Chương 4
Cõi nổi ba đào

Bõ già khệ nệ khiêng một cành đào theo Mai đi dọc chợ Ðồng Xuân, rồi tạt ngang hàng Bè. Từ đấy, đến dinh Khương Tả hầu chỉ còn chừng trăm thước, đường quang người, đỡ phải chen lấn. Hàng phố ai cũng tất tả chiều ba mươi, ngược xuôi, nhớn nhác, nghiêm trọng như thể để dành nụ cười cho đêm giao thừa. Trẻ con không đợi được, rủ nhau đốt pháo chuột, tiếng nổ lạch bạch đây đó làm phố xá chớm thơm mùi khói. Vào cổng, Mai vừa reo vừa tíu tít gọi. Ðặng-thị chạy ra, cười hở hàm răng đen tuyền có vết bã trầu, ôm chầm lấy cô cháu họ. Nghe tiếng lao xao, Toàn Nhật từ trái nhà sau bước vào nghiêng mình vái chào. Mai ngước lên nhìn. Ơ, lạ chưa, chỉ độ nửa năm xa cách mà Toàn Nhật già dặn hẳn đi, miệng tuy cười nhưng vẫn lộ ra một chút ưu tư, một chút cẩn trọng.
Hơn tháng trước, La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp để con trai trưởng là Mạnh Thuyên về Bùi Phong báo tin cho Ðặng-thị là Trọng Thức nay trắng tội. Thức lại về nấn ná dinh Khương Tả Hầu, lần lữa đến mãi tháng mười mới lên tìm Toàn Nhật trên Phố Hiến.
Sau vụ án năm Canh Tý, không khí Kinh Kỳ dịu hẳn ngột ngạt. Số người vãng lai thăm Phu tử ngày một đông. Có kẻ đến ngâm vịnh, biện bàn kinh sách. Có kẻ đến xin một quẻ dịch, hỏi dăm ba câu chuyện hậu vận. Có người đem chuyện chính sự ra kháo. Họ đều là đám thượng lưu ở đất Kinh Kỳ, con vua cháu chúa, và nếu không khoa bảng thì cũng là loại quan quyền văn võ trong Chính phủ. Phu tử tiếp mọi người, thường thì ừ à cho qua chuyện. Riêng với một người Phu tử có lưu tình, là Côn quận công Trịnh Bồng. Vào cuối tháng một, đột nhiên Bồng xuống tóc đi tu, trả lại dinh thự, nghe đâu đã đi lên thọ giới ở một ngôi chùa ở miệt Hải Dương.
Mai xin vào chào Phu tử rồi xuống bếp với Ðặng-thị. Nàng cười, mắt lại thỉnh thoảng nhìn lên nhà trên, mau mắn giúp bà dì sửa soạn đồ cúng. Ðến chiều, Mai mới rảnh tay, đứng trên tam cấp, uống ngụm nước vối vừa pha. Nàng hỏi chuyện Toàn Nhật trên Phố Hiến, rồi giọng vẩn vơ: «... Anh Thức có về Kinh cùng Nhật không nhỉ? », mắt nhìn ra cổng. Lúc ấy, mặt trời chếch xuống dãy mái nhà phía Tây, lựng lên một ráng đỏ đang chuyển dần sang mầu xám lịm. Ðường vắng hẳn người đi, thỉnh thoảng mới thấy dăm ba dáng dấp hối hả như có ai đuổi. Một lát sau, đèn thắp lên, ánh vàng hắt lên vách vôi trắng những bóng người vờn xung quanh nhau như đèn kéo quân.
Cơm tối dọn ra, mọi người ăn qua loa, xong lại ai làm việc nấy. Dưới bếp, nồi bánh chưng đặt từ đầu giờ Thân sùng sục sôi, phải dập bớt củi, mở nắp nồi. Toàn Nhật rửa lại từng viên cuội trắng, tròn trĩnh, trông giống hệt như những viên kẹo bột. Nồi mạnh nha đã bắc khỏi bếp. Khi đã nguội hẳn, Ðặng-thị bỏ từng viên cuội vào nồi, khéo léo gắp ra để trên một chiếc mâm đồng có phủ lá chuối. Mâm kẹo để tiếp khách uống trà trong ba ngày Tết được xếp lên theo kiểu hòn núi non bộ, cheo veo tưởng như sắp đổ, nhưng thật ra mật dính chắc vào nhau, khó suy xuyển.
Mai vẫn ngóng về phía cổng, dáng băn khoăn lộ ra ngoài. Trong góc bếp, nàng lắng tai nghe từng tiếng động, thấp thỏm đợi một tiếng chân, thót người lại mỗi khi nghe tiếng chó sủa. Lấy tay dụi mắt cay xè vì khói bếp, Mai bâng quơ, nhắm hai hàng mi lại, hình dung cho rõ khuôn mặt một người chắc là sắép về. Gần giao thừa rồi còn gì. Pháo lại đì đùng như thúc giục. Phu tử hết đứng lại ngồi, sốt ruột: «... chỉ chờ có nó nữa là đủ mặt Tết này! ». Nói xong, Phu tử quàng chiếc khăn quấn cổ, bước ra vườn, đi về phía cổng.
Ðêm ba mươi tối như mực. Ðặng-thị đã sắp xong mâm cúng. Mai lại nhắm mắt, nhớ lại buổi đến thăm Thức trong ngục. A, cái con người kỳ lạ, mồm sưng vù mà vẫn toác ra cười khi nghe nói đến hai chữ số mệnh. Mai kéo thời gian ngược lại bằng cái trí nhớ mỏng mảnh căng ra đằng sau như tơ vương vào thuở ban đầu. A, cái thuở đến khó quên, dẫu là cho một người vô tâm nhất.
°
Nửa năm trước, khi chân ướt chân ráo đến Thăng Long, người đầu tiên đếùn thăm thầy trò Phu tử là Nguyễn Du. Hỏi thăm được nơi phu tử tạm trú, Du vội vã tới ngay. Ðó là một thiếu niên mảnh khảnh, lưng hơi gù, miệng trễ, mũi cao, da trắng như da con gái. Tính dí dỏm, khi nói giọng Du có chút ngân nga, miệng tươi, nhưng cặp mắt sâu thăm thẳm thoáng có cái gì xa xăm vời vợi. Mừng ra mặt, Du nắm tay Thức và Nhật, rồi xin phép vào chào Phu tử. Khi ra, Du bảo:
- Thầy chỉ nói có một câu, đố các anh biết là gì, nói được thì đệ xin đãi các anh một bữa tối ở đất kinh kỳ hoa lệ này.
Du bắt chước Nhật và Thức, quen mồm gọi Phu tử là thầy, mặc dầu mình là con của Nguyễn Nghiễm, thầy Phu tử, và cùng vai vế với Khản, người bạn đồng môn nhưng kém Phu tử trên chục tuổi. Nhật và Thức chịu, Du nhanh nhẩu:
- Ðệ giúp hai người anh văn hay chữ tốt nhé! Câu này là của Hàn Dũ.
-...
- Chịu chưa?
-...
- Bất bình tắc minh. Phải chăng lòng không đặng, ắt sẽ thành lời!
Thức vui vui:
- Thôi, thế thì ta đãi bữa tối này vậy.
Du giẫy lên:
- Ðùa à, anh thầy đồ «Nôm na là cha mách qué » kiết xác, túi có bao nhiêu mà ngông nghênh được. Ðây là phần đệ...
Nói chưa dứt lời thì có tiếng gọi từ gian ngoài. Ba người ra, một người con gái nhỏ nhắn vội cúi chào. Du vui vẻ kêu: «A, thì ra chị Mai ».
Ðặng Thị Mai ngước lên, đôi mắt lấp lánh mầu hạt dẻ. Mai không cao lắm, mình dây, mặc một chiếc áo cánh gà màu ngà có quấn dây lưng tím nhạt, tóc vấn khăn nhung màu đỏ gụ. Nàng hé miệng cười e lệ, hàm răng hạt huyền đen nhay nháy làm tăng sắc hồng tự nhiên của cặp môi căng mọng. Du giới thiệu, rồi trêu:
- Hai ông anh tôi chê gái Nghệ quê mùa, rắp tâm làm rể đất kinh kỳ này đấy.
Mai cúi mặt thẹn thò rồi xin vào chào Phu tử. Gia đình nàng gốc từ Thanh Hóa đã phiêu dạt vào Phù Ðổng từ hai đời trước. Nàng là em út của Ðặng Thị Huệ, vốn họ hàng xa với Ðặng thị, vợ phu tử. Huệä hiện là sủng phi của chúa. Ngược hẳn lại với người chị luôn đem cân sắc đẹp và sự khôn ngoan bằng vàng ròng, Mai chỉ mê sách vở, thơ văn. Học chữ với phụ thân, rồi sau, nàng lại được Thụy Liên, cháu ruột của Hồng Hà nữ sĩ Ðoàn thị Ðiểm, trau dồi thêm cho nên Mai nắm bắt được cách cảm nhận văn chương khá tinh tế. Khách thơ ở Thăng Long mỗi khi gặp nàng thường ít dám ngông nghênh, một phần vì nhan sắc nàng, một phần vì tài nàng.
Thụy Liên đeo đuổi chí của Ðoàn phu nhân, nhất định không chịu hé mắt xanh tính chuyện chồng con, đến ở với bà cô mấy năm trời. Ban ngày Liên giúp Ðoàn phu nhân chấm văn điểm sách với đám học trò, tối đến hai cô cháu lại cùng nhau ngâm vịnh. Cũng như Ðoàn phu nhân, Thụy Liên coi trọng chữ Nôm, đến nay lại hết lòng gửi gắm Mai tiếp tục con đường ấy. Vì thế nên tuy mới gặp, Mai đã biết tiếng Trọng Thức từ dăm năm nay. Dịp hội ngộ này, nàng đã sắm sửa thức ăn mang lên, nên cái dự định đi ăn tối của Du phải tạm gác lại.
Sùau bữa chiều, mọi người rủ nhau ra Khiêm Các. Vào cuối giờ Dậu, trăng lên trong màn sương tím bạc. Lạ thay, trăng lên từ ven hồ Trúc Bạch, lừ lừ đỏ tía, vụt lên trời nhanh đến độ chỉ một khắc sau đã đậu ngay đầu ngọn trúc. Nếu chẳng biết giờ giấc, trăng lên nhưng nhìn ngỡ như lại là mặt trời đang xuống. Phu tử tay gõ nhẹ vào phiến đá, miệng ngâm nga se sẽ:
Nguyêt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền
Mọi người lắng hồn trong khói sương, ngây người trước cảnh thần tiên, im lặng đắm mình vào không khí huyền ảo tưởng như sắp loãng ra những giấc mơ vô chung vô thủy. Du trầm ngâm rồi nói:
- Chị Mai, thơ hay thế chắc chị đã dịch ra Nôm rồi nhỉ? Mời chị đọc hầu thầy.
Mai e thẹn, li nhí chối từ. Phải Phu tử giục đến lần thứ hai thì Mai mới nhỏ nhẹ:
- Xin thúc phụ cho con phép...
Ðợi Phu tử gật đầu, Mai nhẹ nhàng cấùt tiếng ngâm:
Trăng lặn, quạ kêu, sương giăng trời
Ðèn chài le lói nỗi khôn nguôi
Thành cao bóng đổ chùa hiu quạnh
Nửa đêm văng vẳng tiếng chuông rơi.
Thức lắng tai nghe tiếng ngâm thơ da diết, hồn bay lạc vào vùng sương tím bạc đang ngày càng dày đặc. Phu tử vỗ nhẹ vào tay Mai, ý khen ngợi. Nhật cất tiếng:
- Hay, hay lắm. Nhưng Nhật hỏi chị Cô Tô đâu, Hàn San đâu?
Mai ngước mắt lên, dịu dàng:
- Không cần! Người mình đâu ai biếât Cô Tô với Hàn San
Nàng nhìn về phía Thức, cúi xuống tiếp:
-... Nếu lập lại bằng Hán tự những địa danh xa lạ bên Trung Quốc, hay là dùng điển tích nhà Chu, nhà Tấn thì chỉ tạo thêm mối lệ thuộc.
Quay sang Phu tử, nàng cúi đầu như nói riêng:
-...thế chẳng hơn gì, và nhất là không tạo được sự độc lập tinh thần của dòng Nôm ta.
Ngửng lên, Mai bắt gặp Thức nhìn lại mình. Cặp mắt ấy nóng bỏng, cháy lên rừng rực đam mê, nhưng vẫn giữ được một sự trìu mến lẫn kính trọng. Suốt đời, Mai không bao giờ có thể quên được cặp mắt ấy...
Bỗng một tiếng pháo đùng ở đâu nổ choáng tai làm Mai choàng dậy. Ðặng-thị tươi cười: «Năm mới rồi... ». Tiếp đấy, không biết cơ man nào là tiếng pháo. Xa xa, pháo thăng thiên bay lên trời, vỡ thành những chùm hoa lóng lánh ụp xuống nhân gian, đánh mốc thời gian chòng chành trên một sợi giây không ai biết đầu, không ai biết đuôi, và có lẽ chẳng gì buộc lại được.
