. Mấy năm nay cha cháu có nói được với ai đâu.
Chợt có tiếng chân người bước lại. Mẹ- bề trên cùng Mai bước lại, miệng tươi cười:
- Thầy vất vả, làm chúng tôi không yên tâm. Lên đây xin thầy giúp cho một việc. Trong trại chúng tôi, vừa có con chiên của Chúa, lại cũng vừa có người bên lương. Người lương vẫn theo đạo Phật, nhưng cho đến nay không có duyên được gặp một nhà sư nào viếng thăm. Run rủi thế nào mà có thầy ở đây, vậy tôi xin thầy gặp họ giúp họ tu tiến phần tâm linh... Nếu được như thế thì quí hóa lắm!
Nhật ngạc nhiên đứng sững người ra. Bỗng dưng, những lời đồn đại về sự hẹp hòi của người bên giáo không có cánh mà bay tuyệt tăm hơi. Trước mắt, Nhật chỉ thấy một người đàn bà độ lượng mỉm cười chờ câu trả lời. Chắp tay, cúi đầu, Nhật vui vẻ:
- A di đà Phật, kẻ tu hành này xin hết sức mình.
°
Một trong ba gian nhà dùng làm thư phòng, là nơi Trọng Thức viết lách sau công việc ở trại hủi. Sau khi Mai và Thư cầu kinh rồi đi ngủ, Thức pha nước, nhắc Nhật kỷ niệm vào trà thất uống tràvới Koji ở Phố Hiến đã gần hai mươi năm trước. Tiếng thác đổ sau nhà nhặt khoan như ru như hát trong âm thanh rủ rỉ của muôn vàn loài côn trùng hòa tấu đón buổi đông về. Ðêm co lại dưới những cơn gió bấc lạnh lùng. Khêu đèn lên, Thức lẳng lặng rót nước vào ấm trà nhỏ bằng nắm tay. Ðợi một lát, Thức đổ sang chén tống, sau đó san trà qua chén con đưa cho Nhật. Hai tay đỡ lấy, Nhật nhắp uống, mũi phập phồng hít hương trà ngan ngát xông lên. Nghe Nhật hỏi, Thức chậm rải:
- Thế nào là Tề Nhân ư? Con người ta dĩ nhiên là khác nhau. Từ trong bụng mẹ, cái bào thai đã có cái mạnh, cái yếu, cái khôn, cái dại. Sinh ra, có đứa sinh trong nhung lụa ngọc ngà, có đứa mới ghĩa là Nhật sống « trong » ta. Ðể ta kể cho huynh nghe việc Nhật không nghe lệnh Nguyễn Huệ, giúp Lữ tránh cho Huệ cái án « giết vua, giết anh ».
Giọng Tự chậm rãi, không cao không thấp, nhắc lại vai trò của Nhật trong thế dàn quân khiến Huệ không thể tiến lên thanh toán Nhạc, nhưng cũng không để Nhạc nhân cơ hội đánh ngược lại Huệ. Tự kết luận:
- Nhật làm thế vì Nhật tin là Huệ có khả năng tạo ra một kỷ nguyên mới. Ðể Huệ vấy máu Nhạc, là mặc cho Huệ tự kết thúc sự nghiệp đó. Ta cũng vậy, và vì thế mới có mặt ở đây hôm nay...
Thức ngỡ ngàng, đầu như bốc lửa giữa muôn vàn câu hỏi. Một kỷ nguyên mới? Một thời đại mới? Thức bồn chồn:
- Huynh nói cho đệ, Huệ định gì để tạo ra một kỷ nguyên mới?
Nhìn ra mặt sông, dăm ngọn đèn chài ai đốt lên đã loáng thoáng từ ngã Ðông Ba hắt lên vàng vọt, ánh xuống nước thành những giải sáng lấp lánh ẩn hiện. Tự nói như nói thầm:
- Cái cũ thì rõ rồi. Hơn trăm năm nội chiến trên một mảnh đất cằn cỗi với một lượng người sinh đẻ càng lúc càng đông. Con đường Nam tiến gần xong, nhưng ta lại mang cái xã hội cũ ở Ðàng Ngoài vào áp đặt lên Ðàng Trong, sớm muộn cũng sẽ rơi vào những giới hạn và mâu thuẫn cũ. Và thế là lại sẽ bế tắc. Không năm mươi thì một trăm năm nữa, vẫn vậy: hết đời nay qua đời kia, lịch sử là sự cướp bóc giành giựt quyền lực và tiền tài giữa những bạo chúa trên xương máu đám nông dân thuần hòa như gia súc trong chuồng...
Tự nhìn lên trời sao, giọng bỗng cứng cỏi:
- Bây giờ cái cũ, nó phải đối mặt với thương thuyền đến từ Tây dương, với đám thương nhân ngày một mạnh, với tầm nhìn vượt qua sự tự cung tự cấp của một xã hội nông nghiệp. Quan trọng hơn hết là cái mới. Nó đến như thế nào? Dĩ nhiên, nó « có mặt » qua thuốc súng Tây dương, đại pháo, súng tay, khinh khí cầu. Ta mua ta dùng, ta xuýt xoa là tốt, là đẹp. Vậy là ta chấp nhận những kẻ tạo ra những mặt hàng kia có cái gì đấy « khác » ta, và thậm chí « hơn » ta ở những mặt hàng ấy. Tự nhiên, ta cũng muốn « làm » như vậy. Làm được, nhưng thế là đồng thời tiếp thu được cách nhìn, cách nghĩ, và những giá trị mới. Sự đổi mới đó tất có ý nghĩa tổng hợp và toàn diện. Nó không phải chỉ đơn giản là làm ra mặt hàng giống người ta. Trò đó chỉ là sự bắt chước của loài khỉ. Khỉ bắt chước người vẫn là khỉ, chưa phải là người. Cách nhìn và nghĩ là nền tảng cho phép đi xa hơn sự bắt chước. Ðổi mới là một vấn đề văn hóa, trong đó kinh tế chỉ là một mặt, và là mặt sơn. « Tốt gỗ hơn tốt nước sơn... ». Kỷ nguyên tới tùy thuộc sự đổi mới đó.
Thức chăm chú nghe Tự nói. Chàng ngẫm lại lời Xuân Quận công khi luận về danh sĩ Bắc Hà: «... về đạo hạnh, có Nguyễn Thiếp ở La Sơn. Còn văn tự, thì là Oánh. Duy thiếu niên đa tài đa năng thì chỉ có riêng một Nguyễn Huy Tự làng Trường Lưu thôi ».
Thức bước theo Tự. Ðẩy cửa, họ bước vào một căn nhà đã lên đèn. Trên sàn, dăm chiếc bàn kê dọc xung quanh có xếp những cái ghế đẫu làm bằng gỗ mộc. Tự kéo Thức ngồi, bảo:
- Quán cơm này gọi là quán Âm Phủ. Cơm hến ở đây tuyệt diệu. Ta có thể ngồi cả đêm nói chuyện với ma quỉ. Huynh vẫn chưa nói gì cho ta nghe về chuyến phiêu dạt qua Pháp quốc...
Thức chưa kịp trả lời, tai nghe văng vẳng hai tiếng hò tức tưởi dài dằng dặc:
« Một vũng nước trong, mười dòng nước đục
Một trăm người tục, chưa được một người thanh
Ai đâu tâm sự như mình
Mua tơ thêu lấy bóng Bình nguyên quân
Con chim chuồn nhởn nhơ trên mặt nước
Tiếng ve ve vang vang khắp một phương trời
Lòng vòng dại lắm ai ơi!
Còng lưng xe cát sóng dồi lại tan... »
°
Nhìn xuống sân thành, du binh xếp thành đội ngũ đứng im phăng phắc, gươm giáo sáng lòe dưới ánh mặt trời. Theo tiếng trống trận, du binh tiến ra theo thế chữ nhất, cờ đỏ buộc trên đầu kích phất phới bay, chân thình thịch nhịp vào lòng đất đang rung chuyển cùng lòng người. Tiếng Huệ sang sảng như chuông đồng cất lên:
«... trong vũ trụ, đất nào sao nấy, đều đã phân biệt rõ ràng, phương nam phương bắc chia nhau mà cai trị. Người phương bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác... Nay người Thanh lại sang mưu đồ lấy nước Nam đặt làm quận huyện, không biết trông gương mấy đời Tống, Nguyên, Minh ngày xưa... Vì vậy, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng. Các người đều là những kẻ có lương tri lương năng, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để xây dựng lên công lớn. Chớ có quen theo thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra, sẽ biï giết chết ngay tức khắc, không tha một ai, chớ bảo rằng ta không nói trước! ».
Tiếng dạ vang rền, sau đó là tiếng quân hô, và tiếng trống lại từng hồi thúc lên hăm hở và hung hãn. Thức nhìn đội du binh cuối cùng ra khỏi cửa thành, rồi quay vào ngồi. Thình lình, cửa chính mở ra, một người bước vào chân đi như có gió cuốn, theo sau là Trần Danh Kỷ. Thức đoán, đứng dậy khom lưng:
- Hạ dân Nguyễn Trọng Thức xin kính chào Vương thượng!
Huệ phất tay, tươi cười:
- Thôi thôi, thầy ngồi xuống đi. Quay nhìn về phía sau, Huệ kêu - Cho ta miếng nước, ta nói đến khô cổ rồi. Nào, bây giờ thì ta nghe thôi, không nói nữa!
Nhìn Thức, Huệ nháy mắt:
- Thầy nói đi. Ðến lượt thầy.
-...
Kỷ chen vào, đỡ lời Thức:
- Trình Vương thượng, đây là Nguyễn Trọng Thức, người vào Qui Nhơn năm Quí Mão để cùng đại quân đánh Gia Ðịnh. Nhưng chẳng may...
Huệ ngắt lời, nhìn Kỷ:
-... Ta biết, ta biết. Thức lạc vào đám tàn quân tên Chủng, ra Thổ châu rồi lưu lạc đến Pháp-lan-Tây, ông đã nói ta nghe rồi.
Quay sang Thức, Huệ đưa tay lên như mời, mồm nói:
- Thầy về Phú Xuân này, hẳn đã thấy là Tây Sơn đang thi hành sách « tận xuất vi binh » để đối phó với họa quân Thanh xâm lăng Ðàng Ngoài. Ta sẽ thắng hay thua?
- Vương thượng thắng.
- Tại sao?
- Vì Vương làm đúng ý hàng dân. Cả hai miền Nam Bắc, hàng dân một lòng sẽ chỉ có thể thắng, thua làm sao được!
Nhướng mắt, Huệ ngắt:
- Không có ta, hàng dân cũng thắng được à?
- Cũng thắng, nhưng chắc lâu hơn. Cuối cùng vẫn thắng.
- Vậy có Huệ hay không, chỉ là mau hay chậm mà thôi ư?
- Dạ. Nhưng mau, thì dân đen đỡ khổ. Ðó là hồng phúc, không phải đời nào cũng có. Cái chính là làm dân đỡ khổ...
Huệ đứng lên, lẳng lặng ra đứng bên rèm cửa nhìn xuống. Lúc này, Huệ mất hẳn vẻ bỡn cợt, mắt đăm đăm, mũi phập phồng làm những cơ bắp trên khuôn mặt co lại cứng ngắc như kim loại. Quay vào, Huệ nhìn Kỷ, rồi nhìn Thức, nét căng thẳng làm da mặt sần sùi kéo lên thành gò đống. Huệ chợt hỏi:
- Thầy nói vậy, nhưng cái lý ở đâu?
