Trở lại phần đầu câu chuyện, tôi có kể là lúc tôi ở chiến trường ra, thăm thầy Hoan thầy ở một mình. -Tôi mới nhận sổ hưu được mấy tháng nay. Định cải tạo cái vườn trồng ít quất hồng bì và hồng xiêm. Cô Nga cô ấy xin đâu được hai cây giống, tôi mới trồng góc kia... -Thế còn cây si, cây si to thế bây giờ đâu rồi ạ? -Cây si ấy đáng lẽ là của tôi, nó mọc trên đất tôi. Nhưng người ta bảo của xã. Thế rối tự dưng nó héo cành, úa lá, rụng xuống đen thâm cả nước ao. Họ chặt năm ngoái rồi! Tôi nao nao nuối tiếc về những kỷ niệm tuổi ấu thơ cuả mình. Cái gốc si già tua tủa những chùm rễ, như một bộ râu con quái vật. Khi tôi còn bé độ sáu bẩy tuổi, mẹ tôi thường "quẳng" tôi sang nhà chị Nga để mẹ đi làm đồng. Những lúc ấy, khi tôi khóc đòi mẹ thì chị Nga trèo lên cây si, vạch một chùm rễ, ngó xuống ao.Ở đấy hiện ra cái gì? -Có nàng tiên con gái vua Thủy Tề, em biết không? -Có giống Nàng Tiên trong câu chuyện bác Hoan kể không hả chị? -Giống! Nhưng cơ mà đẹp hơn nhiều. -Cho em xem với! Tôi nhõng nhẽo. -Lên đây! Chị gọi tôi và đưa bàn tay ra vẫy vẫy. Tôi trèo lên nhìn theo chị. Nhưng tôi đâu có thấy Nàng Tiên: -Tiên đâu chị Nga? -Kia kìa! Tôi chỉ thấy bóng chị Nga, một cô bé mười ba tuổi, gầy và xanh. Một trái si rụng xuống làm lan những vòng sóng. Bóng chị Nga lung linh, lung linh... tỏa sáng dưới ánh nắng trưa lọt qua vòm lá si xanh ngắt. Và tôi òa khóc! Câu chuyện về một người con gái đẹp vì thất tình nên phải tự tử dưới gốc si già này. Cái chết oan khiên và tức tưởi của cô làm cô không nguôi nhớ trần gian. Thỉnh thoảng cô vẫn hiện về với khuôn mặt sưng vù, đỏ rực hận tình. Cũng có khi cô hiện ra an ủi những nỗi buồn, những ước mơ bị tan vỡ của ai đó. Câu chuyện do nhiều thế hệ thêu dệt đã làm cho trái tim non nớt của tôi hốt hoảng. Nhiều năm sau này, khi lớn lên, tôi vẫn còn nhớ mãi khuôn mặt chị Nga hôm ấy... xanh xao, yếu ớt và thật bí hiểm. Và nếu quả là tương truyền có thật, vong hồn người thiếu nữ chết yểu kia bây giờ trú ngụ nơi đâu? Chị Nga lấy chồng rồi vẫn vừa đi dạy học, vừa làm dâu. Nửa năm sau anh Kỳ cũng nhập ngũ. Thế là gia đình nhà ông lão Tuân bắt chị phải nghỉ dạy để ở nhà làm ruộng, trông nom bố mẹ chồng. Chị Nga im lặng, không cãi lại, hoặc phân bua nửa lời, âm thầm về làm người nông dân. Công việc đồng áng đã làm chị sụm xuống, đôi mắt lúc nào cũng nhìn xuống bàn chân, hoặc có khi ngó mã đâu đâu, xa xôi, hy vọng và cả tuyệt vọng. Ai cũng bảo chi đang thương nhớ chồng. Tuy là người cùng làng nhưng khi còn ở nhà tôi không biết nhiều về gia đình anh Kỳ. Chỉ biết nhà anh có ba chị em, hai chị gái lấy chồng thiên hạ. Anh Kỳ là con trai một nhưng không phải duy nhất, nên tuy không thuộc diện miễn bộ đội nhưng mấy năm qua anh cũng thuộc diện tạm hoãn. Thời loạn ly, trai tráng ra trận hết, những người còn lại trong thôn chỉ toàn là ông bà già, phụ nữ và trẻ con... anh