°
Khi dâng tư dinh của mình cho thế tử Trịnh Cán lúc còn miệng sữa, Hoàng Tế Lý chỉ nói với một mình Ðặng Thị Huệ về con đường hầm chạy từ dinh ra cửa Bắc. Lách qua phía vườn Bích Câu, đường hầm ngược lên phía Tây, nắp hầm ngụy trang bằng một ngôi mộ trông tầm thường trong khu nghĩa trang nằm cạnh bến Tây Long. Huệ thường ở sát bên Cán để trông nom, vì năm lên ba là Cán bắt đầu oặt oẹo liên miên, thuốc men hàng tháng, lắm khi tưởng đã nguy. Có kẻ vu là Dương Ngọc Hoan, mẹ của Trịnh Tông, đã yểm bùa nơi mộ phần nhà Chúa hòng triệt thứ tôn trưởng, nên Cán mới bệnh hoạn đến độ vậy. Huệ vào khóc với Trịnh Sâm, đập đầu xuống thềm, xin chúa tra xét phần mộ. Việc đó là việc cấm kỵ vì đụng đến vong linh của tổ tiên nên Sâm gạt đi. Từ ngày Tông định làm phản và bị truất xuống làm ¨con út ¨, Huệ lại xin Chúa nghĩ lại, Sâm vẫn không chịu. Ðể bù trừ, Sâm đành bằng lòng định ngày làm lễ thành hôn cho đứa con gái yêu là Ngọc Lan với Ðặng Mậu Lân, em Huệ, kẻ dân Kinh Kỳ thì thầm to nhỏ gọi là ¨ hung thần mắt cú ¨.
Huệ bàn với Tế Lý, vẫn khăng khăng là Cán bị bùa yểm, bảo Lý tìm ra cách xem có gì lạ ở phần chân của ngôi mả Trịnh Doanh, cha của Trịnh Sâm. Lý không tin, cực chẳng đã, lấy cớ sang sửa phần mộ nhân ngày Tết, đích thân đến đào trộm mả và hứa sẽ kể rõ ngọn ngành cho Huệ.
Tối hôm đã hẹn trước, Lý vào nghĩa trang cạnh bến Tây Long, theo đường hầm bí mật lẻn vào dinh Trịnh Cán. Con đường này, Lý đã nhiều lần qua lại và bố trí sẵn cả chỗ ăn chỗ nằm, phòng làm nơi ẩn khi có biến. Qua cái ngách cửa, bất ngờ một bàn tay chặn Lý lại. Lý cau mặt, nhưng mặc cho bàn tay đó luồn xuống đai quần giật mạnh. Mùi hương nhài sực vào mũi Lý. Tiếng Huệ nói: « Há mồm! » rồi tay thò ra cậy miệng Lý. Lý nuốt một ngụm thuốc, vị ngọt, nhưng hơi cay xông lên, mặt nóng dần. Lý túm lấy bàn tay đang lần xuống đùi mình kéo mạnh, rồi ôm xốc người Huệ lên. Mái tóc Huệ đen biếc xõa tung ra rồi xổ xuống tựa một đàn rắn lục. Huệ trườn mình lên hai chân kẹp vào mông Lý, hai tay nắm tóc, lưỡi lè ra cắn vành tai Lý, miệng rên rỉ, thúc giục. Thuốc ngấm. Lý gào lên. Huệ lắc người như con thoi, bàn tay tì cứng lấy hai vai Lý, móng sắc bấm vào làm máu Lý ứa ra, rỉ xuống. Lý xoay người áp Huệ vào bức vách, hai tay nắm cứng lấy bắp đùi Huệ nhấc lên, rồi thúc hạ bộ vào, táo tợn, lì lợm. Cứ thế. Hai sinh vật ấy hào hển quấn lấy nhau, cắn rứt nhau, kêu van nhau rồi cuối cùng buông nhau ra, đẩy nhau nằm vật xuống, mồ hôi nhễ nhại.
Lúc trống canh hai điểm, Huệ tỉnh dậy, lay Lý: « Này, việc thế nào? ». Lý đáp:
- Ðào chân mả, quan sát kỹ nhưng không thấy gì! Duy có một điều...
-...
- Lúc lấp lại mả, tôi bỗng thấy một con rết vàng dài bằng cái đũa. Nó nhẩy lên quần, rồi leo vào áo, tôi phủi không được. Nó lên đến cổ, rồi thoắt một cái, không biết biến đi đâu mất...
- Chắc là nó rơi xuống đất, lủi vào cỏ...
-...
- Nếu màu vàng thì chắc là điềm lành, màu vàng là màu đế vương. Con ông chứ còn ai! Cán làm vua thì đúng là ứng vào tên tục ông là Hoàng Ðăng Bảo. Có đổi ra Tế Lý lúc ấy cũng chẳng được! Hừm!
Huệ tư thông với Lý từ khi Lý còn ở trấn Nghệ. Rồi mỗi lần Lý về Kinh, họ lén lút gặp nhau, Trịnh Sâm không mảy may ngờ vực. Gần gũi Sâm trên ba năm, Huệ vẫn chẳng thai nghén gì. Ngẫm lại, hơn chục năm qua Sâm đã ăn nằm với cả tá bà phi, nhưng kể từ ngày đẻ công chúa Ngọc Lan, chẳng một ai thụ thai. Huệ tính toán, giả giận Sâm cả tháng dịp Lý về, tắt kinh mới lại làm lành, rồi báo Sâm tin vui. Khi Cán đẻ ra, Sâm vẫn nghĩ là đẻ non, lại càng yêu càng quí.
Lý cười nhẹ, xoay người lại nhìn Huệ, nói:
- Phế Tông, Cán chỉ thành Chúa thôi. Vua thế nào được!
Huệ cười khanh khách:
- Quan cách nhà các ông lắm chuyện lắm, còn quá đàn bà! Trịnh Sâm muốn soán, sợ dị nghị, gặp Nguyễn Thiếp bàn ra là thôi... Còn ông vua « hề » Hiển Tông kia thì lẩm cẩm rồi. Duy có một điều là tôi còn ngại: Hắn chết, rồi Thái tử Lê Duy Cẩn mà kế vì ngôi vua thì không thuận lợi cho Cán... Thằng Cẩn gần gũi con Hoan mẹ thằng Tông, không thể tin nó được.
Xưa nay Vua Hiển Tông thấy mình không làm gì nổi Sâm đành nhịn nhục, suốt ngày viết kịch diễn tuồng. Giả như không ngó ngàng đến thế sự, Vua nói ra miệng: « Việc thiên hạ nhà Chúa lo mà nhà Vua hưởng, có chi phải phàn nàn! Tôi sướng, Chúa khổ, vậy mà tôi không biết ơn thì đáng chê đáng cười thật ». Mỗi lần kẻ ăn người ở hậm hực, Vua gạt phăng đi không nghe. Ngay việc chọn Cẩn làm Thái tử, và việc giam nhốt tự tôn là Duy Kỳ từ thuở tấm bé đến nay đã mười lăm năm, Vua để mặc Sâm muốn làm gì thì làm, chẳng dám hé lời.
Huệ xoay người lại, nhìn vào mắt Lý, nhếch miệng:
- Thằng Cẩn lên làm Vua, chắc không lâu được. Nó đù đờ, bất nhất. Cứ để nó kế vị, đợi ít lâu cho đến lúc Cán thành niên, rồi bắt nó thoái vị. Lúc ấy Chúa thành Vua là lẽ đương nhiên. Tách thằng Cẩn ra khỏi đám mẹ con thằng Tông, tôi đã có cách
-...
- Tôi đem gả con Mai, em tôi cho nó. Vợ thằng Cẩn vừa xấu vừa độn, chẳng làm vợ cả được...
Lý nghe Huệ tính toán giản đơn, nhưng táo tợn, luồn lách, mặc nhiên không thèm để ý đến đám quan lại trong triều. Hỏi, Huệ thản nhiên:
- Chúng nó là bọn vừa tham vừa hèn, lại vừa ngu. Thả cho chúng tí quyền, tí danh là đủ. Chúng không đáng ta cho một đồng kẽm. Còn ông, ông ở đấy thì chúng làm gì được? Con ông làm vua, ông cũng phải lo một tí chứ! Ðấy là cái số ông, không làm Vua thì làm bố Vua - Huệ cười, tay lại vắt sang đùi Lý, lơi lả - không muốn à?
Lý tự nhiên thấy ngứa ở cổ, khục khặc ho. Ngồi lên, Lý thấy mắt tối lại, khạc ra. Ðó có phải là một con rết vàng? Nó nhanh như cắt, thoắt một cái là biến mất. Lý hỏi Huệ có thấy con rết không? Huệ kéo Lý đè lên trên người mình, dạng chân, mồm bảo:
-... chỉ tin nhảm, sao đỗ đến ông cống mà còn dị đoan vậy hả?
°
Không về kịp cúng tất niên như đã hẹn mãi đến mồng ba Tết Thức mới về đến Kinh. Việc di giáo hữu từ Phố Hiến về Ða Phạn y theo lệnh của Chúa Tĩnh đô Vương trở nên phức tạp. Giúp giáo sĩ Charles-Antoine Sieyès giao dịch với quan lại sở tại và đám chức sắc người lương tại địa phương, Thức thấy trước mắt một điều: sự mâu thuẫn lương-giáo trầm trọng đến độ đang biến thành những nứt rạn khó hàn gắn được. Mang đất của người lương chia cho người giáo, lại không đền bù gì cho tương ứng, đám quan lại đã đẩy người lương vào thế bạo động. Người lương hợp thành từng đoàn, mang giáo mác gậy gộc vây chặt đám giáo hữu khiến họ tiến không được mà thoái cũng không xong. Charles-Antoine mặt mũi tái ngắt, đưa sắc chỉ của Tĩnh Vương ra, ngón tay chỉ vào khoảng đất được vạch trên địa đồ nơi giáo hữu được phép định cư cho quan Cơ xem. Viên võ quan này mang một đội lính bàng quang nhìn diễn biến, thản nhiên nhổ bã trầu rồi bảo Thức là không biết gì và chẳng có lệnh trên nào đưa xuống. Cứ thế, giằng co cả tuần, đàn bà trẻ con chịu cảnh màn trời chiếu đất, nhao nhao kêu khóc. Gọâp vàng lại đút lót, quan Cơ mới mở đường, lùa giáo hữu vào một khu đất lầy nước mặn. Giáo hữu cắn răng, kêu lên quan Huyệân, rồi cũng chuẩn bị dao gậy. Thức vào hầu quan, lo lắng: «.. từ Phố Hiến lên đây, ít ra là khoảng trên một ngàn đinh. Còn giáo hữu ở Ðàng Ngoài hiện có đến trên hai mươi vạn, cứ thế này là sẽ nội chiến trên toàn lãnh thổ ». Quan cười khềnh khệch: «... thầy rỗi hơi, lo chuyện đâu đâu. Ai chết mặc ai, cái thân thày, thày lo. Chuyện thiên hạ xá gì! Thôi, về Kinh đi, ở lại khéo chết chẹt đấy! ». Viễn tượng một cuộc nội chiến giữa những kẻ khốn cùng tranh nhau chút đất đai khô cằn để có cái mà ăn khiến Thức rùng mình. Chàng ở lại Ða Phạn cho đến khi tạm ổn định được đời sống của giáo hữu rồi mới lên đường.
Dăm bữa rồi, cứ sáng ra là người đó dựa mình vào thân cây hoa sữa, nón mê kéo sụp xuống mũi, ngồi đọc sách. Gia nhân mở cổng dinh Khương Tả hầu ra hỏi, người đó chỉ lắc đầu. Có kẻ hầm hè đòi đánh, người đó ngước lên, mắt sắc như dao, chòm râu quanh mép đã ngả mầu muối tiêu, hất hàm: « Ngoài cổng dinh đất là của thiên hạ, vào hỏi chủ ngươi xem có phải không? », rồi lại điềm nhiên cúi xuống đọc sách. Gia nhân vào kể lại, Trọng Thức bước ra sân nhìn.
Ðẩy cánh cổng, Thức thủng thỉnh bước về phía cây hoa sữa. Người ngồi gốc cây giở nón, ghé mắt nhìn, rồi lại cúi xuống nói trống không: «Tôi xin được yết kiến La Sơn Phu tử ». Thức từ tốn báo là thầy mình đã về Bùi Phong từ tuần trước. Người ấy lại ồ một tiếng, thở dài, rồi lại giở nón ngước mắt hỏi: «... dám hỏi, huynh đài tên họ là Võ Toàn Nhật? », giọng trọ trẹ miền Hoan Châu. Thức lắc đầu, tự giới thiệu. Người ấy xưng tên là Trần Danh Kỷ, hiệu là Tiệp Dư, vốn có giao tình với Koji Mishima, người trên Phố Hiến đại diện cho Nhật Bản thương cục.
Trưa hôm ấy, khi Toàn Nhật về thì Thức đang ngồi trò chuyện với Kỷ. Kỷ đứng dậy, vòng tay chào. Toàn Nhật mới nhận chức Chưởng Cơ của đội Trung Kính, có trách nhiệm lo an ninh và bảo vệ toàn bộ dinh thự trong phủ Chúa và dinh các đại thần trong Chính-phủ. Kỷ tỏ vẻ ngạc nghiên:
- Huynh đài có cơ duyên đấy, có phải ai cũng có cái trách nhiệm ấy đâu. Quan Chánh dường tin người là phải có cơ sở. Thế còn Phu tử, ngài thuận lòng cho học trò nhận quan nhưng chính mình thì lại lánh xa hoạn lộ, cũng là điều lạ...
Toàn Nhật mỉm cười:
- Thầy tôi không o ép gì ai cả, chỉ nói “thuận thiên hành đạo”.
- Việc Phu tử nhất quyết không tán thành việc soán ngôi nhà Lê đã đồn đãi đến Ðàng Trong, ai cũng tâm phục.
Tay chỉ Thức, Kỷ cười:
- Chỉ thiếu một chút là cái đầu huynh đài đây suýt rơi trong vụ án năm Canh Tý!