Thức nhỏ nhẹ:
- Bẩm Vương thượng, giả như chỉ ngài đánh quân Thanh mà không ai nghe hiệu lệnh, chắc là không đánh được. Ngài gọi một tiếng, quân dân Trong, Ngoài đều thuận lòng ào lên theo. Theo vì hai lẽ, một là Nam Bắc xưa vẫn nước nào biên cương ấy, gương tiền nhân như Trần Hưng Ðạo, Lý Thường Kiệt, Lê Thái Tổ đã in vào gan mật hàng dân. Hai là đến nay ngoài Vương thượng thì có ai lúc này để hàng dân tin vào chiến thắng? Thiếu lòng tin đó, lại phải đợi sự xuất hiện của một người khác hội tụ đủ những yếu tố mà Vương thượng đang có, và vì thế mới chậm đi vài năm.
- Không có Huệ này, thì sẽ có Huệ khác sao?
Thức gật đầu, tiếp:
- Xưa tôi ở Kinh bị tù trong vụ án năm Canh Tý, gặp được Dương Quang là thủ hạ của Quận He Nguyễn Hữu Cầu. Quang kể đã đến ven Thăng Long và chỉ tiến quân vào là chiếm được. Cầu ngừng quân không tiến. Quang hỏi, Cầu đáp « Ta không muốn làm Vua. Làm Vua bây giờ phải làm gì? Ta không muốn làm Chúa. Làm Chúa bây giờ người ta chửi cho! ». Quân rút đi, lúc ấy Quang mới bảo nếu Nguyễn Hữu Cầu làm Vua thì Quang chỉ xin đi đắp đê sông Nhị để hàng năm đỡ lụt lội, cứu mùa màng cho dân. Cầu mắng tại sao vào lúc chiếm Thăng Long dễ như trở bàn tay Quang lại không nói ngay.
Ngừng nói, Thức nhìn vào mắt Huệ, chậm rãi:
- Thưa Vương thượng, ngài đừng đợi đến lúc làm Vua rồi mới hỏi làm Vua để làm gì. Ðó là ý của kẻ hạ dân này, xin tâu lên để ngài rõ.
Nghe Thức nói, Huệ mường tượng ra Nguyễn Hữu Cầu, người cậu ruột đất Hải Dương đã một thời vùng vẫy dọc ngang theo lời kể của Nguyễn-bà. Huệ bỗng nhác thấy bóng giáo Hiến qua hình ảnh Thức, với cái cung cách của một ông đồ giảng đạo nghĩa. Nhưng đạo nghĩa của Thức hình như có khác với những câu Huệ đã từng nghe ở cửa miệng đám quì gối ở cửa Khổng sân Trình. Huệ bất giác nhếch miệng lên cười, hỏi lại:
- Sao thầy biết ta sẽ làm Vua? Và muốn biết cái phải làm gì khi làm Vua thì làm sao biết được?
Thức cúi đầu đáp:
- Muốn biết, phải thử sống một cuộc sống bình thường, từ đó mới thấm được niềm hạnh phúc của những kẻ bình thường, thưa Vương thượng!
Huệ tái mặt, bụng bỗng như hụt hẫng, để mặc cho một nỗi cay đắng tưởng như đã nguội lạnh lại trào lên tựa nước âm ỉ nóng bỗng sôi lên sùng sục. Văng vẳng đâu đó lời nói của An, người đàn bà ám ảnh Huệ vào những lúc phải làm những quyết định về hạnh phúc ở đời. Huệ bỗng nhiên thèm được lui vào một mình một chốn. Ðó là cách Huệ để cho quá khứ nguyên vẹn trở lại cõi tâm tư. Nó có lúc hệt như khi Huệ câu được cá, rồi trái với thói quen, động lòng trả nó về lại với dòng sông Côn trong mùa lũ tuồn tuột trôi xuống hạ nguồn.
Cắn răng, Huệ đứng dậy bước ra. Không nhìn Thức, Huệ nói với lại:
- Thầy thảo cho ta một tờ chiếu lên ngôi. Ta lấy hiệu là Quang Trung. Viết sẵn, khi ta lên làm Vua, biết đâu ta sẽ dùng...
Ðến bậc cửa, Huệ ngưng bước, quay lại:
-... và chớ quên là viết rõ cả điều Vua phải làm gì nhé. Ðừng có phụ lòng ta!
Trái với thói thường, giọng Huệ lần này không có vẻ gì là châm biếm mà lại có phần nghiêm trọng.
°
Quân Thanh xuất phát vào cuối tháng mười năm Mậu Thân. Gồm ba đạo từ Vân Nam, Long Châu và Quảng Ðông - Quảng Tây kéo sang uy hiếp Tuyên Quang, Cao Bằng và Lạng Sơn, số lượng quân bộ trên hai mươi vạn, không kể gần hai vạn lính « cần vương » do cựu thần nhà Lê tập hợp lại làm nhiệm vụ tiên phong. Lập tức, Tây Sơn cử một phái đoàn gồm quan lại cũ của nhà Lê đem bức thư ký tên Giám quốc Lê Duy cẩn và một tờ bẩm văn của hào mục Bắc hà lên biên ải dâng cho Tôn Sĩ Nghị, nguyên soái đại quân Thanh, xin nghị hòa để làm thế hoãn binh.
Ngô văn Sở gọi đám tướng lĩnh về hội bàn tìm cách chống giặc. Nhìn Ngô thì Nhậm, Sở nói, giọng diễu cợt:
- Phiền ông làm một bài thơ để đuổi quân giặc. Nếu giặc không chạy, thì túi đao bao kiếm vẫn là phận sự của lũ võ biền chúng tôi.
Nhậm nghiêm nghị:
- Tướng quân nói đúng một nửa, sai một nửa...
Sở hềnh hềnh hệch cười:
- Xin nói cho tôi rõ cái phần sai.
- Ðánh giặc phải dụng lực và dụng mưu. Lực từ tay chân, gươm giáo. Mưu từ đầu óc, tầm nhìn. Vì thế, văn võ chẳng qua là hai mặt một đồng tiền, có cái này tất có cái kia. Bỏ đi một mặt là hỏng...
Sở thót bụng, nhìn Nhậm nghiêng mình rồi mời ngồi. Quân Tây Sơn khi ấy chỉ non một vạn, nhưng nửa số tướng lĩnh vẫn đòi đánh. Có kẻ nói:
- Lấy nghỉ đánh mệt, lấy gần đánh xa, lo gì không thắng!
Nhậm bình tĩnh hỏi:
- Tướng quân chắc biết quân Thanh cứ năm mươi dặm lại lập ra một đồn lương. Ðại quân chúng vừa đi, vừa phá rừng xẻ m quyền, tô vẽ nó như thiên mệnh theo kiểu quân chủ phong kiến. Ép cả thiên hạ phải tuân mệnh, công nhận sự sắp xếp đó vô thời hạn là việc không thể làm mãi được. Sớm muộn cũng có người dặt lại câu hỏi, thậm chí chống lại. Nhưng nếu chống lại sự độc tôn độc đoán ở xã hội này, thì chỉ có một cách là nổi loạn... Ðấy, đất nước ta là như vậy đấy. Mấy trăm năm rồi, giặc dã liên miên vì thế...
Nhật ngửng đầu nhìn lên những chiếc kèo ngang dọc trên trần nhà, lẳng lặng nghe tiếp hệ tư tưởng Thức dày công đặt từng viên gạch xây nền đắp móng. Uống một ngụm trà, Thức gõ nhẹ lên mặt bàn, rồi trầm giọng:
- Gạt tạm sang một bên cái thực tế nước ta, hãy tiếp tục xét mặt lý của vấn đề tổ chức quyền lực một cách tổng quát. Trở về thí dụ trước, và cứ ba người bầu ra một để đại biểu cho hai người kia. Người thứ nhất là ông A, thứ hai là ông B, thứ ba là ông C. Bây giờ, giả thử chọn A, dĩ nhiên, người thứ hai xếp B trên C, C trên A là kẻ bất đạt nhất. Vậy nếu chọn lựa có định kỳ thì sau khi A là đại biểu, ta chọn B. Cứ thế, sau B thì chọn C, sau C thì lại chọn A. Ðúng một vòng luân chuyển đại biểu, tính công bình được tái tạo lại. Rút cục, quyền lực đại biểu phải luân hoán ở trong một cơ chế trong đó đa nguyên được bảo đảm thì tính công bình xã hội mới khả thi. Nếu không, công bình chỉ là sáo ngữ rỗng tuếch...
Thức lại im lặng, tay đốt đóm châm vào chiếc điếu cầy, rít sòng sọc. Những sợi tóc bạc rối bù như đang nổi loạn trên mái đầu Thức, trắng toát, cô đơn, ngạo nghễ chổng ngược lên trời. Thức lẩm nhẩm nói một mình:
- Ở mức độ trừu tượng vừa đề cập, bài toán chọn lựa tập thể đã khó. Vào thực tế, lại càng khúc mắc. Tập thể bắt đầu là gia đình. Lúc ấy, sự chọn lựa là ăn chung, ngủ chung, nuôi con dạy cái. Sau gia đình là thôn xóm, rồi làng xã. Sau làng xã là tổng, là huyện, là tỉnh rồi đến trấn, đến vùng cho đến cả nước. Ở mỗi mức, sự chọn lựa tập thể lại khác. Làng có việc làng, tỉnh có việc tỉnh. Nước có việc nước. Làm sao để trong mọi việc, từ việc làng xã đến việc đất nước, mỗi người đều có một tiếng nói bình đẳng với mọi người? Cái cơ chế đó phải được định đoạt thế nào trong Công ước? - Thức ngừng nói, rồi mơ mộng - một mẫu hình Công ước có cơ cấu chồng chất lên nhau, sắp xếp trong nhau như dạng một bài toán đố.
Ngập ngừng, vết sẹo đâm xuống chân mày giựt lên, Thức thầm thì như chỉ để cho mình nghe:
-... Một bài toán đố ta vẫn chưa giải được.
°
Thư đến tìm Nhật vào buổi xế chiều, vừa đúng lúc Nhật làm xong nghi thức tụng niệm cầu an cho Phật tử trong trại hủi. Với những con người mà thể xác bị đày đọa cùng cực, phần tâm linh tự nhiên trở thành cái phao cứu độ trong dòng nước trầm phù của cuộc sống. Luận về luân hồi mở ra cho họ con đường chấp chế khổ đau, thôi oán thán, mở tâm thức đón nhận từng ngày từng giờ niềm an lạc ở trong điều kiện của họ. Niết bàn ở ngay đây, và Phật là chính trong ta, sao hoài công kiếm gì ở những đâu xa, như kẻ trên thuyền trôi đi mà vẫn lao tâm khổ trí nhìn trời hỏi tìm ra nước?
Hai chú cháu thư thả xuống dốc về nhà, vừa đi vừa đợi Mai còn bận bịu chút việc. Nhật điềm đạm:
- Cháu ạ, bố cháu lao tâm vào cái việc viết Tề Nhân Thế đạo, vận trí tìm cho xã hội một phương thức điều hành dựa trên công bình bác ái. Nếu thành, thì con người ta sẽ sống với nhau yên vui hài hòa hơn, thôi ức hiếp, cướp bóc lẫn nhau, và hẳn sẽ bớt giặc dã chiến chinh... A di đà Phật, cái tâm lớn thế, chú cầu xin cho bố cháu đủ trí lực để hoàn thành mãn mỹ cái quan niệm xã hội cộng hòa đó cho thế nhân... Nhưng chú ngại vì thế nhân trong tư tưởng của bố cháu khác xa với người đời trong thực tế...
Nhật tiếp, giọng trầm xuống như nói cho chính mình nghe:
- Người đời xử thế không hẳn thuần lý. Cho nên dẫu sự công bình và lòng bác ái đến từ lý lẽ, nó chưa đủ là mẫu mực cho hành vi con người, vốn còn bị chi phối bởi hỉ nộ ái ố lạc dục. Hành vi đó phát xuất từ lục căn, ngũ uẩn nên tham - sân - si làm bức màn vô minh ngăn sự tỉnh thức.