Kỳ nổi lên như một nhân vật quan trọng của địa phương chúng tôi. Anh là phó chủ nhiệm hợp tác xã, là bí thư chi bộ. Lần này, sau khi cưới vợ, anh xung phong một cách quyết liệt vào bộ đội. Oái oăm thay, và cũng tủi phận thay, anh Kỳ hy sinh ở chiến trường Tây Ninh sau một năm thì có giấy báo tử về làng. Đáng lẽ như bao nhiêu người phụ nữ làng tôi, nước tôi, chị Nga đã lặng lẽ sống một cuộc đời chinh phụ góa bụa, an phận thủ tiết. Trong đời người, giông gió như thế là quá đủ lắm rồi, nhưng... vào một đêm thu, trăng già, gió nhẹ thôi nhưng rất lạnh, heo may lãng đãng, số phận lại khoác vào chị một lần cay nghiệt nữa... Tôi tiếc là không biết chuyện tình yêu giữa chị Nga và Anh Kỳ ra sao. Có nhiều lúc tôi cứ tự hỏi hai người này có yêu nhau không nhỉ? Hai con người xa lạ thế, khác nhau là thế làm sao mà đồng điệu, mà hòa hợp được? Hay là có ai bắt, ai ép? Tôi thì nghĩ rằng thầy Hoan chẳng bao giờ ép con gái trong chuyện chồng con. Sau lần chia tay với chị Nga hôm đám cưới chị, tôi đi một mạch thẳng vào chiến trường, chị em không còn lúc nào để nói chuyện với nhau. Sau khi có tin chồng hy sinh, chị Nga cũng không buồn hơn. Người ta chỉ thấy chị im lặng hơn và lơ đãng hơn. Chị đem tất cả những vật kỷ niệm của anh Kỳ gói vào một cái bọc nhỏ kê dưới đầu giường. Giấc ngủ mong manh của chị luôn bị đánh thức bởi những nỗi niềm. Có nhiều đêm chị thức trắng nghĩ ngợi về số phận của mình. Vào một đêm như thế, trăng già méo mó và lơ lửng trên cành xoan trước cửa buồng chị. Xa vắng đâu đó ngoài đồng bãi tiếng chó cắn ma từng chặp, từng chặp rộ lên. Chị Nga nằm quay mặt vào vách và từ từ chợp mắt. Bỗng chị cảm thấy có hơi thở lạ trong buồng. Chị rùng mình, co cứng người không dám ngoảnh lại. Hương hồn anh Kỳ, chồng chị trở về! Chị tin là thế. Chị tin là người ta có những ràng buộc với nhau, không chỉ một cõi nhân gian chật hẹp trong cái làng Sơn Cốt của chị, mà cả cõi đời này, đã nợ nần nhau dù một ngày cũng thành tình, thành nghĩa. Miệng chị khô đắng và cái nóng âm ỉ từ đâu chảy về. Nó bắt đầu từ trong sâu thẳm của ruột gan, rồi lan tỏa ra khắp cơ thể. Đây không phải là lần đầu tiên chị có cái cảm giác ấy. Càng về sau, nhất là từ khi anh Kỳ có giấy báo tử, chị Nga càng có những giây phút lạ lùng như thế này. Chị cố nằm im, nhắm chặt hai mắt, mà để cho lòng dạ trôi nổi về mãi tận những miền ký ức xa xăm. Nhưng hôm nay, hơi thở lạ càng như có thật chứ không phải mơ hồ do chị tưởng ra. Chị từ từ mở mắt và trong ánh trăng héo hắt chiếu lên vách đất, một cái bóng to lớn, chập chờn, và im lặng như đang nhìn xoáy vào cơ thể chị. Chị vùng dậy và hét lên một tiếng kinh sợ. Cái bóng giật mình lùi lại, thều thào: -Thầy đây mà... vợ Kỳ! Thầy đơ..