Kỷ thân mật kể chuyện Ðàng Trong cho Thức và Nhật, và nhất là tình bạn với Mishima suốt mấy năm qua. Cơm nước xong, Kỷ xin phép ra về. Khi Nhật tiễn ra cổng, Kỷ quay lại, bất ngờ hỏi:
- Quyển sách ấy của Mishima, huynh đã trình lên quan Chánh dường chưa?
Nhật ngẩn người, chưa nghĩ ra, hỏi lại: « Sách nào? » thì Kỷ đã chỉ vào những cành mai còn vàng hoa, nói lấp chuyện:
- Không, chẳng có gì quan trọng! Toàn huynh xem, mai còn vàng thế này thì chắc năm nay mùa xuân dài hơn thường lệ, và hẳn không phải lo hạn hán.
Nhìn bóng Kỷ khuất sau lối ngõ hai bên trồng trúc bạch, câu hỏi « sách nào » văng vẳng. Toàn Nhật thầm nghĩ, chẳng hiểu có phải là cuốn « Luyện kim yếu pháp » không? Nếu thế, Kỷ là ai? Một người gốc châu Hoan, đỗ hương cống năm Canh Dần, xử mà không xuất hơn chục năm nay, rày đó mai đây, kết bạn với cả những ngoại kiều như Mishima? Nhưng cũng có thể là một quyển sách khác, chẳng hạn như cuốn « Chuyện các nước phương Tây » (Seiiku Monogatari ) mà Mishima vẫn để gối đầu giường. Toàn Nhật ngẫm nghĩ rồi lắc đầu, bật cười, tự nói cho mình nghe « Cái bệnh ngờ vực ở đất Kinh Kỳ này lây thế mà nhanh thực ».
°
Ðặng Thị Huệ vồn vã nắm tay em kéo ngồi xuống chiếc sập gụ lên màu đen tuyền bóng lên như thoa mỡ. Nàng đưa tay vuốt lại vài sợi tóc vấn vội còn xòa trên thái dương Mai, miệng tươi tắn:
- Chị có một tin vui báo em. Này Mai ạ, Thái tử Cẩn nhờ người dạm hỏi em về Ðông cung làm Ðệ Nhất thứ phi. Việc cưới phải làm gấp, vì nay Ðức Vua chừng yếu lắm, chẳng biết lúc nào... Chị tính là sau lễ tơ hồng cho Mậu Lân, chị mới có thể lo đến phần em...
Mai bàng hoàng, tai ù lên, nghe Huệ nói như vẳng đến từ một cơn mơ. Cùng cha nhưng là con bà lẽ, thuở tấm bé Mai phải gọi mẹ mình là «chị » cho đến khi mẹ mất. Ngày xưa, khi mẹ «cả» lấy vợ cho cha, mẹ hằn học: « tuổi tao hết vui hết thú, lấy người về hầu ông ấy, đỡ nhọc đỡ vướng ». Bà lẽ, lúc ấy mới mười sáu, là một cô bé còn ngây thơ. Sau lễ tơ hồng, cô bé mặt xanh lớt, nhịn ăn cả tuần lễ, cứ nghe tiếng chân ban đêm là dúm người lại. Hai năm sau, Mai ra đời. Mẹ «cả» ngắm Mai, rồi khinh khỉnh nói: «... đúng là cha già con cọc! ».
Năm Mai lên tám, «chị » bỏ Mai đi, thở hắt ra, miệng rên: « Tội nghiệp con mẹ một mình! » rồi nấc lên, đầu ngoẹo xuống, tay vẫn nắm cứng lấy Mai, phải hai người mới gỡ ra được. Mẹ «cả» bảo Huệ, lúc ấy tuổi xấp xỉ tuổi «chị » đẻ ra Mai, giọng sa sả: «Từ nay mày lo cho con ranh này!».
Vài tháng sau, mẹ «cả» đau yếu, cả ngày nằm một chỗ, nhưng vẫn tỉnh táo. Mẹ bảo: «... Con Huệ, tao đã lo cho mày vào hầu hạ Chúa trước khi tao chầu trời, chậm thì lại kẹt cái tang mẹ. Sau này, mày lo cất nhắc thằng Lân, nó chữ nghĩa không có, chỉ suốt ngày lêu lổng ». Mấy ngày sau, mẹ gọi Huệ và Lân vào phòng, đuổi cha ra, rồi dằn từng tiếng: «Tao sắp đi về với ông bà. Vốn liếng nhà chẳng được là bao. Cha chúng bay là thứ vô công, chỉ lăng nhăng hết ngâm lại vịnh. Nhìn ngang, cũng chẳng bằng ai, nhìn lên thì thấy ai cũng hơn, nên chỉ biết gục mặt nhìn xuống, miệng nói nhân, nói nghĩa, không màng công danh tự lừa dối mình. Hai chúng mày chẳng nhờ vả gì được cha đâu...Nhớ đây, mẹ dặn: đời chúng mày, phải làm thế nào để chẳng phải quì gối trông lên một ai. Muốn thế, phải có tiền. Muốn có tiền, phải có quyền. Muốn có quyền thì đừng lấy chuyện nhân nghĩa tầm phào làm mốc. Cái mốc khiến được thiên hạ là lợi, là tiền.Tiền à, là Tiên là Phật, là ngọc là ngà, là cái đà của danh vọng, là cái lọng của nịnh thần, là cán cân của công lý... ». Mẹ «cả» ngưng nói, rồi thều thào: « sáng mai, con Huệ vào phủ Chúa, nhớ lời mẹ ».
Mẹ «cả» đi ngay tối hôm đó, nhưng chỉ báo tang ba ngày sau, đợi Huệ vào phủ Chúa xung thị nữ trước đã. Huệ làm vẻ không hay biết gì. Ngày đi chôn mẹ «cả» chỉ có cha, Lân và Mai. Từ đấy, gia cảnh túng quẫn, đồng ra đồng vào là nhờ tay Huệ. Cha tuổi cao, chỉ quanh quẩn với Mai, dạy Mai ngâm vịnh, và phàn nàn Lân là loài nghịch tử, họ Ðặng đến đây coi như tuyệt tự. Còn Lân thì kéo bè kéo đảng rủ nhau lấy tiền xâu ở chợ hàng Da, hung bạo đến độ nổi tiếng một vùng. Ít lâu sau, Huệ không những chinh phục Trịnh Sâm mà còn cả đám quan thị phục dịch trong phủ. Ðến lúc ai muốn gì, cứ nói với Huệ là Sâm cho toại ý, người đời gọi Huệ là bà Chúa Chè.
Nhìn Mai, thình lình Huệ lên tiếng:
- Em nghĩ thế nào?
Mai ngước nhìn Huệ, cắn môi ngập ngừng:
- Chị để em nghĩ, việc một đời...
Huệ ngắt lời:
- Bà Thái phi đau yếu, bệnh tật, lại đứng tuổi rồi. Sau, là em. Ðức Vua chắc sống cũng chẳng còn lâu. Như vậy, chị độ là em sẽ thành hoàng hậu nhà Lê, làm vang danh cho họ Ðặng, chắc cha cũng mỉm cười nơi chín suối...
Ngẫm nghĩ một lát, Huệ nói tiếp, giọng đanh lại:
- Không phải ai cũng được như chị em mình. Chị cũng biết là em có tình ý với một anh thầy đồ xứ Nghệ. Thái tử Cẩn già nua, nên em cũng đừng phí độ xuân xanh của mình. Quan Chánh dường có ý xếp việc cho thầy đồ nhà em được gần gũi em trong Ðông cung phủ. Việc ấy không có gì khó cả...
Huệ nheo mắt nháy, cười giả lả:
- Bây giờ em về xếp đặt, rồi đầu tháng lên đây ở với chị, giúp chị trông nom thế tử Cán vẫn cứ oặt oẹo, chưa thuyên giảm được chút nào.
Huệ giữ Mai ở lại ăn cơm chiều, bảo Mai vào chơi với Cán. Ði qua những hành lang lờ mờ thấp thoáng ánh bạch lạp, Mai bước vào một căn phòng tứ bề rủ chướng gấm, mùi thuốc xông vào mũi. Cán reo: « Dì Mai, mẹ dặn thế nào dì cũng đến, Cán đã sắp sẵn đồ chơi đây rồi!». Cán đứng lên, chân không vững xiêu đi suýt ngã, mặt xanh xao, bụng ỏng, tay bưng một hộp gỗ đựng dế có đục lỗ. Mai ra cửa sổ định kéo mành, nhưng thị nữ giơ tay lên chặn lại, nói rằng tuyệt đối cấm vì sợ gió máy. Mai ngồi xuống tràng kỷ, miệng đắng lại, khô tưởng như bỏng. Chập chờn tranh tối tranh sáng, văng vẳng trong đầu Mai tiếng hát quan họ «... cá cắn câu biết đâu mà gỡ... chim vào lồng biết thuở nào ra ». Mai đưa tay lên quệt mắt, lòng quặn lên một niềm hãi sợ đang ầm ập kéo đến hệt như một cơn giông bất ngờ.
°
Ra khỏi Cấm cung, Mai ngơ ngẩn như người mất hồn, chân bước về phía hồ Thủy Quân, lòng trống trải để gió lộng tứ bề. Buổi tàn thu, những cây bàng cong queo rắc lá vàng xuống vệ đường vòng quanh hồ như trải thảm dưới chân. Giữa hồ, tháp gươm nổi lên để đánh bạn với nỗi đìu hiu của đàn sâm cầm tha về để hoang trên cỏ dại.
Ngồi xuống gốc cây đại thụ đâm chồi ra mặt hồ, Mai lẳng lặng nghe hồn mình se sắt theo hơi lạnh đang lẩn qua chiếc áo bông bằng nhiễu màu gụ đỏ. « Như vậy, chị độ là em sẽ thành Hoàng hậu nhà Lê...», tiếng Huệ lại vang lên trong đầu Mai. Không, chị Huệ, em chỉ là một thứ đồ vật mang ra gả bán. Khi thành Hoàng hậu thì em chắc chắn em không còn là em. «... Quan Chách dường có ý xếp việc cho thầy đồ nhà em được gần gũi em trong Ðông cung phủ ». À, hay nhỉ. Vẹn toàn ghê, chưa gì đã rắp tâm trốn chúa, lộn chồng. Nhử nhau bằng vàng và tội lỗi, chị Huệ ơi, chị định nặn em theo khuôn chị, để « làm vang danh họ Ðặng,... cha cũng mỉm cười nơi chín suối ». Không, chị làm sao hiểu được cha. Cha chắc sẽ ngậm hờn thì đúng hơn, chị ạ.
Mai chợt buồn nôn khi nhớ lại cảnh Huệ nheo mắt nháy, vục vội đầu nôn thốc nôn tháo xuống hồ. Nhìn bóng những cành đại thụ gẫy ra, rồi nhòa nhạt, như chắc không bao giờ sẽ hiện lại nguyên hình nguyên ảnh, nàng hoảng sợ. Ðứng vội lên, Mai đi như chạy về dinh Khương tả hầu.
Khi Thức ra mở cổng, Mai òa khóc, nước mắt như mưa. Ðưa Mai ra cạnh bờ ao, Thức chấm nước mắt cho Mai, tay ôm lấy bờ vai gầy guộc run rẩy nép vào lòng mình. Thức xót sa nhớ lại những giọt nước mắt ngày Mai khóc khi đi thăm mình trong cảnh tù ngục năm ngoái. Nghe Mai kể xong, Thức thở dài, mắt nhìn lên bầu trời đang ngả sang màu mực nhạt. Mai im lặng, chờ đợi. Thời gian giãn ra tưởng dài đến vô chừng trong khi Thức vẫn mím miệng, hàm bạnh ra, cái sẹo đâm xuống chân mày co giựt từng hồi. Không nhịn được, Mai ấp úng:
- Phải làm gì bây giờ?
Tránh cái nhìn trách móc của Mai, Thức hỏi lại, ngây ngô:
- Em định làm gì cơ?
Vừa bực, vừa buồn cười, Mai sẵng:
- Hay anh muốn có cái việc gì ấy ở Ðông cung phủ...
- Không, nói bậy - Thức quay lại trừng mắt - Em phải từ chối. Rồi anh xin thầy đến hỏi em về...
Bấy giờ, Thức bỗng nhỏ đi như một đứa trẻ trong mắt Mai. Nàng bình tĩnh:
- Họ nắm quyền, nắm thế, chẳng để mình yên để hỏi để cưới như thế đâu. Hai ta không có cách gì khác là trốn đi...
Thức như người trên mây, bật miệng:
- Nhưng trốn đi đâu?
Bật cười để ghìm cơn giận, Mai cố nhỏ nhẹ đáp:
- Bầu trời này còn rộng chán cho mình nương náu...
Nhìn Thức cứ nghệt ra, Mai bỗng tủi thân, hệt như kẻ vừa ngửa tay xin mà không được cho. Hộc lên một tiếng, nàng lại cắn răng, nhưng nước mắt đã giàn giụa. Hai tay nắm lại, nàng đấm thùm thụp vào ngực Thức, miệng ấm ức kêu:
- Giời ơi là giời...
Thức ngạc nhiên, rồi nhẹ nhàng nắm lấy hai tay Mai, áp vào mặt mình cũng đã nhòe nhoẹt nước mắt. Mai nhũn người, thở hổn hển. Bấy giờ, Thức lẳng lặng xiết chặt lấy Mai, hiểu rằng từ nay sóng gió kéo vào đời cả hai người.
Mai ở lại dinh Khương tả hầu ăn cơm tối. Khi nàng định ra về, Thức nắm lấy tay, kéo lại hỏi, giọng run rẩy:
- Em còn về đâu nữa?