Thư xen vào, giọng đầy phấn khởi:
- Cũng chính vì thế mà giáo dục là một thứ quyền hạn cơ bản cho mỗi con người. Có biết, làm mới tốt. Làm tốt dân sẽ giàu. Dân giàu, nước phải mạnh. Lẽ tư riêng và lợi ích chung dựa vào nhau, không có cái nọ là chẳng có cái kia...
Nhật mỉm cười, nhớ rằng việc Thư nhận là cứ mỗi tuần dạy ba buổi học cho những người cùi hủi trong trại. A, cái tuổi trẻ kỳ diệu, như trồi cây non tìm ánh sáng mặt trời, nhú ra và vươn lên như lẽ tất nhiên. Dịu giọng, chàng hỏi:
- Nhưng còn cái quyền hạn tự do. Giả thử có một người không chịu sự giáo dục, cháu làm thế nào? Bắt người ta đi học à?
- Vâng. Quyền hạn đi đôi với bổn phận. Cái học để biết, biết để không nhiễu người khác, là bổn phận. Pháp luật nhằm bảo vệ lẽ chung khi cái riêng tư của mỗi con người đối chọi lại nó. Tự do cá nhân ngừng ở ngưỡng cửa quyền lợi của tha nhân. Kẻ canh cửa là pháp luật định trong Công ước.
Nhớ buổi nói chuyện tối qua, Nhật nhủ thầm rằng Thư chắc hẳn chưa rõ hết vấn đề thuần lý khúc mắc để xác định ra cái Công ước kia đang dày vò Trọng Thức. Chàng bỗng rùng mình. Một nỗi sợ ùa đến. Sợ những khẳng định cực đoan về cái cơ chế chi phối nhân và thế. Sợ những nề nếp con người đặt ra để trói buộc con người trong cách tư duy giản lược rút về một mối. Ngừng chân, Nhật nhìn vào mắt Thư, hỏi:
- Dạy người, cháu dạy đọc, dạy viết, dạy nghĩa lý, dạy trồng trọt... Cháu có dạy họ yêu thương được không?
Thư lạc quan, nhanh nhảu đáp:
- Thưa được! Yêu người rút cục là một cách yêu mình. Ðắc nhân tất đắc kỷ.
- Tất cả là do vị kỷ mà ra?
Ngần ngừ, Thư gật đầu. Nhật trầm giọng:
- Chú nghe Mẹ-bề trên giảng: « Chúa Giê-Su dạy: Ta không bảo các người chỉ yêu cha, mẹ, anh em, vợ con. Ta bảo các người hãy yêu lấy kẻ thù của các người. Hãy thi ân, cho vay mượn cho dù không có báo đền. Các người sẽ là những người con của Ðấng Tối Cao, vì người nhân lành với những kẻ vô ơn độc ác. Các người hãy biết thương xót, như Cha các người là Ðấng thương xót ».
Thư lặng im. Nhật đẩy cửa vào nhà đi rửa tay, lòng bâng khuâng. Một lát sau, Mai cũng về, miệng nói:
- Không hiểu sao cứ máy mắt.
Ánh nắng tà giữa mùa đông nhuộm cây cỏ một màu vàng pha sắc tái trông như nước da người sốt rét. Thư lúi húi nhóm lửa trong bếp, xuýt xoa kêu lạnh. Bỗng nhiên, Mai thét lên. Nhật chạy vội vào chái nhà bên cạnh. Mặt tái nhợt, Mai không nói được, tay quơ quơ một tờ giấy, rồi ngã chúi xuống chân giường. Thư cũng vội vã chạy vào đỡ lấy mẹ. Nhật đưa tay lấy tờ giấy. Nhìn nét chữ của Thức, mực chắc vừa khô, Nhật thảng thốt. Không nói không rằng, Toàn Nhật bung cửa chạy sổ ra ngoài. Như một vết khói màu xám khổ hạnh, chàng thoắt biến thoắt hiện trong rừng cây xào xạc gió.
Cứ thế, Toàn Nhật chạy lên núi, theo con đường chàng đã nhiều lần đi dạo với Trọng Thức, như bị hút tới phía trước bằng một sức kéo vô hình. Manh áo sồng bay về đằng sau như cánh chim giạt gió, chàng co chân sải như hươu nai, đầu óc tê liệt đến trống không, mặc cho linh tính dẫn dắt. Nhật chạy, cứ chạy, rồi bỗng nhận được ra một cái cây bị chặt cành, nhựa ứa trắng chỗ dao chém. Thêm vài bước, lại một cái cây khác cũng hệt như vậy. Theo những thân cây có vết chém, Nhật tiếp tục chạy, mũi bỗng ngửi thấy mùi củi đốt. Chàng bỗng chột dạ. Phải thế chăng? Theo mùi củi cháy, Nhật leo lên. Trên cao, trong tầm mắt Nhật, khói bay lên lững lờ rồi loãng dần, tan biến trong cơn gió bần bật. Lúc này, Nhật không còn nghi ngờ gì nữa, trống ngực đánh như muốn phá bung cơ thể, tim nhói lên một niềm đau đớn xé ruột xé gan. Rẽ vào khúc ngoặt dẫn lên đỉnh núi, một con chim bàng ở đâu xổ ra, bay lên, rồi lượn vòng trên đầu. Mùi củi đốt nồng hơn. Ðến chỗ chàng thường ngồi trò chuyện với Thức những ngày vừa qua, Nhật ngừng chạy, nhìn chằm chặp vào mỏm đá cao quay ra phía cuối sông. Cạnh đấy, những nhành cây đã cháy thành than vẫn còn bừng đỏ lách tách nổ. Nhật hiểu.
Thức đã hóa thân thành đống tro tàn nằm kia, lặng lẽ không một lời, đón Nhật từ nay cho đến mãi mãi sau này bằng cách trả lại tịnh không cái nín im ở phút giây đầu tiên tạo thiên lập địa.
Nhật hổn hển, chúi chân xuống đất, miệng mặn chát, chẳng hiểu là vì mồ hôi hay vì nước mắt. Gió, lại gió. Cứ từng cơn thốc tháo vào cõi nhân gian. Bụi, lại bụi. Ta cũng là cát bụi. Bụi mịt mù xoáy tròn một cơn lốc phù sinh. Nhật quì xuống xếp chân tọa thiền, nhập vào cõi không, miệng niệm:
« Sắc bất dị không, không bất dị sắc.....
Sắc chẳng khác không, không chẳêng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc. Thụ, Tưởng, Hành, Thức cũng đều như thế....Tướng không của vạn pháp, không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt cho nên không có sắc, không có Thụ, Tưởng, Hành, Thức...»
Như một hòn giả sơn, Nhật bất động, mặt hướng về mỏm đá nơi Trọng Thức đã chặt cây xếp củi, sửa soạn lưu huỳnh và diêm sinh rồi tự mình châm lửa, cháy bùng lên như một ngọn đuốc cô đơn trên đỉnh núi cao. Con chim bàng vẫn lượn đi lượn lại thảng thốt kêu tiếng kêu thương. Nắng đã tắt trên đầu những chòm cây lặng lẽ. Sương muối thấp thoáng ẩn hiện dần dà bốc lên lơ lửng. Thinh không bỗng nhầu nát quặn mình qua tiếng hát giọng đàn bà kéo dài dằng dặc. Hát rằng:
Anh nằm xuống
sau một lần, đã đến đây
đã bay cao trong bầu trời này
đã đi xa trong cuộc đời này...
Rồi nằm xuống
không nói năng
không tiếng tăm....
Như giọt nước kia, về cội nguồn.
Như áng mây xa, quay lại nhà,
rồi nằm xuống
trong tiếng ru người, đến từ thinh không...
Mở mắt ra, Nhật thấy Mai mình dựa vào gốc cây, miệng hát, tay giơ cao lên trời, mặt chan hòa nước mắt, không biết đã đến mỏm đá này từ lúc nào. Thư hai tay ôm vai mẹ, miệng mím chặt, mặt căm lại như khắc vào đá.
Gió, lại gió. Cơn gió bần bật thổi tung đống tàn than đang cháy, thổi những tàn tro còn đốm lửa bốc lên cao, kết thành những bông hoa rực đỏ bay tản ra, tắt dần, rắc trên sông Mã chút bụi xót lại của một cuộc đời. Từ tro bụi mà ra, sẽ rồi lại trở về với tro bụi. Sống ở, chết về. Trên bước về, dấu vết mà làm chi? Danh vọng mà làm gì? Phú quí ư, rồi cũng đến thế! Sự nghiệp ư, có hơn chi một cơn gió giữa bao la.
Thư lên tiếng đọc kinh. Mai ngưng hát, đọc theo:
« Con lậy Chúa con, con ở dưới vực sâu kêu lên Chúa con, xin Chúa con hãy thẩm nhận lời con kêu van: hãy lắng nghe tiếng con cầu xin. Nếu Chúa con chấp tội, nào ai được rỗi bởi Chúa con hằng có lòng lành cùng vì lời Chúa con phán hứa. Con đã trông cậy Chúa con. Linh hồn con cậy vì lời hứa ấy, vì đã trông cậy Chúa con...Lậy Chúa con! xin ban cho linh hồn chồng con được nghỉ ngơi đời đời và được sáng soi vô cùng »
Trời tối dần. Thư dìu mẹ đến cạnh, tay đưa cho Nhật một bọc vải có buộc phong thư. Nhật dịu dàng nhìn Thư, nhìn Mai, đỡ lấy rồi đứng lên. Chàng khẽ nắm lấy bàn tay Mai vẫn run run như một cánh chim non lìa tổ. Gió, lại gió. Ðám tro tàn lại bốc lên bay về phía sông Mã đang gầm gừ khúc biệt hành. Trong vũ trụ này, thực ra vật chất bất sinh, bất diệt. Những tàn tro nay không còn đốm lửa nào, dẫu có xóa chỉ xóa đi hình hài, nhưng hẳn giữ Thức nguyên lành trong bao la.