Nhìn mớ tóc búi vội còn lòa xòa trên trán Thức, Mai thấy nàng mềm lòng đi, yếu ớt khẽ gỡ tay ra. Nghĩ thế nào, nàng quay phắt lại nhìn Thức, quyết liệt:
- Em nay chỉ còn một chốn về mà thôi!
Ðêm hôm đó, Mai cởi quần áo, đắp chiếc chăn đơn mỏng mảnh, lên giường nằm. Ngồi xuống cạnh Mai, Thức rón rén với tay vặn bấc chiếc đèn dầu cho bớt sáng. Chàng kéo chiếc chăn khiến Mai nhắm mắt, mặt quay vào vách, hai tay đưa lên che ngực, chân vắt chéo co lại. Thức cúi xuống áp môi vào bụng Mai, ngụp lặn vào màu sữa trắng tinh mơ và ngát mùi dạ lan của da thịt trinh nữ. Cứ thế, Thức thăm dò từng tấc vuông trên cái thân thể đang nhũn ra, vụng về, quanh co, hệt một kẻ dẫn đường mà không biết đường đi lối bước. Bên khung cửa, ánh trăng chênh chếch hắt lên vách bóng lá lung linh, chập chờn, nhảy múa. Thức lần xuống hôn lên từng ngón chân Mai, rồi áp mặt vào giữa hai đùi nàng đã không còn khép lại như trước. Mùi nồng hắc thoảng lên, kích thích Thức đến tột cùng. Hai tay nâng đầu Thức kéo lên, Mai áp miệng vào tai Thức, nói thì thầm:... « Em là của anh, chỉ một anh thôi... ».
Mai nghiến răng chịu đau, hai bàn tay luồn sâu vào tóc Thức ghì chặt lấy, biết là mình chẳng muốn níu kéo gì một thời con gái. Thời nào rồi cũng phải qua đi. Ðể còn sang một thời khác, thời đàn bà...
°
Toàn Nhật được phân hẳn cho dinh Khương Tả hầu làm nơi cư trú, ngại ngùng không muốn, nhưng quan Chánh dường ép phải nhận. Bằng Vũ nay làm dưới quyền Toàn Nhật, đi lại luôn luôn, nhưng cả Thức lẫn Nhật đều ngờ Vũ là người của Nội Mật viện, có ý giữ gìn. Vũ kéo đám thư lại của lính Tam phủ đến dinh, chèo kéo, làm thân. Trong bọn, Trần Nguyên Nhưng là kẻ suýt bị chém trong vụ năm Canh Tý, may có Ðăng Khoa, con trưởng quan Chánh dường, đứng ra đảm bảo cho nên mới được tha. Rút cục, Nhưng chỉ bị đánh xuống hai trật, phái ra xung quân cho đội Tiền Hùng có trách nhiệm an ninh ở vùng ngoài ven đô chứ không còn ở Cấm cung như trước nữa.
Nhật tuyển một đám lính trẻ, mỗi sáng bắt tập võ. Thời gian Nhật ở với Koji, ngoài ba đường gươm bí truyền, Nhật học thêm được phép Nhu Thuật và cách đánh ám khí, đặc biệt là ném tiêu và ném đồng chinh. Phép ném chinh, Nhật đã tập đến độ siêu tuyệt. Một tay, Nhật có thể vẩy ra ba đồng chinh được mài cạnh sắc như dao, kẻ địch đứng trong gần mười thước khó mà tránh né được. Về cách đánh kiếm, Nhật cũng cải biến cho phù hợp với loại kiếm ta, ngắn và nhẹ hơn loại kiếm Nhật. Vẫn đeo ngang hông nhưng xoay ngược lưỡi lại, cách rút kiếm của Nhật biến thành một nhát chém từ dưới lên trên, chiếm ngay thế thượng phong. Ðồng thời, Nhật cũng nghĩ ra những bài liên hoàn cho ba tay kiếm đứng hình tam giác, tiến lui đồng bộ, linh hoạt chế ngự được ít ra là ba lần số đối thủ. Quan Chánh dường, xưa vốn đỗ Tạo sĩ, không phải là một kẻ võ nghệ tầm thường, gật gù lẩm nhẩm: «... có nòi cả! ». Một hôm Tế lý đích thân ban cho Nhật cây kiếm chuôi có khắc ba chữ «Hoàng-gia kiếm ». Ðăng Khoa không giấu được nét bực bội nhưng miệng chỉ cười nhạt. Lý biết ý, ghé vào tai Khoa nói nhỏ. Mặt Ðăng Khoa tái lại.
Từ hai tuần nay, Thức rầu rĩ, lắm buổi ngồi đăm chiêu, không nói một lời. Mai bàn với Thức, rồi cả hai nói lại với Toàn Nhật. Nhật bóp trán đồng tình, bảo:
- Tính thế cũng được, nhưng Nhật phải nhờ tay Trần Nguyên Nhưng là kẻ trong đội Tiền Hùng phụ trách ven đô phía sông Nhị.
Trước kia, mỗi lần Tiệp Dư Trần Danh Kỷ ghé thăm Thức, hai người thường thảo luận một số cách nhìn xã hội của người Tây dương. Thời gian Thức đã học với Sieyès đủ cho phép Thức dịch ra vài đoạn trong cuốn « Công ước xã hội » do Rousseau viết bằng tiếng Pha- Lăng- Sa. Kỷ không đồng tình với nhiều điểm, trừ khâu nói về quyền tư hữu, theo Rousseau, là nguồn gốc của mọi bất bình đẳng trong xã hội. Thấy Thức dạo này im lìm, không hăng hái chuyện trò như trước, Kỷ hỏi gặng nhưng Thức chỉ thở dài. Mấy hôm sau, Kỷ đến từ giã, quay về Hoan châu. Bấy giờ Kỷ nói với Thức:
- Huynh đài vào Ðàng Trong, đã có Kỷ này. Thế sự Ðàng Ngoài như nước trên lửa, vung nồi lại đậy chặt, sớm muộn cũng bung. Với người anh hùng tái thế ở trong kia, thế nào cũng sẽ đất bằng sóng dậy...
Thức hỏi:
- Có phải là Biện Nhạc ở Qui Nhơn không?
Kỷ lắc đầu. Thức nhìn Kỷ, chậm rãi:
- Vậy là Nguyễn Phúc Thuần hay Nguyễn Phúc Dương?
Kỷ lại lắc đầu, bảo Thức với giọng chân tình:
- Huynh muốn cứu đời, ắt đây không phải là chốn thuận lợi. Kỷ này vào dò xét, biết thực lực của đám quyền thần ở Kinh chỉ đáng mớ lửa, không ai nhóm rồi cũng cháy, chẳng cần ra tay.
Thức ngỏ ý muốn ra đi, nhưng bảo chắc còn phải đợi ít lâu. Kỷ hẹn Thức ngày rằm tháng sau ở bến Thanh Trì, và dặn chớ thổ lộ cho ai biết.
Mấy ngày sau, Kinh Kỳ nhộn nhịp hẳn lên vào dịp lễ cưới công chúa Ngọc Lan. Ðám quan lại tứ phương về Kinh dự lễ, quà cáp hàng đấu, ngựa xe tấp nập, làm đám lính Tam phủ phải ra sức lo bảo vệ, lúc nào cũng căng thẳng. Quan Chưởng Cơ Trung Kính là kẻ bận hơn ai hết, mỗi đêm chỉ chợp mắt được vài giờ, tất tả đốc lính hết công này đến việc nọ. Buổi tối tuần trăng thứ ba, Nhật vừa về đến nhà thì một đội quân thuộc viện Nội Mật ập tới. Viên đội trưởng kính cẩn:
- Trình quan, có giấy của Nội Mật viện đòi Nguyễn Trọng Thức cư ngụ tại đây.
Nhật bình tĩnh chìa tay, mở tờ giấy, chăm chú đọc. Giữ sắc diện thản nhiên, Nhật bảo:
- Quan đội, Trọng Thức đã đi từ sáng hôm qua rồi.
- Bẩm quan, người ấy đi đâu?
- Ta không rõ...
- Bẩm quan, theo lệnh, xin ngài cho phép khám nhà.
Nhật cất tiếng cười ha hả, rồi sờ vào đốc kiếm, miệng khinh mạn:
- Viện Nội Mật coi người như rác hay sao mà chỉ có tờ giấy này là đủ xông vào đâu thì xông, chẳng còn phép tắc gì cả. Các người khám nhà ta vì không tin lời ta, có phải không?
Viên đội trưởng cúi đầu lí nhí. Toàn Nhật nóng ruột muốn biết tin Mai và Thức. Không còn cách khác, Nhật lạnh lùng:
- Quí vị đưa ta lên viện, tội tình gì ta chịu. Còn muốn khám nhà ta thì không được!
Nói xong, Toàn Nhật ra cửa nhẩy phóc lên con chiến mã màu trắng, vẫy tay gọi thủ hạ. Tiếng vó ngựa trên đường đến viện Nội Mật đập thình thịnh trên nền đất vào lúc trăng ló lên qua rặng cây hoa sữa. Trong Nội viện, Ðăng Khoa cười nửa miệng, bỡn cợt:
- Cá một cặp mà chỉ chộp được con cái, đã trả về cung Ðặng Tuyên phi. Còn con đực, không trú ngụ dinh quan Chưởng Cơ Trung Kính thì ở đâu?
Toàn Nhật nghe Khoa nói, mặt nóng bừng lên nhưng dằn xuống, hỏi:
- Thế ra họ không được phép rời Kinh?
Khoa vẫy tay. Trần Nguyên Nhưng bị điệu ra, mặt mũi bị đánh sưng vù, ủ rũ nhìn Toàn Nhật. Nhật nghiêm trang hỏi:
- Trần huynh, ngài có chiếu chỉ gì cấm Ðặng Thị Mai và Nguyễn Trọng Thức rời Kinh đô không?
Nguyên Nhưng rầu rĩ đáp:
- Không!
Nhật quay sang Khoa, gằn giọng:
-Ðăng Khoa đại ca! Thế là bắt người trái phép, lại còn dám xâm phạm đến thân thể võ quan của Chính-phủ, tội ấy anh bào chữa thế nào? Trần Nguyên Nhưng làm sao biết ai cấm ai, ai cản ai? Luật Vua phép Nước ra sao mà tước vị như anh lại hành xử tùy tiện đến vậy?
Nhật tiến về phía Nhưng, rồi nhanh như cắt xoay người gạt hai tên lính canh ngã chổng bốn vó lên trời, tay vòng ngang lưng Nhưng kéo về phía mình, từ từ lui ra cửa. Ðăng Khoa mặt tái lại, hét lính. Ðám thủ hạ đi hộ vệ Nhật hợp thành thế kiếm trận tam giác, vòng quanh Nhật và Nhưng, chậm rãi lùi dần ra cửa dinh Viện Nội Mật.
- Gọi cung thủ và xạ thủ! Không để đứa nào ra khỏi cổng này!
Ðăng Khoa quát như điên như dại, tay tuốt kiếm xông lên.
°
Trịnh Sâm gượng ngồi lên sàng, tay dựa vào chiếc gối thêu chỉ ngũ sắc, đằng hắng lên tiếng cám ơn đám quan khách dưới trướng. Chúa nắm bàn tay bé nhỏ của Ngọc Lan đang run rẩy, nhìn đứa con gái mình nưng như trứng, hứng như hoa, nói nho nhỏ: « Ðừng khóc, con. ».
Phía bên kia, Ðặng tuyên phi chủ hôn. Mậu Lân ăn mặc chỉnh tề, áo gấm màu gụ có thêu hoa mẫu đơn to như cái bát, lưng thắt đai bằng vàng có giát những thỏi ngọc hình chữ nhật, thỉnh thoảng lại đụng vào nhau leng keng. Khuất đằng sau là Ðặng Thị Mai, đứng cúi đầu. Ðại diện cho Ðức Vua, Ðông cung thái tử Cẩn bước ra chúc mừng hai họ, nói lại những câu sáo tụng loại như trăm năm hạnh phúc, đầu bạc răng long. Quan Chánh dường Hoàng Tế Lý cung kính đứng hầu bên Chúa, thỉnh thoảng lại cúi xuống nhắc tên những viên quan biên trấn từ xa xôi về mừng lễ thành hôn cho công chúa. Nhìn con mình quì cạnh Mậu Lân cúi xuống lạy bàn thờ gia tiên, Sâm mủi lòng, ứa nước mắt, gọi Sử Trung hầu đến thì thào. Chúa giao cho Sử Trung theo phò công chúa, và cắt một đám hai mươi người thị nữ theo sang dinh cơ của Mậu Lân.
Thái tử Cẩn lân la đến gần Tuyên phi, mắt đáo quanh tìm Mai, bụng muốn xem mặt. Ðặng Thị Huệ lễ phép: « Em nó mệt nên đã xin về nghỉ, để hôm nào Thái tử qua chơi em nó sẽ đích thân ra dâng rượu cho ngài ».
Miệng cười, Huệ nhí nhảnh:
- Mà duyên càng đợi, thì lửa càng nồng. Thái tử chờ cho dăm bữa nửa tháng nữa...
Hai hôm sau, Huệ thình lình vào mở cửa phòng Mai, mắt sắc như dao liếc, hỏi:
- Mày đi đâu mà định qua sông ngày thằng Lân lấy vợ? Ðịnh trốn theo trai hả?
-...
Huệ thẳng tay giáng một cái tát nổ đom đóm, không thèm nhìn Mai ngã chúi xuống giường, riùt lên:
- Thân lừa ưa nặng. Tao dựng vợ gả chồng cho chúng bay toàn là con vua cháu Chúa, không muốn làm Hậu làm Phi, lại một lại hai đi đánh đĩ với một thằng thày đồ kiết xác gàn gàn dở dở, người chẳng ra người, ngợm không ra ngợm...
-...
- Từ nay, mày ở lại Cấm cung, không đi đâu nữa. Tuần sau, ta sẽ mời Thái tử Cẩn qua đây, liệu mà vui vẻ lên, đừng vác cái mặt đưa đám ra nghênh tiếp người ta. Mày cứng cổ thì tao cho người tìm băm thằng Thức ra, chỉ mang cái đầu nó về cho mày đỡ nhớ với thương...
Mai bật khóc, rên rỉ:
- Tôi lạy chị, chuyện lấy ai nữa thì không được đâu. Tôi đang có mang.
Huệ nghe Mai nói, quay ngoắt lại, trừng mắt:
- Có thai thì phá. Mất trinh còn dễ hơn. Chút vỏ hột lựu máu mào gà vào là trông như mới. Nghe tao đây: mày muốn thằng Thức sống thì phải vâng lời tao. Nếu không, mày là oan gia của nó. Tao sai giết cả nhà nó chứ chẳng phải chỉ lấy cái mạng của một nó mà thôi...
Nói xong, Huệ đi ra, gọi thị nữ dặn dò. Chiều hôm đó, quan Chánh dường vào dinh. Nhìn nét mặt Huệ, Tế Lý biết nàng đang cơn thịnh nộ, lửa bốc lên khóe mắt như đốt sống người đối thoại. Huệ gằn giọng:
- Quan Chánh dường! Ngài đứng đầu Chính-phủ, việc gì cũng qua tay, xưa nay chẳng sơ suất một điều gì. Những sự gì xẩy ra cho em tôi, tôi chưa thông rõ, mong ngài cho biết thêm để tôi tường tận.
Tế Lý kể việc người Nội Mật viện theo dõi Mai từ hơn tháng nay, nên chặn ngay khi nàng cải trang thành nam nhi, đến bến Tây Long hỏi nhà thuyền ngược lên Thanh Trì. Phần Trọng Thức, chắc có lẽ đi đường bộ. Người Nội Mật viện lập tức giăng lưới khắp khu Hà Ðông, nhưng đến nay vẫn chưa bắt được. Ðồng thời, trấn quan hai vùng Thanh-Nghệ đều được báo, và chắc chắn là tóm được nếu Thức lần mò về quê.
Huệ lẳng lặng nghe, cắt ngang:
- Thức có bố mẹ anh em gì không?
- Khải Vương phi, không! Thức mồ côi cha từ nhỏ, mẹ cũng đã qua đời gần chục năm nay.
Huệ nghiến răng, trừng trừng nhìn Tế Lý, miệng mím lại, nói:
- Ngài làm sao thì làm, thế nào trong một tháng cũng phải lấy đầu thằng Thức mang về đây. Ai chém nó, tôi xuất một trăm lạng vàng ra thưởng!
Vừa lúc đó, Mậu Lân ở đâu sồng sộc chạy vào kêu:
- Thế này thì tức chết được! Lấy vợ về mà chả đụng được đến cái gót chân nó. Thằng hoạn Sử-Trung lúc nào cũng lè kè bên cạnh, nào là Chúa dặn thế này, nào là Chúa dặn thế nọ. Thế thì chị bảo tôi, mang con ranh con đó về nhà để làm gì hả?
Nhận ra Tế Lý, Mậu Lân bớt hùng hổ, im miệng lại, nhưng mặt mày vẫn cau có. Huệ không nói gì, chỉ khẽ đứng dậy. Tế Lý hiểu ý, nghiêng mình cáo từ. Ðưa Lý ra cửa, Huệ quay trở vào, nhìn vào mặt Lân, thét:
- Mày ngồi xuống!
Có ai ngờ được kẻ bàn dân gọi là « hung thần mắt cú » líu ríu khuỵu chân xuống. Huệ cười nhạt:
- Mày ngủ với cả trăm con đàn bà, còn thèm nhạt gì. Mang con ranh con đó về nhà là tao mở mày mở mặt ra cho mày thành vương, thành tướng. Cái thứ đốn mạt như mày thật ngu hơn con chó...
Ðến trước mặt Lân, Huệ bất ngờ tát vào mặt, miệng tiếp tục hét:
-... ngu hơn con chó.
Lân không dám đỡ, ngồi im chịu cái tát. Huệ cứ thế, tát liền tay cho đến khi mỏi ê ẩm.
« Hung thần mắt cú » ôm mặt khóc thút thít, chẳng khác gì một đứa trẻ lên mười.
°
Thật là may, Hoàng Tế Lý kịp thời đến vừa lúc Ðăng Khoa tuốt kiếm xông ra. Lý vội hét: « Ngưng tay! » rồi hoành thân nhảy từ yên ngựa xuống chặn giữa đám lính phủ Trung Kính và đội cung thủ của Nội Mật viện. Toàn Nhật cúi đầu chào:
- Thật chỉ có kẻ này đắc tội với bề trên, lính cơ Trung Kính chỉ biết nghe lệnh, xin ngài cứ xử phạt một mình tôi.
Nhật nói xong, tự mình cởi kiếm, hai tay dâng lên Tế Lý. Lý xoay người về phía Ðăng Khoa, hỏi sẵng:
- Thế còn ngươi! Không biết tự xử à? Hay bắt ta ra tay?
Quì xuống đất, Khoa không nói năng, bắt chước làm như Toàn Nhật, mắt quét về phía Lý một cái nhìn nửa như ngạo nghễ, nửa như chịu đựng.
Lý phất tay, ra lệnh cho Toàn Nhật và Ðăng Khoa vào Chính-phủ đối chất vào giờ Tị sáng hôm sau.
Người lo lắng nhất không phải là Hoàng Ðăng Khoa. Việc giám sát Ðặng Thị Mai và Trọng Thức là do Lý ra lệnh cho viện Nội Mật chứ không do Khoa quyết định. Khoa trong bụng vẫn hận việc Tế Lý trao cho Nhật thanh kiếm Hoàng gia. Nhân thời cơ, Khoa chỉ muốn vỗ mặt Nhật cho hả bằng cách phái quân đến khám nhà Nhật, mặc dầu thừa biết là Thức không có ở đấy. Phần Nhật, Nhật lo cho Mai và nhất là lo cho Thức. Cái mạng Thức có đáng gì! Trong sự tính toán xếp đặt ở đất Kinh Kỳ này, Thức là cái gai phải nhổ đi để gả Mai cho Thái tử Cẩn. Nhật hỏi Trần Nguyên Nhưng mới biết Nhưng đã đưa được Thức qua bên kia sông Nhị, thoát khỏi sự kiềm tỏa của cấm binh. Khách quan về dự đám cưới công chúa dập dìu, Nhật hy vọng là Thức lẩn đi được dễ dàng.
Trước mặt Tế Lý, Nhật giữ thái độ cung phục nhưng vẫn ung dung tự tại. Nhật thưa:
- Bẩm quan, ngài đã biết Thức và tôi là đồng môn, lại như anh em. Anh đến nhà, không lẽ em lại đuổi đi? Còn như Thức làm gì, quan hệ với ai, tôi làm thế nào mà trách nhiệm cho được. Chức phận quan xếp đặt cho tôi là chỉ lo bảo vệ an ninh cho ngũ cung tam phủ, không phải giám sát bất cứ ai.
Lý giơ tay chặn Nhật, rồi quay sang Khoa, hỏi như buộc tội:
- Còn ngươi? Ngươi gọi cung thủ định giết quan của triều đình à! May mà ta kịp đến, nếu không, ngươi có biết là tội ấy phải xử hình phạt nào không?
Không để Khoa nói, Lý dằn giọng:
- Tội này phải xử tử, dẫu ta là cha ngươi! Mạng đền mạng!
Ngừng một lát, Lý nói tiếp:
- Ta nai lưng gánh vác mọi việc trong Chính-phủ, nhìn quanh số người tin cậy được chẳng có bao nhiêu. Với Toàn Nhật, ta coi như là ruột thịt nên mới giao cho trọng trách.
Nhìn Nhật và Khoa, Lý dịu dàng:
- Lòng ta mong hai người coi nhau như thủ túc, cho nên nếu một trong hai không làm được thế thì cho ta biết ngay, để ta còn tính.
Quay nhìn Ðăng Khoa, Lý trầm giọng:
- Việc Nội Mậït là quan yếu, con lấy đó làm trọng, chớ để mờ quáng bằng những chuyện không đâu. Tiện đây, ta hỏi cả hai con, việc Trần Danh Kỷ đến đâu?
Nhật thót bụng tự hỏi có phải Kỷ cũng là người của Nội Mật viện? Khoa nhìn lên, từ tốn:
- Thưa cha, Kỷ lẻn vào Kinh với bốn người. Hiện tóm được ba, nhưng tên nào tên nấy đều cắn móng tay lúc bị bắt, chết vì độc dược. Kỷ rời Kinh hai tuần rồi, có tin hắn luẩn quẩn ở vùng Sơn Nam Hạ...
- Hắn là người của Biện Nhạc? hay là người của bọn Nguyễn Ánh - Ðỗ Thanh Nhân?
Khoa ngẫm nghĩ:
- Người của Ánh và Nhân thì chắc không phải! Hiện Ánh đang bị quân Tây Sơn dồn vào thế phải trốn chui trốn nhủi ở Gia Ðịnh, đâu lòng dạ nào phái người đến đây dò xét ta. Còn Biện Nhạc, từ ngày tự xưng là Thái Ðức hoàng đế, hắn chừng thỏa mãn, chỉ ra vào ở Qui Nhơn, mặc hoàng bào tay cầm ấn, tập làm vua, cũng lập tam cung ngũ viện, nghe đâu lại sắp «xuống chỉ » cho thi đệ nhất khoa tiến sĩ... Kỷ chưa hẳn là người của hắn.
- Vì sao?
- Vì cái Kỷ dò tìm là để lấy cả thiên hạ.
-???
- Kỷ tìm sách « Luyện kim yếu pháp » của Koji Mishima. Có lẽ vì biết Võ tướng quân đã một thời ăn cận ở kề Mishima nên Kỷ mới lần lữa đến chứ chẳng phải là vì muốn làm quen La Sơn Phu tử hay Trọng Thức...
Hoàng Tế Lý khẽ ra hiệu cho Khoa ngừng nói, lấy tay gõ lộp bộp trên kỷ, mặt trầm trọng:
- Toàn Nhật, có biết gì về quyển sách đó không? Có nó thì đúc được nòng súng, và đúng đấy, sẽ lấy được cả thiên hạ...
Trong đầu Nhật, hình ảnh Koji lại hiện ra với những trang sách xé rời cháy xém trong lửa đỏ, và giọng nói khàn đặc ê a: «...A ha, nếu Ðàng Ngoài này mà rèn được súng thì Ðàng Trong không chống nổi, đấy chuyện phong hầu cho tôi nó là thế... Tôi không nhận thì không được. Tôi nhận mà không làm nòng súng, tất phải chết như kẻ bề tôi không hoàn thành trách nhiệm. Nhưng nếu tôi tham sống mà làm súng thì biết bao nhiêu mạng người Ðàng Trong sẽ tiêu vong... Ðàng Trong đánh, Ðàng Ngoài đỡ. Rồi Ðàng Ngoài đâm, Ðàng Trong chém...cứ thế đã cả trăm năm rồi. Ðâm chém thế, làm sao thành được một quốc gia. Không! cái nghiệp dĩ này sẽ biến dân tộc các bạn thành một dân tộc chia rẽ từ trong tâm thức. Cùng gốc gác, cùng phong tục ngôn ngữ, nhưng chém giết nhau mãi thì cứ thù hận, cứ nghi kỵ, tạo ra cái nghiệp còn nặng hơn là phải đối phó với ngoại nhân. Nó như căn bệnh vô hình vô sắc, đục ruỗng ra từ bên trong, nguy hiểm gấp trăm lần mụn nhọt mọc bên ngoài thân thể ».
Nhật ngửng nhìn Tế Lý, chậm rãi lắc đầu.
Lý lại nhìn Khoa dọ hỏi. Khoa thưa:
- Con đã cho người lật từ hòn gạch, xem từng cái kèo, xét từng cái cột, nhưng không tìm thấy gì. Hiện nhà Mishima ta niêm phong canh gác cẩn mật.
- Ðốt, đốt nhà nó đi. Sách không vào tay ta thì không được vào tay bất cứ một ai. Còn Kỷ, phải tìm bắt cho bằng được. Ta ngờ hắn là người của Quận Tạo Phạm Ngô Cầu, hiện đang trấn thủ Phú Xuân, chứ chẳng là ai khác! Ở Thăng Long, chắc là yên, không có gì quản ngại. Vậy chuyến này, Ðăng Khoa lấy người đi vào châu Hoan, bí mật đến Phú Xuân xem động tĩnh và tổ chức lại mạng lưới của Nội Mật...
Nắng bên ngoài chếch qua mái hiên chiếu in lên tường những bóng cây rung rinh trong gió. Lý đứng lên, trầm ngâm, lẩm bẩm nói một mình. Nhìn Toàn Nhật và Ðăng Khoa, lòng Lý bỗng hân hoan, miệng mỉm cười. Khi chia tay, Ðăng Khoa nghiêng người nhìn Nhật nói:
- Võ tướng quân, chuyện cũ bỏ qua cho!
Nhật chưa kịp trả lời thì Lý đã cắt ngang, vui vẻ:
-... chúng bay phải gọi nhau là anh em, ta đã bảo phải coi nhau như thủ túc kia mà!