°
Phong thư của Thức gửi Nhật vẻn vẹn:
«... duyên anh em mình có vậy, đến lúc cuối còn gặp được nhau là đã thỏa lòng ta. Nhờ Nhật chu toàn cho mấy việc. Thứ nhất là lên Bùi Phong tạ từ thầy hộ cho ta. Thứ nhì, giúp cho chị và cháu về giáo phận Bùi Chu. Nguyễn Ánh hàm ơn giám mục Bá đa Lọâc chắc không hại đến giáo hữu ở đấy, hẳn chị và cháu đặng an bình. Dặn Quốc Thư rằng chỉ đến đời vua sau, tất nếp cũ lập lại, người giáo phải lo trước để cẩn thận giữ gìn. Thứ ba, ta gửi phiến đá Băng Vân và sách Tề Nhân Thế đạo. Sách chỉ một mình Nhật được mở ra, xong rồi đem cả đá lẫn sách chôn vào huyệt tổ họ Hà trên bờ sông Mê thuộc bản Mê Hạ, dưới giặng Giăng Màn, từ Bùi Phong đến mất ba ngày đường. Thứ tư, xin dặn lại rằng ai nhớ ta, hãy hãy ném một cánh hoa xuống dòng sông Mã là đủ đẹp. Khi ném, chớ quên nhắc ta « đừng lấy trí nhân ra mà kiêu mạn! » là đủ tình. Trí nhân dẫu cần, nhưng không đủ để con người đạt hạnh phúc. Cái cần, cả đời ta, ta cũng chưa đạt, nói chi đến đủ. Vì vậy, ta đành khất nợ kiếp này, cúi lạy chư vị Chúa, Phật, Thánh thần trên trời, cùng lạy toàn thể chúng sinh trên trái đất này mà ta hằng yêu quí. »
Nhật thẫn thờ, đọc đi đọc lại. Ở gian bên, Thư trằn trọc sột soạt đi đi lại lại. Nhật khêu đèn, tay mở bọc vải Thức trao lại. Quyển sách được bọc kỹ càng trong giấy có thoa sáp chống nước, để dưới một phiến đá to bằng nắm tay. Nhật cầm hòn đá lên. Nó lạnh một cách không ai tưởng tượng ra nổi, ánh lên mầu xanh nhờn nhợt như mặt mũi người thiếu máu. Thắp hương, Nhật thì thầm khấn rồi mở bọc giấy. Quyển sách gáy da xông lên mũi một mùi hương âm ẩm. Trang đầu, tựa đề Tề Nhân Thế Ðạo viết theo kiểu đại tự bằng son, nét có đôi phần ẻo lả chứ không rắn rỏi chắc chắn như nét chữ của Thức. Nhật hồi hộp. Nhớ lại những buổi luận bàn với Thức, Nhật chắc rằng những dòng chữ trong mấy chục trang sau là những công thức gom hết trí lực một đời người bỏ ra để tìm kiếm những cơ chế an sinh và công bình xã hội, điều kiện Thức cho là cần để mỗi người trong đó đạt được hạnh phúc. Nhật giở trang sau, rồi trang sau nữa. Mắt trợn lên, môi run bần bật, cứ thế Nhật vội vã giở cho đến trang cuối cùng. Trong nước mắt nhạt nhòa, chỉ vỏn vẹn đúng bốn chữ đú đởn, nhẩy múa với nhau:
« TỀ NHÂN THẾ ÐẠO »
°
Ðưa quang gánh xuống con thuyền đang dập dềnh quay quanh sợi chão neo vào chiếc cầu gỗ ven bến, Nhật lại chạy lên đón lấy hai tay nải Mai khệ nệ tay xách nách ôm. Ở đầu dốc, Thư ngả người về phía sau, tay ghìm đòn xuống giữ thăng bằng, chân từng bước đi xuống. Nhà thuyền hò lên: « Mau lên, nước lên rồi! » Mai ngửng đầu nhìn. Bên kia, mặt trời đã ló ra khỏi mỏm núi. Trời xanh vắt điểm dăm ba đám mây nhè nhẹ trôi dài ra kéo thành những sợi trắng dần dần mất hút vào tít tắp xa xôi. Khi Thư xuống đến bến thì có tiếng gọi. Mẹ-bề trên cùng hai ba người phụ việc trại tất tả xuống dốc:
- Ðừng đi đâu mà vội... Ðợi chúng tôi một tí nhé!
Ðến ven bến, Mẹ chạy đến, đưa hai tay nắm lấy tay Mai, vừa lắc vừa nói:
- Khổ thân, chúng tôi đến giúp gồng gánh thì đã đi cả rồi...
Lấy tay lau vệt mồ hôi trên thái dương Mai, Mẹ xuýt xoa:
- Ði đường xa, còn là mệt - Quay nhìn nhà đò, mẹ tiếp - thư thư cho nhé, ngày rộng tháng dài mà.
Quay sang nắm lấy tay Thư, Mẹ nhìn Toàn Nhật:
- Xin Chúa ban phúc lành. Dịp tiễn thầy, tôi lại xin mời. Bao giờ thầy lên được trại thì xin cứ lên. Thầy chăn dắt chính quả chính giác giúp người trên trại chúng tôi thì chúng tôi đội ơn vô cùng...
- A di đà Phật.
Mai nhìn quanh. Nàng biết là những người cùi hủi trong trại không ra bến vì có lệnh cấm họ gần gũi người lành lặn. Thật ra, chẳng cấm họ cũng tránh để khỏi lại ngậm ngùi về thân phận mình. Mai nhìn Mẹ-bề trên, búi tóc bạc xòa ra dưới chiếc mũ rộng vành, nước mắt rưng rưng. Mẹ-bề trên lắp bắp:
- Cấm dì khóc. Dì khóc tôi cũng khóc. Già mà khóc người ta cười cho...
Mắt đã đỏ hoe, Mai ôm lấy Mẹ bề trên, nói nhỏ:
- Mẹ chào tất cả anh chị em trong trại hộ con. Rồi con cũng sẽ về thăm. Ơn Chúa, thế nào con cũng về.
Mai quay sang các dì phụ việc trại, nắm lấy tay từng người, cổ họng tắc lại. Có dì khóc rưng rức, có dì cứ níu chặt tay, không chịu bỏ ra, Mẹ-bề trên phải gượng mắng bằng giọng yếu ớt cũng đã chớm vị mặn của nước mắt.
Nhà thuyền chống sào đẩy ra, theo triền sông xuôi xuống. Trên bờ, Mẹ-bề trên lại tất tả leo lên dốc. Thuyền đi được vài trăm sải, Nhật vỗ nhẹ vào Mai rồi đưa tay chỉ. Bìa rừng dọc ven sông, thấp thoáng bóng người. Nhìn kỹ, có cả bóng áo chùng xám của Mẹ-bề trên, của các dì. Vang lên trong không trung lời câu kinh của hàng trăm người cùi hủi đã bỏ trại kéo nhau ra:
«... Lậy ơn Ðức Chúa Blời, xin ban bình an trong đời chúng tôi, vì đừng kể một chúa tôi, chẳng ai cứu giúp bênh vực chúng tôi...Chúng tôi cầu xin cùng Ðức Chúa Blời là Ðấng hay ban lòng muốn thanh sạch, trí luận ngay chính cùng sức làm việc công bình, xin rủ lòng thương ban cho chúng tôi được sự bình an thế gian chẳng thể ban được...»
Nhìn xuống mặt sông, muôn vàn cánh hoa dại màu vàng được thả trôi theo dòng nước lờ lững trôi, trôi đến cho Trọng Thức, trôi xa để sang một thế giới nào đó, có thực đấy, nhưng nào ai hay biết. Mai nắm tay con, nước mắt chan hòa. Hai mẹ con đọc theo:
«...thì lòng chúng tôi mới dễ chiều về đàng lành mà giữ cho nên các điều Chúa tôi răn dạy. Chúng tôi xin bấy nhiêu sự vì Ðức Chúa Giê-Su Kirixitô là Chúa chúng tôi. Amen »
Nhật dõi mắt nhìn. Người trong trại đưa bàn tay cụt ngón lên vẫy. Họ kẹp những chiếc khăn trắng lắc qua lắc lại, thả hoa vàng xuống nước, đọc kinh xong lại cùng nhau hát những bản Thánh ca. Giọng họ cao vút lên đến đỉnh trời, xa đến tận cuối đất,
chở đi niềm ước vọng dầu thế nào cũng không bao giờ mất được trong mỗi cuộc sống.
Nhật ngồi xuống bên cạnh Thư, lặng lẽ ngắm những cánh hoa vàng. Một lát sau, Nhật dịu dàng:
- Cháu ơi, cha cháu tự thiêu mình đi như vậy là vị kỷ hay vị tha? Nếu chỉ vị kỷ, làm sao có được những cánh hoa trên sóng nước?
Thư lặng người đi. Chàng biết là Nguyễn Ánh xưng đế và chính quyền mới lập chắc chắny đồng. Nhưng nay, dù không nghe Thiếp nói ra miệng, Thức biết là thầy mình không còn có thể tránh né mãi được.
Mở cửa bước vào, Thiếp lớn tiếng gọi:
- Bà ơi! Thức nó về đây này.
Nhà trống không một ai, nhưng than trong bếp còn hồng. Thức lách tấm liếp bước ra vườn chè. Ðặng-bà đang với tay hái những chiếc lá non, tai giờ ù chẳng nghe thấy gì. Thức chạy ùa lại, run run nắm lấy cánh tay, nước mắt ứa ra. Ðặng- bà sững sờ, tay bíu lấy tay Thức, nghẹn ngào:
- A, con đấy à! Khốn khổ. Ði đâu mà bây giờ mới về? Vào nhà, vào mợ pha chè...
Nâng bát nước chè xanh biếc, Thức đưa tay lên miệng nhấm nháp chất chát đang từ từ chuyển sang vị ngọt. Nhìn Ðặng-bà co ro têm trầu, Thức hỏi tin Mai và đứa con Thức chưa biết mặt. Ðặng-bà chậm rãi:
- Mai có lên Bùi Phong, rồi vào Phú Xuân tìm con. Không được, nó lại ra, cắp con về Thanh Hóa theo mấy người nữ tu Gia Tô. Cách đây hai năm, nó có ghé chào thầy và mợ, rồi bặt tin…
- Mai hiện ở đâu?
Ðặng-bà ngần ngừ:
- Mợ không rõ lắm, đâu như ở miệt thượngï nguồn sông Mã.
Ðặng-bà lảng chuyện, hỏi Thức:
- Thế anh trôi nổi đến những đâu, kể lại cho mợ biết với!
Thức nhẩn nha thuật lại bước phiêu lãng năm năm qua, từ việc vật vờ trên biển cho đến lúc giạt vào bờ, gặp Ánh, rồi theo Bá đa Lộc sang Paris. Thiếp hỏi:
- So Huệ và Ánh, ai là kẻ đáng làm Vua?
Thức ngẫm nghĩ:
- Huệ đánh được xâm lăng nhà Thanh, thì là Huệ đáng. Nếu không, chưa biết được. Về quân sự, Ánh không bằng. Nhưng xem những cải cách mới đây ở Gia Ðịnh, quả Ánh có tầm nhìn rộng rãi hơn người.
Thiếp gãi cằm, lắc đầu:
- Giá họ đừng đánh nhau, thì tốt. Gia Ðịnh mở mang, thì đất từ Bình Thuận, Phú Yên trở ra Huệ cũng phải lo gầy dựng. Nhưng tiếc thay, họ mở mang gầy dựng là nhắm vào thế thắng quân sự như mục tiêu tối hậu. Ta chỉ sợ khi một trong hai thắng rồi, cả cái công trình gây dựng mở mang cũng sẽ bị ách lại vì không còn mục đích nữa. Nhưng đánh quân Thanh, Huệ chắc thắng và thắng to, thắng nhanh...
Thiếp bỗng ngưng nói, lẩm bẩm một mình:
- Trời ơi đất hỡi, nhà Lê tuyệt số mất rồi! Có cứu, giờ cũng muộn... Thôi thì đành!
Những ngày sau đó, trong khi đợi tin chiến trận ở Bắc Hà, hai thầy trò ngồi bàn chuyện. Nghe Thức tường thuật về tư tưởng cách tân bên Pháp, Thiếp bảo:
- Dân vi trọng, quân vi khinh, đó là tư tưởng thầy Mạnh, có chi gọi là mới? Sách ta cũng bảo ý dân là ý trời!
Thức đáp:
- ý có, nhưng nó chỉ là ý nên thực tại vu vơ, diễn đạt tùy tiện. Hàng sĩ nương vào cách diễn đạt, tạo ra quyền lực của đẳng cấp mình. Cái mới ở nước Pháp là họ tìm ra cơ chế để thể hiện dân ý. Quan niệm Quốc hội, Hiến Pháp và cơ chế Tam quyền phân lập là những điều mới. Khẳng định mỗi con người, không phân biệt đẳng cấp, đều có những quyền công dân cơ bản đặt ra một nền tảng mới cho cơ sở quyền lực.
Thiếp đưa tay ngăn Thức, chậm rãi:
- Xã hội nào, qui củ nấy. Lấy râu ông nọ cắm cằm bà kia thế nào được.