°
Không biết từ đâu chim từng đàn bay về khoảng giờ Dậu. Tiếng chim quang quác ríu lên thảng thốt như bị săn đuổi làm náo loạn dân hàng phố sống ven hồ Thủy Quân. Họ kéo nhau ra ngơ ngác đứng xem. Từng đàn chim nháo nhác bay dọc, rồi bay ngang, lắm khi tưởng như sắp xô vào nhau, nhưng lại túa ra, bốc lên cao, sà xuống thấp. Ðầu giờ Tuất, chim đậu đen nghịt tháp Rùa.
Sáng hôm sau, cánh chim bay che rợp mặt trời, tới giờ ngọ mà trông cứ tưởng chừng như là trời đã tối. Rợn nhất, vẫn là tiếng chim kêu. Tiếng chim có lúc chíu chít như kim chích vào não bộ, có lúc lại o o tựa như cơn sốt của nước sông Nhị lên vỗ mặt đê. Bỗng nghe ầm ầm như tiếng súng thần công. Bàn dân bảo nhau rằng nhà Chúa bắn súng để đuổi chim. Chim lại nháo nhác, bốc lên tít cao, nhưng vẫn bay quanh, hàng đàn, hàng đàn, rít lên đinh tai nhức óc.
Cứ như thế, hai ngày liền. Sáng ngày thứ ba, chim sống bay hết đi đâu không còn một bóng. Còn chim chết đầy đường, chẳng biết cơ man nào mà kể. Người ta đi xúc xác chim rơi hàng xe bò mang đi đổ. Các cụ xì xào kể với nhau rằng điềm gở này đã xẩy ra cách đây hơn ba trăm năm, cũng vào độ tháng chín năm Nhân Dần, ngày Thái sư Trần Thủ Ðộ chôn sống ba trăm người tôn thất nhà Lý.
Trong hai trấn Thanh-Nghệ, lại hạn hán. Nạn đói đẩy cả vạn người thất thểu đi về xuôi, bồng bế nhau, mắt trắng dã vô hồn trên những khuôn mặt vêu vao sạm đen vì nắng gió. Họ lê bước, im lặng đi, không còn đủ sức kêu xin, chỉ nhìn rồi chìa tay ra, khóe mắt lóe lên một chút hy vọng như ánh đèn dầu đang lụn dần.
Hoàng Tế Lý nhân danh Chúa ra lệnh lấy gạo trong kho ra phát chẩn. Hết gạo kho, Lý phái thừa sai đến những điền ấp ở hai hạt Thái Bình và Nam Ðịnh thu gạo. Ðám điền chủ nhất định không chịu. Bọn quan quân địa phương được đút lót ngầm cũng lơ đi khiến Lý bắt buộc phải mua gạo. Giá quá rẻ, đám điền chủ từ chối không bán. Lý phái hai nghìn quân từ đồn Hạ Hồi đến nơi, nhưng không vào được bởi đám điền chủ đã trang bị giáo mác cho tráng đinh và đắp lũy phòng thủ. Khi ấy, người chết rải rác khắp chốn, xác nằm trên đê, dưới bụi, chương ình lên, mùi thối xốc vào mũi trong cả một vùng rộng đến hai huyện. Nạn dịch hạch lan ra, ban đầu chỉ ở Ninh Bình, nhưng chỉ độ tháng sau đã thấy người chết vì dịch ở vùng ven đô. Dân đất thượng Kinh cũng bắt đầu nhốn nháo.
Khi điềm chim bay về kêu liền ba ngày, họ kháo nhau rằng nước đang đổi Chúa, quyền hành thế nào cũng vào tay Hoàng Tế Lý. Họ đồn rằng Lý đã tư thông với Tuyên phi Ðặng Thị Huệ. Chẳng bao lâu nữa, khi Thế tử Trịnh Cán oặt oẹo chết đi, Tế Lý sẽ liền tay cướp ngôi, ứng vào câu sấm « Nhất thiœ trục quần dương », nghĩa là «Một con lợn đuổi đàn dê». Họ xì xào nhắc là Lý tuổi Hợi, còn Tiên Chúa Trịnh Doanh và Tĩnh đô Vương Trịnh Sâm đều là tuổi Mùi. Về phần Cán, họ nói ra miệng với nhau là con riêng của Huệ và Lý,ï đặt ra câu vè:
Ve vẻ vè ve
con rồng làm Vua
con rơi làm Chúa....
Lý giận lắm, ra oai bắt xẻo lưỡi ở chợ năm bảy người, làm thiên hạ ai nấy sợ, không còn dám nói năng gì nơi công cộng.
Cũng thời gian đó, Lý đã triệu được Lê Duy Trác, hiệu là Hải Thượng Lãn ông từ Hương Sơn về trị bệnh cho Cán. Bọn quan thị-y và thị-dược ganh ghét với Lãn ông, chê bai dèm pha khiến Huệ nghi ngờ. Ban đầu, bệnh Cán có giảm, đã ăn uống được sau khi uống sáu thang thuốc do Lãn ông bốc. Thấy vậy, đám thị-dược sợ bị thất sủng, tự tiện gia giảm toa thuốc. Cán lại đau ốm trở lại, mạch Thốn mạch Xích yếu hẳn đi. Huệ không tin Lãn ông nữa, dắt vào nơi giam Ðặng Thị Mai, đay nghiến: « Phá cái thai trong bụng nó đi. Thuốc ông không cứu được người thì chắc giết được người! ». Sau, Tế Lý biết việc, cùng Lãn ông đến bắt mạch lại cho Cán, tự mình giám sát việc thuốc thang. Lãn ông xem mạch rồi lắc đầu xin về. Lý mang hết đám thị-dược ra chém, nằn nỉ xin Lãn ông cứu Cán. Lãn ông đưa cho Lý một toa thuốc, nói:
- Nếu Thế tử qua mùa đông thì còn cứu được. Nay cứ tạm dùng thuốc này cầm cự.
Thở dài, Lãn ông ngửng mặt lên trời như cầu xin:
- Sống chết là do Hoàng Thiên,Trác này mà làm gì được!
Lý tiễn Lãn ông, đưa tặng hai mươi lạng vàng. Lãn ông sụp xuống tạ ơn nhưng không nhận, miệng nói:
- Bẩm Thượng quan, Trác xin một việc.
-???
- Xin đừng phá cái thai trong bụng một người đàn bà đang bị giam trong cung Ðặng Tuyên-phi.
°
Nhật ăn cơm xong, mắt nhắm mắt mở định bụng ngủ trưa, chợt nghe tiếng chân ngựa, rồi giọng người hớt hải kêu:
- Võ tướng quân! Có lệnh quan gọi...
Nhật nhìn ra, thấy lão Hài bương bả bước lên thềm, chòm râu bạc thếch dựng ngược lên qua hơi thở phì phò như kéo bễ. Lão là lính từ thời Chúa Trịnh Doanh, đánh đông dẹp bắc, rồi phò Chúa Trịnh Sâm vào chiếm lấy Phú Xuân cách đây gần một giáp. Người lính già chất phác, suốt đời mở miệng chỉ biết một điều hai điều là «nhờ ân Chúa... ». Không vợ không con, bổng lộc riêng tư lão Hài chia một phần cho bọn lính trẻ uống rượu, đứa nào cũng gọi lão là Bố-già. Chẳng phải chỉ có quân, mà ngay cả quan cũng quen miệng gọi lão như vậy, nên tên cúng cơm là Hài chìm vào quên lãng, có lẽ là chỉ độc có lão là nhớ được. Nhật ngồi lên, hỏi:
- Chuyện gì đấy Bố-già?
- Ði, đi ngay... Tôi suýt chết vì tay Phò mã Ðặng Mậu Lân đấy. Sử-Trung hầu bị chém bay đầu rồi!
Trên đường đến Chính-phủ, Bố-già kể lại. Ðêm qua Lân say rượu nằng nặc đòi vào phòng công chúa Ngọc Lan, thị nữ bị hắn đánh đuổi, réo gọi nhau chạy. Sử-Trung được Trịnh Sâm phó thác kề cạnh công chúa chạy ra can:
- Phò mã, Chúa dặn là công chúa vẫn chưa lên đậu, theo thói tục như vậy là chẳng thể chăn gối được. Xin ngài bớt giận.
Lân quát:
- Chúa, lúc nào mở miệng ra cũng Chúa. Ta ngủ với vợ ta mà nhà Chúa cũng ngăn, cũng cấm, thì là làm sao? Mà nhà Chúa là cái đếch gì? Con ranh vô dụng kia - Lân chỉ tay vào Ngọc Lan - để lâu không sờ vào thì nó mốc ra, quí báu gì!
Sử-Trung quì xuống, dập đầu:
- Xin Phò mã chớ nói nặng. Nhà Chúa hai trăm năm nay tiếp mệnh Trời cai quản thiên hạ, không phải là thường, ngài nên giữ mồm giữ miệng...
Lân nóng mắt thẳng chân đá một cái, Sử-Trung văng vào tường, mếu máo đứng lên. Ngọc Lan nằm trên sàng, xiêm y bị xé rách toạc, lõa lồ nằm co vào, sợ đến độ chỉ ú ớ rên rỉ gọi « Ới, cha ơi... », nước mắt nước mũi ròng ròng. Lân quay lại hét:
- Câm miệng! Quí báu đéo gì!
Quay sang Sử-Trung, Lân rít lên:
- Còn mày, đi khỏi đây ngay...
Sử-Trung lắc đầu thì Lân rút phăng kiếm ra, chẳng nói chẳng rằng cầm kiếm lia ngang một nhát. Máu Trung phụt ra từng vũng, tung tóe bắn vào mành, vào chăn, vào gối... Lân sững sờ, tỉnh rượu, cuốâng lên quát thủ hạ đóng cổng dinh, canh gác không cho xuất nhập. Một người thị nữ của Ngọc Lan chui qua ống cống về phủ Chúa báo.
Nghe tin, Trịnh Sâm điếng hồn, vời ngay Hoàng Tế Lý đến. Lý bình tĩnh, miệng ôn tồn:
- Công chúa còn ở đấy, Phò mã Lân nổi dại nổi điên lên thì ném chuột sợ vỡ bình.
Nói xong, Lý sai Bố-già đến dinh đòi Lân vào phủ Chúa. Lân sai người ra kiếu ốm nói thác rằng đang đau bụng. Bố-già nhất định không về, gọi to:
- Ðặng Phò mã, việc gì mà phải sợ...
Nghe đến chữ sợ là đúng ruột đúng gan mình, Lân nổi cuồng lên, vác đại đao sồng sộc chạy ra, tay quơ chém loạn xạ, miệng hét:
- Việc đéo gì mà tao sợ đứa nào.
Bố-già đành chạy về báo quan Chánh dường. Lý bảo để đến mai xem động tĩnh, rồi sẽ tính. Trong bụng, Lý thừa hiểu là Lân sẽ nhụt dần, nhưng biết là Chúa vì bị ép nên mới đành gả con gái cho Lân, nên nhân thời cơ Lý nhất định không nương tay mặc dầu biết Lân là em ruột Tuyên-phi Ðặng Thị Huệ. Buổi sáng Lý vào chầu Chúa. Chúa bồn chồn phán: « Nó thế thì cứ giết quách đi. Chém sứ của Chúa theo phép là tội tử hình. Vậy nó chống cự, cứ việc, khỏi phải xét xử gì nữa ».
Lý liền vời Nhật đến. Sau khi gặp Lý, Toàn Nhật và Bố-già cùng một toán lính đội Trung Kính thẳng đường đến dinh Mậu Lân. Cổng dinh đóng kín, trên nóc nhà thấp thoáng có bóng xạ thủ. Nhật dàn lính ra, rồi tay xách kiếm, một mình vào trước cổng, quát:
- Lệnh của Chính-phủ, mở cổng!
Không thấy động tĩnh gì, Nhật lẳng lặng lùi ra, lấy đà phóng chân đạp. Ðến lần thứ hai thì chiếc cổng đổ xuống. Nhật vẫy lính, từ từ tiến vào. Ðặng Mậu Lân tóc xõa, tay cầm đao chạy ra, tru tréo, lồng lộn:
- A, quân nào dám phá nhà tao...
Toàn Nhật đứng sừng sững nhìn Lân chăm chú. Lân sựng người lại, ú ớ:
-... mày giật roi tao ngày xưa phải không?
Nhật làm sao quên được cái cảnh Lân cùng đám thủ hạ quây người mắc bệnh hủi lại rồi nổi lửa thiêu sống. Dằn máu nóng đang bốc lên mặt, Nhật định thần, từng bước đi về phía Lân, không nói năng gì cả, mắt xoáy vào mắt Lân cái nhìn lạnh đến làm nước đóng băng. Lân hoảng sợ, chân cứ lùi dần, đến vách thì quị xuống. Tay trái, Nhật nắm lấy cổ Lân bóp lại, xách lên, rồi nâng bổng ép người Lân vào vách, gằn:
- Ngươi nói bậy một câu là ta vả vào cái miệng...
Liều lên, Lân chửi:
- Tổ cha mi!
Một tiếng bốp vang lên chói tai. Mồm Lân đỏ lòe loẹt máu, nhổ ra một búng răng, mặt như hề bôi son trong những vở tuồng cổ.
°
Giải Lân về Chính-phủ xong, Bố-già và Toàn Nhật lững thững đi sang bến Hàm Như, nơi đóng quân của đội Tiền Hùng do Trần Nguyên Nhưng chỉ huy. Chiều hôm ấy, Nhưng mở tiệc mời bạn bè nhân ngày thượng thọ ngũ tuần. Trà dư tửu hậu, những lời đồn đãi hàng dân lại thành ra câu chuyện lính Tam phủ đem ra bàn bạc. Bố-già xưa nay vốn lừng khừng, sau dăm chén rượu, cũng mạnh miệng:
- Một họ nhà tôi đã ba đời nay xung quân tôn vua Lê, phò Chúa Trịnh. Riêng tôi, nay đây mai đó kểù từ ngày biết cầm cái dao, cái kiếm, thờ hai đời Chúa, có đâu một dạ hai lòng. Ai chứ tôi, tôi sẵn sàng chết cho nhà Chúa, không để đứa nào tiếm ngôi được...
Ðám thực khách cười rộ lên đồng tình. Bằng Vũ, nay là thư lại đội Tiệp Bảo, đổ dầu vào lửa:
- Tệ nhất là cái đám quan lại khoa bảng xưng là kẻ sĩ, miệng nói chữ Trung nhưng bụng thì chỉ biết chữ Lợi, đâm thọc, mưu này kế nọ, chỉ đợi Chúa băng hà là chia nhau lạm quyền... Cứ vây lại, chặn gạo bỏ đói thì
Nhất sĩ nhì nông
Hết gạo chạy rông,
Nhất nông nhì sĩ
Mọi người trong tiệc thích chí reo:
- Nhất nông nhì sĩ. Ðúng đấy. Bọn sâu chữ có làm được gì! Xốc vác việc nhà Chúa là chúng ta cả.
Chén vào lời ra, chẳng ai kiêng nể gì tên quan Chánh dường và Tuyên-phi. Có kẻ lại phao rằng Ðông cung Cán đã chết rồi, nhưng tiếng giữ kín, để Lý tiếm ngôi Chúa trước rồi mới báo. Nhưng Thế tử Tông thì sao? Cán chết thì ngôi Chúa lại trao về Trịnh Tông chứ? Liền có người nói rằng Tông đã bị Lý phát vãng về Sơn Tây, giao cho Quận Thạc Hoàng Phùng Cơ giam giữ. A, cái lão Quận Thạc cũng chẳng phải tay vừa. Biết đâu lão chẳng thừa cơ mang Tông về Kinh, lấy tiếng phù nhà Chúa mà đuổi Hoàng Tế Lý? Những tình tiết bí hiểm, âm mưu lắt léo, tráo trở, ly kỳ kể ra hệt những sự kiện không thể chối cãi được. Nghe chán chê, Nhật một mình lững thững tản bộ về phía bờ sông, ngồi nhìn nước chảy. Dòng nước đục ngầu như nước tù cứ loanh quanh như quẫn, xô vào đâu cũng là bờ là bụi, rác rưởi lềnh đềnh.
Một lát sau, Nguyên Nhưng và Bằng Vũ cũng theo ra. Ngập ngừng, Nhưng hỏi:
- Dân kháo, lính kháo như thế, chắc Nội Mật viện nắm hết, sao không thấy động tĩnh gì?
- Ðộng tĩnh gì được trước lời đồn như gió bay? Nhật hỏi lại, rồi tiếp -... Vả lại, từ ngày công tử Hoàng Ðăng Khoa vào Phú Xuân, công việc của Nội Mật chắc cũng có phần lỏng lẻo...
Bằng Vũ ngần ngừ rồi hỏi Toàn Nhật:
- Vạn nhất có gì xẩy ra, huynh liệu đứng ngoài xem hay muốn nhập cuộc?
- Nhập để làm gì?
Bằng Vũ như đinh đóng cột, chậm rãi:
- Ðể mở đầu cho cái thời « Nhất nông nhì sĩ ».
Chưa kịp đáp, Toàn Nhật nghe tiếng gọi Bằng Vũ. Một trung niên tay cầm quạt nhanh nhẹn bước tới, miệng tươi cười: «... quí huynh cho Bùi Bật Trực này nhập cuộc với nhé! ».
°
Bùi Bật Trực cũng người huyện La Sơn, xưa có học với Tiến sĩ Nguyễn Huy Oánh ở miệt Trường Lưu, làm Viên ngoại lang rồi mất quan, nhưng được Viêm Quận công cưu mang. Viêm Quận công là Quốc Cửu, đối với Chúa Trịnh Sâm là hàng bác, phú quí vinh hoa nhất nhì thiên hạ.
Trước kia, Trực lân la đến chơi với Trọng Thức và Toàn Nhật ở dinh Khương Tả hầu, viện tình đồng hương và cùng là con nhà danh giáo. Trực thích biện thuyết, than thân là viên ngọc quí ở chốn bụi đen, rất trọng Hàn Phi nên thỉnh thoảng lại mang lời Hàn Phi ra, bóng gió nói lên cái chí của mình. Hôm mừng thượng thọ của Trần Nguyên Nhưng ở bến Hàm Như, Bật Trực cũng có mặt, ngồi thì thào với đám cấm binh, vẻ khẩn trọng, lo lắng.
Một tối, Trực mời Toàn Nhật và đám Bằng Vũ, Nguyên Nhưng đến dự tiệc nhân dịp ăn đầy tháng đứa con trai út. Ðám khách quan gần hai chục người, trong đó có Gia Thọ làm thư lại cho Thế tử Trịnh Tông hiệân còn bị giam lỏng trong Nội phủ. Chè chén đến độ ngà ngà, Gia Thọ mớm lời xoay chuyện, lại đề cập đến việc tiếm ngôi Chúa, chủ tâm dò xem ý tứ. Thấy không ai chống, Thọ lửng lơ:
- Thế tử Tông nóng ruột, thấy xã tắc bấp bênh, nhưng thân cô thế cô, tính mạng lại đang nằm trong tay bọn nghịch thần, chẳng biết xoay sở thế nào...
Một người râu xồm đứng lên ồm ồm nói:
- Nếu Chúa băng hà, Thế tử có chính nghĩa mà đứng ra thì mới nên chuyện, chứ cứ co lại sợ chết, hỏi ai làm gì được? Cấm binh Tam phủ là người từ đất « tắm gội » của bản triều, có ai nỡ để nghiệp nhà Vua nhà Chúa rơi vào tay bọn hoang dâm vô đạo!
Thế là nhao nhao lên mỗi người một ý, bàn tán xôn xao. Bằng Vũ đứng dậy, hai tay vỗ vào nhau khiến mọi người im lặng, rồi chậm rãi:
- Trong Kinh, quyền lực nào cũng phải dựa vào Cấm binh, kể cả Lý và Huệ. Vậy mà bọn ta là Cấm binh chứ còn ai vào đấy! Thế thì có gì là sợ... Trong bảy đội, chỉ còn hai đội ưu binh là chưa rõ ý, chứ ai cũng chỉ phò nhà Chúa, đâu có hai lòng. Ðội Thị Kỵ thì nhỏ, thuận hay chống không là việc quyết định cho thành bại.
Quay về nhìn Toàn Nhật, Bằng Vũ hắng giọng:
- Riêng còn đội Trung Kính, anh em con nhà lính phân vân, chẳng biết Chưởng Cơ nghĩ sao?
Cả bọn im lặng, mắt chăm chăm nhìn. Nhật mỉm cười, bỗng nhấc cả vò rượu lên tu ừng ực, tu xong nói:
- Các vị là bằng hữu, cứ theo nhân nghĩa mà làm thì Nhật này không chống!
Gia Thọ xen vào:
- Không chống nhưng không theo?
Nhật trừng mắt, hỏi lại:
- Theo ai? Theo gì? Theo để làm gì?
Bằng Vũ thấy không khí có vẻ găng lên, vội đứng dậy, nghiêm trang:
- Thưa các vị bằng hữu, Vũ này ở lính đã hai mươi năm, kể ra không gọi là ngắn được. Lính chúng ta xuất thân từ dân dã, gốc gác nhà nông, dẫu có tí chút học hành thì cũng không quên người làng xóm mình cày sâu cuốc bẫm, mang hột gạo hạt thóc về nuôi cả nước. Thời bình, cái ăn là từ mô hôi nước mắt của ta. Thời chiến, thì cũng lại xương máu của ta mang về để bảo hộ giống nòi, yên bề xã tắc. Thế mà từ ngày Vũ này biết nhìn biết nghĩ thì chỉ thấy dân dã chúng ta chịu sưu cao thuế nặng, còng lưng cam chịu sự o ép của đám cường hào đã lươn lẹo thông đồng với đám quan lại ở Phủ, ở Huyện, thật là cay cực không sao tả xiết. Vừa đây, dân hai trấn Thanh-Nghệ lại chết đói đầy đường, thây nằm rải từ sông Lam đến núi Tản, càng nghĩ càng đau lòng xót ruột...
Cảm động, Vũ nghẹn ngào nói tiếp:
- Thưa các vị, dịp này Cấm binh ta giữ nghiệp Chúa không để bị soán đoạt cũng là dịp ta tâu trình để xin bỏ hết sưu dịch, giảm tô giảm thuế trong ba năm, để dân đen được thở ra...Vậy theo ai, ta theo nhân dân. Theo gì, ta theo đạo nghĩa, đền bù kiêm ái những người khốn cùng. Theo để làm gì? Ðể bắt đầu một xã hội công bằng cho kẻ tay làm thì hàm có quyền nhai, không để ai đi bóc đi lột mình...Vâng, một xã hội công chính, căn bản là nông. Còn tầng lớp Sĩ, Phú, Ðịa, Hào? Phải đánh tận gốc, trốc tận rễ...
Thời gian bỗng như chùng xuống. Lời Bằng vũ bay bổng mang sức mạnh một giấc mơ từ lâu đời. Cả đám thực khách cứ thế vỗ tay hò:
- Ðánh tận gốc, trốc tận rễ.
Nguyên Nhưng đứng đậy, vòng tay rồi nói:
- Các vị bằng hữu, về cứ nói cho mọi người tỏ cái đồng tâm, đồng chí của chúng ta, và hẹn ngày rằm lên chùa trên núi Khán Sơn cùng nhau cắt máu ăn thề.
Toàn Nhật là người ra về cuối cùng. Ðến cửa Bật Trực nắm tay:
- Chắc Võ huynh cũng bắt buộc phải nhập cuộc rồi.
Nhật cười khẩy, hỏi lại:
- Còn huynh?
Trực thâm trầm nhìn lên, rồi thủng thỉnh:
- Nhập thôi!
Nhật nheo mắt hóm hỉnh:
- Ðừng quên mình là Sĩ đấy. Ðào tận gốc...
Bật cười, Trực nói như đùa:
-... rồi cũng có lúc họ cần người biết đọc biết viết chứ, phải không?
°
Tiếng khò khè từ sập ngự xung quanh có treo những bức trướng thủy tinh mỗi lúc một gấp gáp. Ðặng Thị Huệ vạch trướng bước ra, tay vẫy một người nữ tì đứng gần, nói nhỏ vào tai. Lát sau, hai quan thị-dược vội vã bưng vào một bát thuốc sóng sánh màu đen biếc. Ánh sáng từ những ngọn bạch lạp để khắp phòng lung linh, chập chờn rọi vào những nét mặt căng thẳng, môi mím chặt, mắt nhìn xuống, im lặng. Tiếng khò khè bỗng to lên, tưởng sắp tắc nghẹn, rồi lại nhỏ xuống, rên rỉ, lê thê kéo dài ra. Huệ xốc nách Sâm, đỡ đầu lên. Mặt Trịnh Sâm lúc này không còn thịt, chỉ vêu vao trơ xương, hố mắt trũng xuống sâu như cái chén hạt huyền, miệng há ra hớp không khí, nhe hàng răng lêu nghêu khấp khểnh đen sịt. Một thứ mùi thối khó tả xông vào mũi. Nó thum thủm, lại lẫn vào hơi chua như khi trẻ con ợ sữa, rồi nồng nặc mùi vôi đổ trên một đống rác lâu ngày chưa tiêu. Sâm hé mắt ra, thều thào:
- Mời Thánh Mẫu vào...
Khoảng ba khắc sau, mẹ già của Sâm vội vã đến, đứng bên cạnh sập, sụt sịt khóc. Sâm được đỡ người ngồi lên, mình dựa vào gối, nhìn mẹ:
- Con biết mình không còn ở lâu để phụng dưỡng mẹ, sắp về với cha nơi chín suối. Xin mẹ cứ yên hưởng tuổi già, việc phụng dưỡng do Tuyên-phi và Tự -vương thay cho con...
Thánh mẫu gạt nước mắt, ngần ngừ mãi, xưng « Chị » theo lệ nói với Chúa:
- « Chị » thương con xót cháu, mà chẳng làm gì được với mệnh Trời. Trước khi con về với tổ tông, « Chị » xin thưa một điều: Tự-vương còn bé, lại yếu đuối trong khi Tông, bị giáng xuống làm đứa con «út », dẫu sao thì cũng chưa làm gì bại hoại, bất quá chỉ dại dột để bị lừa vào cái thế dấy loạn...
Thánh Mẫu nhìn Huệ, mím miệng tiếp:
- Nay, vì xã tắc và vì cơ nghiệâp nhà Chúa, « Chị » xin cho Tông tạm ngôi Chúa đợi khi Tự-vương lớn khôn, lại xuống nhận phận con «út » như giờ...
Sâm xua tay, lả người ra. Huệ sụp xuống chân Thánh Mẫu, khóc to:
- Chúa đi thì tôi cũng xin chết, chẳng muốn sống nhục trong nỗi ngờ vực oan khiên. Phụng dưỡng Thánh Mẫu đã có Tự-vương và các Ðại-thần, có hay không có tôi cũng chẳng sao...