Thức ngẩng lên:
- Xã hội Pháp hiện là xã hội quân chủ. Họ cũng có Vua như ta, và Vua cũng lại dựa vào thiên mệnh. Nhưng ở nước họ, thiên mệnh đó do tổ chức tăng lữ tôn giáo đảm bảo cho, trong khi đó ở ta thì hàng sĩ làm cái chức phận đó từ thời nhà Hán đến giờ. Hai trăm năm vừa rồi ở Âu-la-ba, tôn giáo lùi dần trước trào lưu tư tưởng đặt con người làm trọng tâm, lấy lý trí làm cơ sở. Cùng một lúc, công thương nghiệp phát triển và tạo ra một lớp người mới - lớp tư bản. Họ có khả năng kinh tế, ủng hộ trào lưu này, và tất nhiên là muốn đổi cái cơ cấu quyền lực cố hữu. Ðó là tiến trình vận động xã hội. Thưa thầy, biết được qui luật tiến trình này, ta hẳn không thể xem qui củ của xã hội ta là điều bất biến. Nếu nó đổi, thì nhiệm vụ của kẻ sĩ là làm sao cho sự thay đổi đó tốt đẹp nhất cho hàng dân. Dân có yên, mới giàu. Dân có giàu, nước mới mạnh. Dân giàu nước mạnh mới sinh lễ, nhạc, nghĩa là mới có văn hóa. Dân có văn hóa, biết mình là ai, mới giữ được gốc gác, không sợ mai một như bọt biển trên cơn sóng mà những thương thuyền từ Âu-la-ba đang xô giạt vào bờ đất Ðại Việt...
Thiếp để học trò nói, bụng tự nhiên xót xa như kẻ đi chậm bị rơi về phía sau. Lẽ nào cái trật tự cũ đang bắt đầu rồi đây thay đổi? Thế thì tam tòng tứ đức lộn lạo ư? Còn cái đạo quân tử, nó sẽ đi về đâu? Thiếp dằn lòng, biết mình chẳng có thêå mang những luận điểm xưa ra tranh cãi, chỉ quơ cái điếu cày lên châm lửa rít xòng xọc. Trong khói thuốc xanh mơ hồ, vừa thật vừa ảo, Thiếp nhắm mắt không nhìn Thức nữa.
Hôm Thức rời Bùi Phong, chàng nắm tay Ðặng-bà nói:
- Con ra Thanh Hóa tìm Mai và cháu!
Hốt hoảng, Ðặng-bà líu nghíu:
- Không được, không được!
Thức ngạc nhiên không biết vì sao, lòng chợt ngại rằng Mai đã có chồng, gặng hỏi. Ðặng-bà cuối cùng vừa khóc vừa nói:
- Mai nó ở trong trại hủi.
Cổ nghẹn lại, mắt hoa lên một nghìn con đom đóm bảy màu, Thức ngã vật xuống đất như một con trâu vừa bị búa tạ bổ vào đầu, vết sẹo trên trán từng hồi giựt lên như sắp lại toác ra để rồi không bao giờ liền lại nữa.
°
Dặn dò Ngô thì Nhậm về việc cầu hòa và bang giao với nhà Thanh xong, Quang Trung giao tướng ấn cho Ngô văn Sở ở lại Bắc Hà, rồi cấp tốc kéo quân về Phú Xuân hôm mười chín tháng giêng, chỉ ở lại Thăng Long đúng bảy ngày. Bấy giờ, Phạm văn Tham ở Gia Ðịnh đã vào thế cùng lực kiệt, đành tự đóng gông xin hàng với Ánh. Quân Ánh cũng nhân thời cơ Huệ bận mặt Bắc tiến chiếm Trấn Biên và trực tiếp uy hiếp Bình Thuận.
Tuy thế, ngày khải hoàn ở Phú Xuân vẫn được m đứa con út tên là Lữ. Ngoài Lữ và Mây là gái đầu lòng, Hà gia đã sinh hạ hai đứa trai giữa. Thằng lớn độ mười tuổi, nhâng nháo tay với cần uống rượu. Hà công lừ mắt, nó nhanh như cắt ngồi lùi ra đằng sau. Thằng bé hơn, chắc độ năm, sáu tuổi, ngồi cạnh mẹ, mắt đảo lên nhìn mọi người, mặt lạnh như tiền trong cái huyên náo của những chiếu rượu có đôi người say đã ngã gập đầu xuống mâm. Trước mặt gia đình họ Hà, phía bên kia chiếu, là Ðèo Kha và Mây. Mây lại vào xách ra hai lu, một lu Mây đặt trước mặt Hà công, một lu trước mặt Kha. Hà công nghĩ thầm: « Thách cưới đến thế tưởng chúng nó sức nào lo được! Mà thôi, số nó vậy » rồi xua tay, cắm cần vào lu rượu. Kha vái tạ, và nâng cả lu lên, nói: « Kha này bây giờ là con rể của Mê Thượng, nếu bố vợ tôi cho phép và cả làng ưng lòng thì xin ba tháng sau chúng tôi lại về đây sống với bản... ». Nói xong, Kha tu rượu ừng ực, và ngã lăn ra chiếu. Trong số tráng đinh, một người cười ầm lên và bảo: « Say thế này thì đánh cắp thế nào được cô dâu » và giúp Mây dìu Kha ra chái sau nhà họ. Người ta lại hò nhau bưng thêm rượu và thịt trâu thui.
Có dăm ba người đứng dậy lảo đảo múa rồi hát theo điệu chầu văn bài «Giá ông Hoàng Mười về Hồng Lĩnh ».
°
Khi người tráng đinh vừa ra, Ðèo Kha nhỏm ngay dậy. Những lu rượu Kha uống chỉ toàn là nước lã. Kha nắm tay Mây, hôn lấy hôn để vào mặt, rồi kéo Mây mở cửa trái và lẩn vào bóng những cây rạc cạnh gian nhà họ, chạy về phía đình bản. Khi Mây thấy tấm bảng ¨ Cấm Nhập ¨, nàng khựng người lại, nhưng Ðèo Kha kéo nàng vào ngách Hang Sau. Hang tối mù mịt. Ðèo Kha đốt cây đuốc đã sắp sẵn mang theo. Dơi trong hang vừa bay ra toán loạn vừa kêu eng éc như lợn con. Kha cắm đuốc vào vách đá rồi hỏi Mây:
- Mây ơi, sách ở chỗ nào?
Bấy giờ Mây ngồi phệt xuống, thừ mặt ra, nước mắt chan hòa:
- Thế này thì em mất bố, mất mẹ, mất cả ba đứa em rồi!
Ðèo Kha hốt hoảng:
- Vợ anh ơi, có sách thì ¨ kíu ¨ được nước, khơi ¨mó ¨ đỡ được cho dân mường dân bản, làm phúc làm đức cho con cháu mình sau này. Xong việc, vợ chồng mình sẽ mang mười thớt voi, một trăm lạng vàng, một nghìn lạng bạc đến xin với bố mẹ Mây để tha tội... Rồi Mây xem, tội sẽ được tha, Mây sẽ đẻ cho anh mười đứa con trai, mười đứa con gái... Anh lạy mình, mình ơi.. gấp đi, kẻo trễ, không đợi được nữa đâu!
Mây nhớ lại thuở trước khi ba đứa em ra đời, Mây được chiều vì là con một, Hà công đi đâu cũng cho Mây theo. Một hôm Hà công dặn Mây chơi ở ngoài rồi vào ngách Hang Sau. Mây không nghe, mò theo bố. Khi Hà công thấy Mây, ông đang mở mật kíp ra đọc. Phát giận, ông tóm lấy Mây, dang tay đánh vào đít, vừa gầm gừ vừa cẩn thận nhét quyển sách vào lại một hốc đá nằm khoảng ngang ngực phía bên phải bệ thờ thần Hang.
Mây ngước mắt về phía cái hốc đá, ngần ngừ quay sang nhìn Kha. Mặt Kha căng cứng ra trong niềm hoang mang, mồm tiếâp tục giục, mắt nhìn Mây cầu khẩn van lơn. Nàng đứng dậy, đi ba bước, đưa tay thờ thẫn chỉ. Ðèo Kha chồm lên, bới cục đá chặn hốc, thò tay vào, rồi rú lên, lôi ra cái hộp ngà. Mây nhìn Ðèo Kha mặt mũi méo xệch đi vì đau đớn và sợ hãi. Mặc bàn tay chảy máu như bị dao đâm, Kha tay kia mở hộp, nâng quyển sách lên ngang trán, nói: « Ðây, đây...» rồi hộc lên kêu trời « Ới Then ơi...Then!». Lưỡi Kha bỗng cứng lại, người ngây đờ ra, chỉ còn cặp mắt vẫn căng lên nhìn Mây, dãi phòi ra miệng, thều thào: «... Mây...Mây...». Mây hoảng hốt nhìn bàn tay chảy máu của Kha đang sưng vù lên và đổi sang màu đen sậm. Vực đầu Kha dậy, Mây cố tìm sự sống trong cặp mắt bắt đầu đang lạc đi, rồi trơ ra như mảnh thủy tinh vô hồn đục sệt của một cái chai vừa vỡ. Sự sống mỏng mảnh đó cứ lạnh dần trong vòng tay Mây cố trì kéo vô vọng. Tiếng vó ngựa dồn dập từ xa mỗi lúc một gần. Bản năng đẩy Mây bật dậy. Nàng vội buông xác Kha xuống, cầm lấy quyển sách kẹp chặt vào lưng váy chẽn, rồi dụi đuốc. Tiếng nạng gỗ chống lên nền đá đình bản nghe thình thịch. Mây lẻn thoắt ra ngách Hang Sau, chúi người vào một bụi cây, vừa lúc Hà công đến.
Nghe tiếng dơi kêu, Hà công đang ngà ngà rượu nhưng còn đủ tỉnh táo, đứng bật dậy, lẳng lặng ra trái sau. Không thấy Mây và Ðèo Kha, ông lật đật về sàn, sách theo cây mác rồi chống người vào nạng đu lên lưng con ngựa vẫn buộc ở lối vào. Linh tính báo điều chẳng lành, Hà công phóng thẳng đến đình bản, chống nạng đi ra Hang Sau. Ông thở hổn hển, bật hồng đánh đuốc lên, rồi kẹp vào tay nạng. Tay kia, Hà công lăm lăm giơ cây mác, bước từng bước vào ngách hang. Ông quát: « Chúng bay đâu? con Mây đâu...». Tiếng quát vọng ngược trở lại, ầm ầm đánh vách núi rồi văng ra xa tít tận góc rừng. Hà công vào đến trong hang thì chỉ thấy xác Ðèo Kha. Ông nhìn bàn tay Ðèo Kha nhiễm độc đen thùi, cười khẩy, lấy vải cuốn tay mình rồi cẩn thận thò vào hộc đá. Tiếng người lao xao nghe đâu đã gần, Hà công mím miệng, dắt mác vào người rồi lôi xác Ðèo Kha ra ngoài. Ðến cửa ngách, Hà công gầm lên, tay nạng dơ cao quật xuống đầu Ðèo Kha, rồi ngã bệt xuống đất. Tiếng xương vỡ rào rạo. Máu bắn lên miệng Hà công nhuộm đỏ những sợi râu chớm bạc. Khi bọn tráng đinh vây quanh, Hà công vừa thở vừa nói: « Nó định phạm luật Cấm Nhập vào hang, ta đánh chết nó rồi ».
Nguyễn-thị tất tả đến, hỏi dồn:
- Con Mây nó đâu?
Hà thét lên:
- Bay đi bắt cho ta đứa con bất hiếu, bắt sống cũng được mà chết cũng được!