Sâm cố sức hổn hển:
- Mẹ lo cho xã tắc thì con không biết lo sao. Lúc này chưa nhắm mắt được cũng vì thế... Thằng Tông định làm phản cả cha lẫn em, đưa ngôi Chúa cho nó thì sự nghiệp họ Trịnh tiêu tan. Biết con, nào ai hơn cha. Thôi, xin mẹ về đi...
Thánh Mẫu lui ra, bắt gặp cái nhìn tóe lửa của Huệ, bụng thót lại, không kìm được vãi ra ướt quần.
Sâm lại cho vời quan Chánh dường Hoàng Tế Lý, miễn lạy, chỉ tay cho ngồi cạnh sập. Lý tâu:
- Khải Chúa, còn những chuyện phải làm ngay. Một là xin Ðức Vua sắc phong cho Thế tử Cán làm Chúa, hai là thảo ra «cố mệnh» chỉ định một số Ðại-thần phụ chính cho Ấu Chúa.
Sâm giơ tay, chặn Lý:
- Tờ «cố mệnh» cậu lo thảo ngay. Ðòi cho ta Quận Khanh và Quận Hoàn vào.
Quận Khanh là Trịnh Kiền, em Trịnh Doanh, là vai chú của Sâm. Còn Hoàn đỗ tiến sĩ khoa Quí Hợi, trước làm Hữu- tri giảng, dạy Sâm học, rồi lên đến chức Tham Tụng ở tiền triều, nay đã cáo lão. Sâm nói:
- Chắp tay lạy chú, lạy thày. Con bệnh nặng, nay sắp lìa đời, muốn Thế tử Cán lên nối ngôi Chúa, xin chú và thày đồng tâm hiệp lực giúp cho.
Nói dứt lời, Sâm lả đi, Huệ phải đỡ lấy giúp Sâm đặt mình nằm xuống. Hoàng Tế Lý quì xuống dâng trình tờ «cố mệnh » nhưng Sâm chỉ xua tay lia lịa, miệng phùi bọt, lại thở khò khè. Khanh Quận công cầm bút phê vào những chỗ còn để trắng tên của bảy Ðại-thần phụ chính. Ngoài Hoàn và Lý còn thêm năm người. Ðó là Tứ xuyên hầu Phan Lê Phiên, Châu Quận công, Ðàm Quận công, Diễm Quận công và Thùy Trung hầu Tạ Danh Thùy, toàn là hàng quan thị gần gũi với Thế tử.
Khi Quận Khanh hai tay dâng trình lên bản «cố mệnh» thì Sâm mắt đã nhắm nghiền, miệng há ra hớp như cá hớp bọt.
Một quãng đời bốn mươi bốn năm quay về trong một chớp mắt. Sâm thấy một cậu bé trông giống mình. Nó lấy nhựa mít dính lên đầu sào ngồi rình chuồn chuồn, miệng ê a nho nhỏ: « Chuồn chuồn có cánh thời bay...». Rồi Sâm lại thấy Thái tử Lê Duy Vĩ. Nhìn vào mắt Vĩ, Sâm bảo: « Có Chúa này thì không có Vua ấy ». Vĩ cười nhạt. A, cười hả? Sâm sai vào cung Vua bắt Vĩ. Trốn đi đâu! Bỏ nó vào ngục. Chưa bõ. Chém. Vợ con nó ư? Bắt, bắt ngay. Giam lại. Sâm mặc hoàng bào thắt đai đỏ dẫn đầu ba quân vào Phú Xuân. Mọi Tây Sơn đuổi Nguyễn Phúc Dương vào Gia Ðịnh, mặt bắc đâm ra bỏ trống. Xua quân vào lấy hết Hoan Châu. Cứù để chúng lục đục đánh nhau mặt nam. Phong hầu cho Biện Nhạc. A, cái phường gá bạc, quân vũ phu. Láo nhỉ? Nó dám xưng Ðế. Ha, ha, thằng vua Mọi... Mặc nó, ta đánh giữ Phú Xuân, đẩy về phương nam ắt nó phải vào diệt bọn Nguyễn Ánh. Chúng nó kiệt sức thì ta vào thôn tính cả hai. Lê mạt rồi. Cứ xem Hiển Tông bôi mặt diễn tuồng trong Hoàng cung để mà cười. Hai trăm năm nghiệp Vương, đã đến lúc nối tiếp bằng nghiệp Ðế cho họ Trịnh. A, Huệ ơi, Huệ yêu dấu... Ừ, hôm nay ta làm ông hổ, được không? Ta vồ nàng, lấy chân móng sắc cào vào nhé?
Này, sao mày lại về đây Duy Vĩ? Mày vẫn theo tao ám hả? Tao cắt lưỡi mày, tao cắt lưỡi mày! Vĩ mặt xanh lè chẳng còn tí máu, cười nhạt:
- Ðã đến lúc này mà còn hung hăng sao, ta bảo cho mi biết, họ Trịnh chỉ đương được nghiệp Chúa mà chẳng quá hai trăm năm. May thêm được hai ba năm nữa là cùng.
- Nói láo, tao đã thảo tờ « Cố mệnh », Tự-Vương được phù chính. Hoàng Tế Lý mưu cơ như thế, trời lại đưa Lý cho ta dùng, ắt rồi sẽ dấy nghiệp Ðế cho mày xem.
- Thằng Cán chắc đâu là con mi. Mi có nghe lời thiên hạ đồn đãi không? Nó là con thằng Lý đấy! « Nhất thiœ trục quần dương », mi nhẹ dạ quá nên quên đi mất. Một con lợn rừng lại thêm vào một con rắn lục như Ðặng Thị Huệ, thì cái mạng con dê của mi đến ngày tuyệt... Mi có biết thuốc mi uống hàng ngày có độc dược không? Chính Hoàng Tế Lý bày ra đấy... Nói ra, cho mi chết mà không nhắm mắt được, ha ha ha...
Lúc đó là giờ Mùi ngày mười ba tháng chín năm Nhâm Dần. Chiếc đỉnh đồng đặt giữa phủ Chúa tự nhiên rung rinh phát ra những tiếng ken két như người nghiến răng. Bỗng đâu cả trăm tiếng cú rúc ban ngày rờn rợn vang lên. Chiếc đỉnh đồng tự nhiên đổ lăn kềnh, rơi xuống vườn uyển, cắm sâu vào lòng đất.
Sâm oặt đầu, miệng thổ ra một cục máu bầm, mắt trợn trắng dã trong hai hốc đen đầy lệ. Nơi chiếc đỉnh đồng rơi xuống, đất sụt sâu, nước ngầm tóe lên tuôn phùn phụt, lâu thành một cái ao. Còn cặp mắt Sâm, đúng là ai vuốt cũng không nhắm, tê cứng đi như làm bằng một loại kim màu sắt rỉ.
°
Nhật bực bội vung tay ném hòn đá xuống ven hồ. Những gợn nước tỏa rộng ra thành những vòng tròn, lan ra rồi tan dần vào mặt hồ chỉ lát sau là lại phẳng lặng, lung linh bóng cây cổ thụ rễ gân guốc trồi lên mặt đất, lòng vòng chạy tủa ra rồi đâm vào ven bực tam cấp lên chùa.
Từ ngày Thức trốn, rồi Mai bị bắt và cầm tỏa trong dinh Thế tử Cán, Nhật không đi lại chơi bời với ai, kín đáo dò xét đợi dịp cứu Mai khỏi chốn tù hãm. Việc cắt đặt đội Trung Kính để bảo vệ tam cung ngũ phủ đã vào nếp, Nhật mặc thường phục, bỏ thì giờ đi vào khắp nơi ngóc ngách của đất Kinh Kỳ. Khi đầu óc căng thẳng đến độ Nhật chỉ muốn đập phá cho hả, chàng lại mò đến chùa Trấn Quốc, một mình ngồi cạnh gốc cây sống hẳn đã nghìn năm nay, đợi nghe tiếng thỉnh chuông, để cho lòng theo tiếng ngân, bay xa, nhẹ nhõm.
Những cơn chán nản và bực bội ùa đến Nhật như cơn triều sông Nhị mùa nước lớn dấn vào bờ đê sồi sụt lở lói. Nhật lôi cây kiếm Hoàng gia ra, nhìn chầm chập vào sống kiếm có đổ chì, nghĩ ngợi mông lung. Bây giờ, Nhật chẳng còn nghi ngờ gì về gốc gác của mình. Nhưng cái gốc gác đó khiến đường gươm thứ nhất trong ba đường chiêu kiếm học được của Mishima mỗi ngày một chậm. Nhật lại nghe văng vẳng lời dặn «... có dứt bỏ được vọng niệm, căm hờn thì đầu mới liền lạc được với tay, và đường kiếm nhanh bằng vận tốc của suy tưởng, nghĩ đến đâu là kiếm phát ra đến đó ». Rồi hình ảnh người đàn bà quay lưng lại, tay quạt cho Nhật buổi trưa nắng ở miếu Ba Cô cứ chập chờn hiện về, chẳng phải chỉ trong giấc mơ, đôi khi như luẩn quẩn giữa ban ngày ban mặt.
Nhật nhắm mắt, mơ màng nhớ về thuở ở trại Bùi Phong. A, cái thời trong trắng. Cái thời tưởng đã bay khỏi tầm tay níu kéo của mỗi con người, nhưng rồi lại vẫn lảng vảng đâu đây, thoáng trong hương hoa bưởi, vẳng về từ tiếng ếch ven ao. Nhật thầm nhủ: « Thôi, về thôi... Cũng là biển cả với nương dâu, chốn Kinh Kỳ này như thế là đủ ».
Bỗng có tiếng hát lanh lảnh rợn người. Hát rằng:
Ta về, ta hát, ta chơi...
Co chân xoạc cẳng đo trời ngắn cao...
Nhật ngạc nhiên, lần theo tiếng hát đi về phía sân chùa. Một người đàn bà trạc tứ tuần, áo cánh vàng, chít khăn đen mỏ quạ, chân đi vòng, tay múa miệng hát, nước mắt nhỏ ròng ròng. Thỉnh thoảng bà ta ngưng bước, ngửa mặt lên trời gào: « Mẹ, Mẹ ơi! », rồi lại tiếp tục:
... Kinh Kỳ sóng nổi ba đào
Nước dâng tám cấp lửa cao chín tầng
Bà ta bỗng đứng khựng người lại, thét lên:
- Mẹ ơi! Thánh thần nay cũng hư nữa, nói chi đến con người!
Hai tay chắp, bà lại bất động đứng dưới bệ thần Bạch Hổ, lưng quay về phía Nhật. Không ngoảnh lại, bà ta đột nhiên gọi:
- Này anh ơi! anh vào đây...
Ở góc sân, một đứa bé gái trạc lên mười ngồi thụp xuống đất, bên cạnh một sư ông râu tóc bạc phơ. Họ nhìn Nhật, không nói. Nhật bước vào sân. Người đàn bà lại cười khúc khích:
- Anh lên bệ đây, cho em lạy chào... Cứ lên, không ai ăn thịt đâu mà sợ...
Nhật rón rén ngồi xuống cạnh bệ thờ. Bà ta lại vòng chân bước, miệng hát:
Trăm năm trong cõi người ta
Bên tài bên mệnh khéo là ghét nhau
Trời đầy kẻ trước người sau
Biển kia cùng với ruộng dâu, cũng là...
Nhật giật mình. Hai câu đầu là hai câu thơ của Nguyễn Du, cậu bé đã lên sống trên trại Bùi Phong cách đây hơn ba năm. Nhưng những câu này họa chăng chỉ có Thức biết, làm thế nào mà nó lại từ cửa miệng của người đàn bà kia vừa cất tiếng hát? Còn hai câu sau? Lạ quá! Người đàn bà như đọc được tư tưởng của Nhật vài phút trước, khi chàng muốn bỏ chốn Kinh Kỳ, vừa nói vừa cười:
- Này anh ơi, chưa về ngay được đâu! Mà về thì rồi nhớ giúp ông Hoàng Mười, ba bốn năm nữa anh lại ra đây.
Dứt lời, bà ta xoay vòng, tay xòe ra múa may uốn éo, hát theo điệu Hồ Quảng:
Duyên chưa đành, nghiệp chưa dứt, ới ai ơi...
Cái cõi sân si nó rộng, nó nổi ba đào!
Nhật hoảng sợ, không biết ai là ông Hoàng Mười và chẳng hiểu làm sao người đàn bà kia có thể nói toạc ra một phần tâm thức của chàng. Bước về phía sư ông, chàng vòng tay chào, tai lại nghe:
- Ðấy, nhà em đấy. Còn con cháu kia là con chúng em...
Nhật ngẩn người ra. Sư ông chỉ cười hiền lành:
- Mẹ nó điên, ông đừng chấp.
Mùi khói hương sực vào mũi ngây ngất. Chẳng hiểu vì lẽ gì, tự nhiên Nhật thấy nhẹ hẳn mình. Phải chăng phần số đã là tiền định, thì có xá gì, thành mây mưa nắng gió hay hổ báo chim chóc cũng là...
Cũng là... cả biển xanh với nương dâu. Cũng là... kẻ trước với người sau...
Nhật lững thững ra cổng chùa. Con bé con, mặt mũi lem luốc, cặp mắt nâu tròn lóng lánh, đứng đậy đi theo. Nhật lại nghe giọng lanh lảnh:
- Con ơi, chớ bỏ theo trai...
Nhật bước nhanh giữa gió chiều trống trải. Từ xa vẫn cứ văng vẳng tiếng hát:
Ới ai ơi...
Cái cõi sân si, nó rộng, nó nổi ba đào.