°
Ðợi cho mọi người đi hết, Mây chui ra khỏi bụi. Không dám nhìn xác Ðèo Kha đầu bị đánh vỡ toác ra, óc trắng lều bều như nổi lân tinh dưới ánh trăng, Mây vái ba vái rồi đi nhanh xuống núi. Nàng tính là bọn tráng đinh đuổi theo đường về Mê Hạ nên quyết định đi ngược về núi Bạch Tượng. Ðầu nàng lúc đó tỉnh táo đến độ nỗi căm hờn lịm hẳn xuống. Sống, phải sống đã. Sống để trả hận cho Ðèo Kha đã chịu chết hai lần, lần chết sau thân thể không vẹn toàn, đầu óc nát nhè dưới cây nạng mun đầu bịt sắt. Bây giờ về đâu? Về nơi nào an toàn? Làm sao trả được mối hận của Ðèo Kha? Mây nhớ lại đã gặp Ðặng-thị bẩy năm trước, khi cùng bố mẹ đến Nguyệt Ao để khẩn cầu một lời của Nguyễn công, kẻ người đời gọi là Cuồng ẩn. Bà lúc nào cũng dịu dàng từ tốn, hẳn có một sức mạnh tiềm tàng vững chãi tựa bãi bờ để thả neo thuyền. Sức mạnh ấy lại bất ngờ rõ nét hiện ra hệt như lúc Mây linh cảm khi nhìn trời rồi đoán ra mưa ra gió. Dịp cưới Mây, tráng đinh có mang thiệp mời đến Nguyễn Thiếp và về báo là gia đình Nguyễn đã lên trại Bùi Phong. Văng vẳng bên tai, Mây nghe như có tiếng Ðèo Kha giục, cứ đi đi, ở phía trước mặt kia kìa. Mây vật vờ nhắm đỉnh Thiên Nhận hướng tới. Sau hai ngày trèo núi, Mây kiệt sức ngất đi lúc nửa đêm. Sáng nay, trước mặt vợ chồng Thiếp, Mây gom hết nghị lực để kể cho hết mọi sự tình.
Thiếp thở dài nhìn Ðặng thị, rồi quay sang Mây, mắt dọ hỏi. Mây đập đầu xuống đất:
- Nếu đập Cheo Reo phá được, nước lại đầy sông Mê, thì chắc linh hồn Ðèo Kha cũng được mát mẻ.
Thiếp trầm ngâm:
- Tại sao Mê Thượng làm đập chặn nước?
Mây không biết, chỉ vào quyển mật kíp:
- Tất cả mọi chuyện trước sau đều nằm trong này...
Thiếp đưa sách cho Mây, nhỏ nhẹ:
- Cháu mở ra mà xem.
Mây mím môi, mở sách, mắt ánh lên một niềm ngạo mạn khó định tên. Mây lật một trang, rồi hai trang, ba trang... Mây luống cuống lật nhanh, lật nhanh nữa, mặt cứ tái dần đi, trở thành xanh mướt. Quyển sách chỉ toàn là những tờ giấy trắng có vân ngà, từ tờ đầu đến tờ cuối trốâng trơn không một chữ. Mây ngật người ra khóc, kêu lên:
- Trời cao đất dầy ơi! Tôi mất chồng tôi vì một thếp giấy trắng... Ðèo Kha ơi, làm sao kíu nước bây giờ?
Mây lại ngất đi. Khi tỉnh dậy, Mây chạy ra ngoài thềm đập đầu vào tảng đá núi, mong thoát kiếp nhân sinh. Ðặng-thị kéo Mây lại được, nhưng những lời khuyên bảo cứ như nước trôi sông. Ðộng lòng thương đứa con gái vừa toan vất bỏ cái quí nhất là sự sống, Thiếp chau mày bực bội mường tượng ra những cuộc chém giết vì kíu nước. Thiếp băn khoăn không hiểu vì lẽ gì quan trọng đến độ đã khiến những kẻ xây đập Cheo Reo chặn nước từ hai trăm năm nay. Có thực chăng cái mạch rồng thiên hạ đồn đãi ở đất Hoan Châu? Và nếu thực, liệu nó có liên hệ gì chăng với cuốn mật kíp mang hình dạng một thếp giấy trắng tinh không có đến một vết chữ? Bao nhiêu câu hỏi ùa đến làm đầu Thiếp nóng bừng lên. Không cưỡng lại được một sự thèm muốn réo sôi trong lòng thôi thúc, Thiếp bật miệng:
- Thêm mọât ngày nữa, may ra ta có thể hiểu được những tờ giấy trắng trong mật kíp.
Suốt hai ngày sau, Thiếp lẳng lặng cầm quyển sách chăm chú nhìn từng trang, ngửi từng trang. Sáng ngày thứ ba, nắm tay Mây, Thiếp thở ra rồi nói:
- Cháu tạo nghiệp cho ta đây. Thôi, tờ cuối cùng của mật kíp có mùi dầu là. Cứ ngâm vào nước, ắt biết.
Mây xé tờ giấy rồi y lời, thấy hiện ra đồ hình nhìn đúng là những cục đá tảng xếp lại, dựa lên nhau, và một dãy chữ li ti « Thượng nhị hữu tam hạ tả tứ lục ». Thiếp chăm chú nhìn, lẩm nhẩm đếm rồi chỉ vào một nơi, nói chậm rãi:
- Chỗ này là chỗ phá được.
Mây quì xuống chân Thiếp lậy tạ. Khi ngửng lên nhìn, ánh lửa trong mắt Mây nóng đến độ có thể thiêu cháy được cánh rừng trước mặt chỏm Bùi Phong.
°
Ra bờ ao ngồi cạnh vợ, Thiếp vuốt tóc Thúc Khải đang chập chờn ngủ trong lòng Ðặng-thị, mắt hướng về phía đông nơi chập chùng rặng Thiên Nhận. Xa tít tắp, biển nhìn chỉ còn là một giải xanh lục chạy vòng theo chân trời. Ao đào năm ngoái, nay hoa súng đã nở, và những con chắm thả tháng trước thỉnh thoảng nhô lên đớp muỗi, làm vẩn lên những vòng tròn lan quanh ra từ những chỗ nước sủi tăm.
Mới chừng năm nay, cuộc sống của gia đình Thiếp đã thay đổi khá nhiều. Từ ngày thầy mình là Nguyễn Nghiễm được phong Tuyên phủ sứ Nghệ An, Thiếp cố tránh mặt, chỉ lên Tiên Ðiền hầu vào dịp Tết. Tết vừa rồi, Nghiễm lại nhắc chuyện bổng lộc: « Ðỉnh đương còn dành đó. Cứ một mình một ý không chịu nghe ai sao? ». Khi Thiếp thưa: «Ấy vì đối với hành thạch, tôi vốn không có bụng mà thôi » thì thầy nổi giận lôi đình, lời lẽ đến độ tính cắt tình nghĩa sư môn: «...anh sinh ra, được học chữ thánh hiền, có công thầy công cha, sao cứ khăng khăng một hai là không có bụng với hai chữ công danh. Nhưng không công không danh cho khỏi lấm tay thì lấy gì mà giúp đời trong cái buổi nước đục này. Anh chắc còn nhớ câu Khuất Nguyên mượn ông chèo đò trên con sông Thương nói:
Thương lang chi thủy thanh hề. Khả dĩ trạc ngã anh.
Thương lang chi thủy trọc hề. Khả dĩ trạc ngã túc.
Nước đục ư, cứ dùng nó để rửa chân, rón rén sợ bẩn mà trốn tránh thì có khác gì như kẻ khiếp đảm cầu an. Anh không nghe thầy lần này là anh phụ thầy...Vậy thì từ nay chẳng có còn gì để mà cứ thầy trò như trước nữa ». Thiếp cắn răng: «...xin thầy thu xếp cho tôi được đem đạo nghĩa Trình Chu ra dậy cho đám trẻ vậây ».
Lúc ấy, đất Nghệ An có Nguyễn Diên và Lê Duy Mật làm loạn, phất cờ tôn phù vua Lê đã bị nhà chúa lấn áp hơn hai trăm năm. Nghiễm được cử đến xứ Nghệ chủ yếu để tróc nã loạn quân. Trước khi Nguyễn nhậm chức huấn đạo, Hoàng tôn Lê Duy Mật từ nơi đồn binh là Ngọc Lâu đến gặp, ý mong Thiếp hợp tác vì lẽ Trung Quân. Thiếp cúi đầu thở dài. Mật không nỡ ép, biết như vậy là dồn Thiếp vào cái thế phải phản thầy, quay qua hỏi chuyện thành bại. Thiếp cũng chỉ lắc đầu, không nói. Mật giọng luyến tiếc: «Trai thời loạn, sao lại xử mà không xuất? ». Thiếp lại lắc đầu, chỉ tay vào đống sách Tính lý, Ngũ kinh, Tứ truyện, Chu lễ, Nghi lễ cận tư lục. Mật biết chí Thiếp đã quyết, cười nói đùa: « Sách nào cho kẻ chẳng được an nhàn này là sách phải đọc? ». Thiếp nghiêm trang trả lời: « Sách Chu tử toàn tập ».
Ném một hòn đất xuống ao, Thiếp lặng lẽ nhìn những gợn nước lan rộng ra từng vòng để rồi tan biến vào cái bằng phẳng của mặt ao lặng lờ dưới nắng. Thiếp lẩm nhẩm như nói cho mình nghe « nếu lẽ là vô thường thì sự thường tại cũng phải có. Biến là biến bởi có sự bất biến. Ðạo khả đạo, phi thường đạo. Gốc ở bất biến mà biến, nhưng biến lại đồng thời bất biến vậy...».
Câu nói chưa xong, một tiếng nổ long trời lở đất vang lên từ phía rặng Giăng Màn. Thúc Khải khóc thét lên. Từ nhà trong, hai đứa bé chạy ùa ra, miệng mếu máo, mặt mũi tái mét ngơ ngác nhìn hết cha đến mẹ. Tiếng nổ từng đợt ầm ầm vọng qua vách núi Thiên Nhận chạy dọc suốt nam chí bắc. Chim kêu nháo nhác hàng đàn từ nóc rừng rạc bay lên đen nghịt cả trời. Tiếng hổ gầm, tiếng voi thét, tiếng khỉ vượn chí chóe, hòa vào tiếng lạo xạo như đá vụn rào rào rơi xuống làm không gian nứt ra những vực sâu tưởng chừng vô đáy.
Trời bỗng tối sầm lại, và từ phía biển những tia chớp xanh lè lóe lên xé dọc không gian thành muôn mảnh. Rồi mưa, bắt đầu nhẹ hột, sau cứ dần dần nặng hột cho đêán lúc tưởng cứ như là trời đổ chì xuốâng thế gian. Qua vài khắc, những hạt nước mưa hóa đá. Trời biến thành mầu sữa pha lê. Những cục đá to bằng đầu ngón tay cái rơi xuống nhìn hệt như những sợi dây thừng trắng căng giữa trời với đất, đẩy nhau ra rồi lại kéo nhau vào như một sự trói buộc không cưỡng lại được. Hôm ấy là ngày hai mươi ba cuối tuần trăng thứ tám.
Phải mất đến ba ngày, Thiếp và Ðặng-thị mới lợp lại được mái gianh đã bị trận mưa đá làm hư hại. Sau bữa cơm trưa, Thiếp bị máy mắt liên hồi. Bứt cuống lá cây thị trồng ở góc vườn phía trái gần bờ ao, Thiếp nhìn một chập rồi bảo vợ:
-... Quẻ Hỏa Sơn Lữ. Cấn hạ ly thượng. Trên ly là hỏa, dưới cấn là sơn. Núi thì định nhưng lửa chưa biết đến chốn nào, nên gọi là Lữ.
Ðặng-thị bồn chồn:
- Thế thì lành hay dữ?
Thiếp ngẫm nghĩ:
- Chưa thể biết được! Nhưng nội nhật nay mai là có khách đến viếng. Mình làm sao có được rượu, được thịt thì hay!
Nói rồi, Nguyễn vào nhà đốt hương mở sách Chu dịch cẩn trọng đặt lên thư án.
°
Khoảng đầu giờ Thân, lúc mặt trời xế về Tây, tiếng xe thồ rầm rập dưới núi. Một lúc sau, Hà công tay chống nạng, tay cầm cương con ngựa ngang lưng có vắt một bọc vải điều, lên trại Bùi Phong. Theo sau là Nguyễn-thị ôm đứa con nhỏ, hai đứa con trai lớn và một tráng đinh cắp đao. Thiếp mở rộng cửa, vái một vái, rồi nói:
- Ða tạ Hà công quá bộ. Tôi đoán trước, đã sắp sẵn rượu thịt đây...
Hà ngạc nhiên, trợn mắt nhìn hai mâm đồng đầy những đĩa thịt gà, thịt lợn đã dọn ra để giữa chiếc chiếu điều trải trên phản gỗ. Không vái lại, Hà sẵng giọng:
- Chắc thầy cũng biết tôi vì sao đến đây rồi!
Trước lối xưng hô thay đổi của Hà, Thiếp chỉ cười:
- Bảo rằng biết, cũng đúng. Bảo rằng không, cũng chẳng sai. Hôm nay, tôi chỉ nói thêm một điều cho trọn vẹn câu trả lời ngài đã hỏi dăm bẩy năm về trước.
Hà công vội vã:
- Ðiều gì?
Thiếp không trả lời, nghiêng mình chào Nguyễn-thị rồi đưa tay mời vào nhà, giữ thần thái ung dung tự tại. Hà ngồi lên chiếu, chưa kịp nói gì, Thiếp đã vừa dâng ly rượu vừa điềm đạm nói:
- Chủ mời, khách chớ từ. Xin ngài cạn chén.
Câu nói cố ý nhắc Hà tư thế của Thiếp, làm Hà chau mày nhưng vẫn đưa tay ra đỡ lấy chén rượu rồi uống ừng ực. Thiếp rót thêm chén nữa, rồi lại thêm một chén, và ngầm hiểu rằng dẫu chẳng thuần phục được người đã giết con hổ cái hóa tinh ở núi Giăng Màn năm nọ, cái họa manh động của một tay võ dõng chắc có lẽ đã giảm được ít phần đe dọa.
Uống đến chén rượu thứ năm, nước mắt Hà công đục ngầu ứa ra, chảy dài xuống hai má như nước vỡ đê. Ngay sau ngày cưới Mây, đinh làng Mê Hạ xô lên cướp được xác Ðèo Kha, rồi bị đinh Mê Thượng đánh bật lùi ra khỏi đập Cheo Reo. Ðể giữ bản, việc tầm nã Mây phải hoãn lại. Lần này, Mê Hạ đã liên kết được với Mường Rây bên cạnh nên số đinh trực chiến đông gấp ba, khí giới sẵn, gạo lương đầy đủ. Ít lâu sau, chúng kháo rằng đã bắt được mật kíp của Mê Thượng. Tin đưa ra, tráng đinh trên Mê Thượng hoảng lên, cả bản đòi Hà công tra mật kíp tìm cách chống giặc. Hà lúng túng chưa biết làm thế nào thì đêm hôm ấy mơ thấy Trần Trung mặt mũi máu me đến vái lạy:
- Hà công đập vỡ đầu nó, trả cái oán nó đập vỡ đầu tôi. Nay đến lượt tôi báo đền. Ngày mai ra quân cứ đánh bằng hỏa hổ, dầu thì đổ thêm lưu hoàng vào!
Sáng ra, nửa tin nửa ngờ, Hà công nói với bản đinh là mật kíp truyền cho đổ lưu hoàng vào dầu hỏa hổ, và chiều ra quân đánh xong rồi rút trong đúng hai canh. Quả nhiên, hỏa hổ trở thành vô cùng dũng mãnh, bất ngờ làm đinh làng Mê Hạ và quân Mường Rây hoảng sợ, tháo chạy lung tung. Nhưng vì hẹn chỉ đánh hai canh, đinh Mê Thượng lại phải rút về Cheo Reo, không đủ thì giờ thọc sâu vào bản dinh của địch. Hà công tức tối trong bụng nhưng ngậm tăm âm thầm trách mình và nguyền rủa thếp giấy trắng truyền đời. Ðịch lại hợp quân tiếp tục tấn công, xua voi tiến tới và dùng những chiếc mộc quấn lá dầm nước bùn để chống hỏa hổ. Hà công lùi, quyết định táo bạo là tản binh ra để trống Cheo Reo, rồi vòng mặt sau theo hai đường phản công vào lưng địch. Không thấy phản ứng, đinh Mê Hạ vào Cheo Reo, đặt bộc lôi, rồi cho nổ.
Ðập vỡ đúng lúc trời tối sầm lại. Nghe tiếng nổ, Hà công hiểu ra, ngửa mặt lên trời gào to rồi khạc ra một búng máu bầm. Vừa khi đó, cơn mưa đá đổ xuống. Hà ngẫm nghĩ một lúc rồi vẫn ra lệnh tập kích vào phía sau địch, đồng thời đích thân dẫn năm mươi tráng đinh gốc gác họ Hà theo dòng nước vừa tìm lại được lòng sông Mê đang ứa lên ào ào chảy xuôi về Mê Hạ. Hệt như những kẻ tử tù vừa phá ngục, nước quay cuồng nhẩy múa, thênh thang vỗ vào bờ đá làm bắn tung bọt trắng xóa hai bên bờ. Ðến một ngọn đồi trọc, Hà lấy thước đo ra, vừa đo vừa tính toán, rồi cau mày chỉ vào một vuông đất nằm cạnh cây đề cổ thụ, nói gọn:
- Ðào lên, đây là mả tổ chúng mày!
Ðêm hôm đó, mang đống hài cốt mới đào trở về đến bản, Hà họp Bản hội, tự tát vào mặt mình đến sưng húp lên như tai voi, rồi xuống chiếu mời bản lập Tộc thứ lên. Ngay sáng hôm sau, Hà mang gia đình và con cháu chính ngành mình xuống núi Giăng Màn, đi về phía Lạp Ðính. Ðược hơn mười dặm đường, cả đoàn đang đi bỗng nhiên khựng lại vì tiếng sáo đinh-bia ở đâu văng vẳng bay tới. Hà nghiến răng:
- Hỡi Ðèo Kha, Cheo Reo đã vỡ là mày toại chí rồi... Ra đây đi! Ta cho mày chết thêm lần nữa!
Tiếng sáo ngưng lại. Rừng sâu lại chỉ còn tiếng gió thổi qua những tàu lá rạc đâm nghiêng như mũi dáo, tiếng ve sầu hờn giận gió nồm bỏng lửa. Một tiếng cười lanh lảnh làm kẻ gan dạ nhất cũng chột dạ. Nhìn lên, ngang chạc ba một cành cây, Mây ngồi vắt vẻo, cười ngặt nghẽo rồi hát:
Gió giận cành đào
gió bẻ cành mai
Gió ơi gió
gió chẳng vì ai
Chỉ vì tiếng đinh-bia mà cứ một hai đọa đầy
°
Hà công tợp thêm một ngụm rượu rồi tiếp:
- Thế là hai trăm năm đi toi! Hai trăm năm giữ đập Cheo Reo, chặn nước để đất bờ sông Mê khô cằn đi, khô đến độ lửa cuối cùng phải bốc lên. Ðủ lửa thì Rồng mọc cánh bay cao, họ Hồ phục nghiệp để rửa cái nhục phải đổi họ, đổi tên...
Hà quay phắt lại nhìn hai đứa trai bảo:
- Chúng mày họ Hồ, cách đây ba trăm năm mươi năm ông tổ chúng mày đã từng dựng nghiệp đế, nhưng than ôi! than ôi...
Rồi Hà nức nở gào lên:
-... chỉ được đúng bảy năm.
Hà im bặt một lúc, bỗng cười khềnh khệch, quát:
- Bảy năm, ừ thế mà đã đánh đến Ðồ Bàn, mở rộng giang sơn này ra tận hai vùng Nam-Ngãi. Ông tổ chúng mày gầy dựng lại cái thời mạt vận của họ Trần, nào là làm tiền giấy, nào lại sửa lại phép đo đạc, nào là phát ruộng cho người cầy. Ðấy thế mà đám hủ nho nó gập đầu xuống đất, chỉ thấy kỷ cương ở dăm câu nói suông kiểu quân, sư, phụ. Bọn giun dế chúng nó đứa thì tránh, đứa thì trốn, đứa thì xúi bẩy dân ngu đến chỗ thấy quân Minh vào xâm lăng mà chỉ trơ mắt ra nhìn.
Hà quay sang Thiếp gằn giọng hỏi:
- Nếu thầy sống cách đây ba trăm năm mươi năm, thầy sẽ xử sự thế nào?
Với chiếc xe điếu, Thiếp châm thuốc rít, nước trong điếu reo lên như cười. Nhắp ngụm nước chè, Thiếp suy nghĩ một chặp rồi thủng thẳng:
- Danh phải chính, ngôn tất thuận. Trị dân không dùng thuật. Lập quốc phải lập từ lòng người. Xưa, Hồ tiên đế vừa thoán ngôi là xuống ngay, lập Hồ Hán Thương lên. Ðấy là vì biết danh mình chưa chính. Vì danh chưa chính nên mới xua quân vào đánh Chiêm, lập công mở mang giang sơn, rắp tâm vì cái công đó mà định danh cho họ Hồ ở đời sau. Nhưng có chiến tranh thì có kẻ cửa nhà tan nát, có người trận mạc thương vong. Như vậy, làm sao mà lấy được lòng người buổi đó? Lòng người tan tác, ngắm sau chỉ thấy đánh Chiêm là gây ra xương rơi máu đổ, nhìn trước thì quân Minh ùa vào, cũng sẽ lại máu đổ xương rơi. Ðổ vỡ, trước sau toàn là đổ vỡ! Ðổ vỡ đó cứu bằng gì? Bằng lòng người. Muốn có lòng người, lại chưa đặng chính danh thì làm sao mà có được.
Hà trề môi ra, khạc đờm xuống đất, trương mắt nhìn Thiếp trừng trừng, rồi gầm lên:
- Kẻ thất phu này bây giờ mang hài cốt tiên di mà không biết đi về đâu đây? Tội này với tổ tiên chỉ có cái chết mới đền bù được!
Vừa dứt lời, Hà vớ lấy cây nạng gỗ mun rồi cứ thẳng tay giáng xuống đất cho đến độ bàn tay cầm nạng toạc máu ra. Một lúc, Hà nguôi đi, ngồi thất thần hổn hển thở. Nguyễn-thị lúc đó quì xuống chân Thiếp thưa:
- Ân công, dẫu tôi là đàn bà, lời ngài dạy tôi cũng hiểu được năm bẩy phần. Tôi người họ Nguyễn-Hữu ở Hải Dương, Cầu là đường huynh, phiêu dạt đến đây rồi kết nghĩa phu thê với Hà công. Nay lại thêm một phen phiêu dạt, xin ân công vì ba đứa trẻ long đong mà chỉ cho đường đi lối bước.
Ðặng-thị bỗng chao người đi chực ngã, tay nắm vào vai Nguyễn-thị, mắt hoa lên, sự vật bỗng nhiên như hư như thật. Một sức mạnh vô hình nâng Ðặng-thị dậy, khiến cho quay về phía Thiếp. Ðặng-thị bất ngờ bật miệng:
- Xin thầy nó nghĩ cho, họ Nguyễn-Hữu là dòng hào kiệt, dẫu gì cũng chỉ vì nghĩa cả, đứng lên tôn phù nhà vua, lại lấy của phi nghĩa chia cho dân nghèo hai vùng Ninh, Hải. Vả lại, chuyện sông Mê không phải là mình không can dự.
Nói xong câu cuối, Ðặng thị chột dạ khôngï hiểu tại sao mình hớ hênh đến vậy. Vô lý hơn nữa, trước cái nhìn dọ hỏi của Hà công, chẳng hiểu ma đưa lối quỉ dẫn đường thế nào, Ðặng-thị thất thần đi như đi trong một cơn mộng du vào lấy quyển sách gáy da hai tay đưa lại cho Nguyễn-thị. Hà công chồm lên giằng lấy mật kíp, miệng gào:
- À, thì ra thế... Nó có đến Bùi Phong này.
Hà xúc động, mặt tái mét, miệng khò khè thở tựa bị bóp tắc họng, mắt nhắm nghiền, đầu ngật ra sau như chỉ chực ngất đi. Quyển sách gáy da văng bắn xuống đất, nằm trơ trẽn như một bản án. Thằng bé lớn gọi:
- Cha, cha ơi...
Thằng nhỏ hơn quắc mắt trừng lên nhìn Thiếp. Còn thằng Lữ, vừa thức giấc, cất tiếng khóc oe óe.
Cúi mặt, thở dài rồi đứng dậy bước ra ngoài, Thiếp nhìn về phương Nam. Khi quay vào, Thiếp đi thẳng đến ngồi trước thư án, mở sách, chậm rãi:
- Ngày hôm trước, tôi ngắt lá, lấy được quẻ Hỏa Sơn Lữ. Sau quẻ Phong, là Lữ. Phong là thịnh lớn, mà lớn đã cùng cực ắt đến nỗi mất chốn ở mà phải đi. Lữ, nghĩa là đã đến lúc đi làm khách. Cảnh đời có thường có biến. Việc người có cùng có thông. Ðến thánh hiền, như đức Khổng tuyệt lương ở Trần Thái, cũng có lúc đã kỵ Lữ. Nhưng đại nghĩa ở giữa tâm, không biến mà chỉ thường. Soán viết, Lữ, tiểu hanh, nhu đắc trung hồ ngoại, nhi thuận, hồ cương, chi nhi lệ hồ minh, thị dĩ tiểu hanh, Lữ trinh, cát dã. Ở đất khách, thế lực không ở mình, quá ty thời mắc lấy nhục, làm cao thời mắc lấy họa, cần nhất là giữ một chữ Minh. Tượng viết, Sơn thượng hữu hỏa, Lữ quân tử, dĩ minh thân, dụng hình, nhi bất lưu ngục. Núi có lửa soi sáng, quân tử xem tượng ấy bắt chước làm việc hình luật, soi xét bằng minh đoán, phán quyết cẩn thận. Tượng viết, đắc đồng bộc trinh, chung vô ưu dã. Tấn văn công ở tả huyện, mất ngôi bỏ nước chạy ra ngoài lưu lạc, chỉ có năm người theo hầu, vừa trung kiên, vừa tài giỏi, sau lại trở về Tấn làm bá chủ chư hầu. Ở vào quẻ Lữ, níu chặt hai chữ Trung, Nhu làm bùa hộ thân. Cùng thông đắp đổi, họa phúc cập kè, không ai cứ Lữ mãi, đừng quên hai chữ Trinh, Cát. Muốn cát phải trinh. Muốn vượng thì phải lấy lòng trung thực làm gốc.
Thiếp ngừng một lát, tay chỉ:
- Vả lại, cháu này đây tên là Lữ, ứng vào quẻ này từ ngày cháu mới đẻ.
Thiếp quay sang nhìn đứa bé năm, sáu tuổi. Nó vẫn trừng trừng nhìn lại, lửa trong mắt rừng rực tóe ra làm Thiếp quay mặt đi rồi hỏi:
- Cháu này khí tượng khác người, tên là gì...
Nói chưa dứt lời, Thiếp xây xẩm mặt mày, ngã chúi người xuống đất. Câu Hà công vừa than «...kẻ thất phu này bây giờ mang hài cốt tiên di mà không biết đi về đâu đây? » bỗng vang lên trong đầu như đến từ một cơn mê sảng. Nhắm mắt, Thiếp lại thấy cái cảnh trên mây trong cơn động kinh ngày nào: một khoảng đất trống xung quanh là đồi núi, một con voi trắng đầu rồng đuổi đàn ngựa, đám dạt về Nam, đám dạt về Bắc. Ðầu như mụ đi, Thiếp nhìn Hà công chăm chăm, máy miệng nói:
- Về phương Nam, đến nơi nào đất cao mà bằng, xung quanh là rừng núi. Chỗ ấy phải là chỗ khi về không ai dám tới quấy phá. Khi đi thì nhanh chóng xuống được thành, và ra được biển.
°
Sáng sớm hôm sau, khi mặt trời vừa qua khỏi đầu ngọn Lạp Ðính, gia đình họ Hà sửa soạn xuống núi Bùi Phong. Hà công chỉ vào bọc vải điều vắt ngang lưng ngựa, khạc đờm nhổ xuống đất:
- Thi thể con tiện nữ đây.
Nguyễn-thị nước mắt chan hòa, mở bọc vải. Tóc Mây xổ tung ra như một dòng thác đen tuyền cắm đầu đổ xuống lòng đất tìm về nguồn cội. Miệng Mây vẫn hé mở, để lộ cái răng nanh khênh khểnh, cứ như là đang cười trêu chọc. Trên ngực Mây, về phía trái, một mũi tên còn găm vào như đóng cọc. Mũi tên ấy bắn ra từ cây cung dài hai thước Hà công mang trên mình, xé gió rít lên tiếng nghiến răng oan nghiệp của định mệnh rồi vụt đi bay thẳng vào một trái tim đầy oán hờn. Nguyễn-thị xin cho chôn cất Mây trên chỏm Bùi Phong, nhưng Hà công làu nhàu gạt đi:
- Ta đem vứt xác nó cho quạ rỉa!
Bỗng thình lình, Hà tiện tay bồng thốc Thúc Khải lên. Ðặng-thị đi từ ngạc nhiên đến hoảng sợ, hỏi thất thanh:
- Ngươi định làm gì thế này?
Hà công bất chợt vòng chiếc nạng đánh ngang vào một thân cây chè. Cây chè dập gãy làm đôi. Hà công cắn răng:
- Chúng ta còn dây dưa nợ nần. Lạp Sơn xử sĩ đã chỉ đường phá Cheo Reo, hài cốt tổ tiên nhà họ Hồ bây giờ lại phải tìm chỗ đủ lửa cho rồng bay lên. Chỗ ngài chỉ, chúng tôi không biết thực hư thế nào.
Hà im lặng một lúc, rồi nói như nói một mình:
- Họ Hồ bắt đầu từ nay đổi ra họ Nguyễn.
Chỉ đứa trai nhỏ, Hà tiếp:
-... và tên mi nay là Nguyễn Quang Bình, chữ Quang đây là chữ đệm của Lạp Sơn Nguyễn Quang Thiếp, lấy đó mà đừng quên lời xử sĩ dạy. Còn thằng nhỏ này, ta đem theo làm con tin cho lời xử sĩ, nếu nghiệp đế mà thành thì nó sẽ được phong vương, còn không xác nó ta băm ra thành trăm mảnh.
Ðặng-thị xông lại định giằng Thúc Khải, nhưng Nguyễn-thị vội ôm chầm lấy, vừa khóc vừa nói:
- Em lạy bà chị, em sẽ trông nom cho cháu như con em đẻ, bà chị đừng cưỡng vô ích, chỉ lại gây ra thêm tội nghiệt mà thôi!
Thiếp nắm chặt hai tay, đứng trơ ra như tượng, nhìn con trong tay Hà đang khóc dãy lên, thấy mình bất lực đến độ chẳng bằng cái sâu con kiến. Mớ kinh sách trong đầu lúc này thật không bằng một cái dậm chân của kẻ vũ phu trước mặt khiến Thiếp thấy thèm chui hẳn vào lòng đất để chết, chết hẳn đi.
Hà công trừng mắt nhìn Ðặng-thị rồi ngó vào mặt Thiếp gằn giọng:
- Nhưng nghiệp đế đó, đến khi nào thì tái tạo được?
Thiếp thả lỏng dần hai nắm tay, gượng cười, mồm mếu máo, nghẹn lời:
-... khi thấy rồng bay lên.
Quay lại, Thiếp để tay lên vai vợ, đứt giọng nói với Nguyễn-thị:
-... bà lấy mang theo ít sách để dạy các cháu và Thúc Khải. Bà nhớ cho là Trung, Nhu,Trinh, Cát. Sách đây có Tứ Thư, Tiểu Học, Ðại Học, Trung Dung...
Nguyễn-thị phục xuống lạy tạ. Phất nhẹ tay áo, không nhìn Hà công, Thiếp cúi đầu vào nhà.
Gia đình Hà công xuống núi. Dưới chân Bùi Phong, đám tráng đinh đã sẵn sàng quang gánh trên vai, rồi đoàn xe thồ bắt đầu rục rịch. Ðặng-thị bồng Thúc Khải xin đi theo một thôi đường. Ðến trưa, khi nắng vừa đậu ngọn cây thì bỗng chốc mây đen từ phương đông mù mịt kéo về. Trời nồm đến độ rờ lên lưng lên cổ tay nhớp nháp mồ hôi như nhúng tay vào dầu vào mỡ. Dừng lại ven con suối dưới chân núi Bạch Tượng, cả bọn mang cơm nắm ra ăn. Ðặng-thị ôm Thúc Khải trong tay, biết rằng giờ chia tay sắp đến. Nhìn con đang bắt đầu thiêm thiếp đi vì nóng và ẩm, Ðặng-thị ứa nước mắt linh cảm thấy rõ ràng lần ấp ủ Thúc Khải này là lần cuối cùng. Hà công ra lệnh:
- Cái gì nặng, vất hết đi.
Nói xong, Hà giằng mấy quyển sách trong bọc vải của vợ cười khinh bỉ thẳng tay ném vào góc rừng. Những trang sách rách rời ra tung bay thành một đàn bướm trắng sạc xào trong gió rồi rụng xuống nằm phục trên đám cỏ gai khô héo.
Cúi bồng xác Mây ra đứng trên một mỏm đá cheo veo, Hà công hai tay quăng xác Mây xuống suối, miệng cười ằng ặc như có người bóp vào cổ họng. Một tiếng đá ở lòng suối ngân lên rền rỉ tưởng như không bao giờ dứt được. Tiếng đá từ một cõi âm u không thủy không chung cứ văng vẳng lời hờn oán cho đến khi mưa đổ ào xuống.
Lát sau, đám con cháu tộc Hà, xưa là họ Hồ và bây giờ mang họ Nguyễn, lên đường. Thúc Khải, nằm gọn lỏn trong một cái thồ vắt vẻo phía sau một cỗ xe, kêu gào ngặt nghẽo. Ðặng-thị quì bên suối, rũ người ra khóc. Dưới suối, nơi xác Mây quăng xuống, chỉ thấy mảnh vải điều bọc thây đang bị hút xuống một cái xoáy nước sủi lên bọt trắng hệt như kẻ sùi bọt mép vì căm giận. Mưa vẫn xối xả trút nước lên núi rừng đã chuyển mình trở thành âm u dọa nạt những bóng người đang gò mình bước lên dốc cao rồi khuất nẻo. Ðặng-thị đứng dậy, vuốt nước trên mặt rồi lủi thủi một mình đi ngược về phía Bùi Phong.
Cho đến tận bây giờ, tức là quá hai mươi năm sau, mỗi khi cầm quyển sách gáy da trong còn trắng chữ mà Hà công vứt lại, Thiếp vẫn tủi thân khi hồi tưởng lại cái cảnh Hà công giằng phắt bắt lấy Thúc Khải, ngậm ngùi nghĩ về con sông Mê, cái đập Cheo Reo. Thiếp chua xót cho máu xương của đám tráng đinh, cả kẻ chặn lẫn kẻ kíu nước, từ hai trăm năm nay đổ ra chỉ vì nấm mộ họ Hồ cần đất cằn để đủ lửa cho thỏa giấc mộng rồng bay. Và nhất là Thiếp vẫn không thể nào quên được đôi mắt đỏ mọng lên như trái dâu rừng sắp rụng của Ðặng-thị khi bước qua ngưỡng cửa, cặp mắt nửa như chịu đựng, nửa như trách cứ cái nghiệp dĩ chẳng biết đã vướng vít tự kiếp nào.
Còn tiếng đá ven suối dưới chân núi Bạch Tượng, cứ mỗi tuần trăng lại một lần rền rĩ vẳng lên. Dân xã Nam Hoa cách con suối nửa ngày đường kể lại rằng chỉ đến năm Cảnh Hưng thứ bốn mươi tư, tức là khoảng hai mươi năm sau, tiếng đá ấy mới dứt hẳn.