ây!... Đó là cái bóng của ông lão Tuân, bố chồng chị. Thoát khỏi cái cảm giác hãi hùng, chị Nga rơi nhanh chóng vào tâm trạng thất vọng. Chị lần tay lên đầu giường lần tìm bao diêm. Không biết có phải do vội vã cuống quýt hay không mà chị không thấy cái bao diêm đâu, chị đụng phải cái gói chất đầy kỷ niệm của chồng. Tiếng động loạt xoạt làm ông lão Tuân lo lắng.: - Con ơi!... Con làm gì thế?... Tìm thấy cái hộp vuông vuông hăng hắc mùi lưu huỳnh, chị Nga như muốn hụt hơi: -Con tìm bao diêm để thắp đèn. -Đừng! Con ơi, thầy muốn nói chuyện với con trong ánh trăng như thế này! Tự dưng cái cảm giác ghê rợn tràn đến, ào ào, lũ lượt, như một đàn lươn, đàn trạch, nhớt nhát, tanh tưởi. Ngày thường chị Nga một mực tỏ ra cung kính, không bao giờ trò chuyện tay đôi với bố chồng. Chỉ một lần duy nhất, là sau hôm báo tử anh Kỳ một vài ngày, chị xin phép được nói với ông: -Từ ngày con về làm đau thày u, xin thày cho con biết con có điều gì không phải với thày u, với các anh các chị, bên nội, bên ngoại nhà chồng con không? Ông Tuân kinh ngạc nhìn con dâu: -Chết! Sao con lại hỏi thày câu ấy? Hay là... Ông lão bỏ lửng câu nói. Chị Nga ngước cặp mắt buồn bã trống rỗng lên nhìn ông lão: -Không! Con mất chồng, con đau một, thầy u mất con thày u đau mười. Nay con đã thành người góa bụa, con không dám trách ai. Con muốn hỏi thày câu ấy, để thày chỉ bảo cho con sống nốt những ngày làm dâu con trong nhà. Ông lão Tuân thẫn thờ: -Thôi thì cái số thằng Kỳ nó mỏng. Khổ thân con, khổ thân thày. Người ta có năm có mười thì lành, thày chỉ có một, lại vỡ... Ông lão Tuân khóc nấc lên thành tiếng, tiếng khóc của một người đàn ông, lại đã có tuổi, từng trải, nghe nó não lòng hơn nhiều lần những tiếng khóc khác. Hai người, ông lão Tuân và chị Nga, hai bố con hai thế hệ, nhưng có cùng nỗi đau mất người thân. Chính chị Nga, cũng cảm thấy bấy lâu nay mình chỉ cung cúc tận tụy làm người phục dịch trong nhà. Chị chưa hề cởi mở tấm lòng mình. Sau nỗi mất mát này, chị thấy mình cần phải làm cho mọi thành viên nhích lại gần nhau, kết nối với nhau thành một cái mảng, phập phù trong những tháng ngày giông bão. Chính vì thế, mới có cuộc trò chuyện, và tiếng hờ thảm thiết của ông lão Tuân. Chị Nga ngồi hai tay đặt trong lòng đầy an phận im lặng chờ cho bố chồng bớt tiếng khóc. Mà sao chị không khóc nhỉ? Chị đã khóc một mình, đã cạn nước mắt. Chị không chỉ khóc về phận mất chồng, mà chị còn khóc cho những cái khác, mờ mịt hơn ở mãi tận đâu đâu mà chính chị cũng không tể nào biết được. Mãi lúc sau chị lên tiếng: -Thôi, thày ạ. Khóc cũng chả làm cho anh ấy trở về được nữa. Con chỉ nghĩ thương u... -Thày hỏi con câu này, là hỏi vậy thôi, chứ thày không có ý gì đâu. Với lại chỉ nghe thiên hạ họ giăng ca... Chị Nga cúi xuống nhìn vạt áo: -Người ta đồn sao ạ, xin thày cứ nói? -Người ta bảo, có lẽ con... đi bước nữa? -Ai mà ác mồm thế? Ông lão Tuân gần như reo lên: -Thế không phải hả con? -Lạy thày, con không phải là người ăn ở hai lòng. Tuy con không có mẹ, bố con một mình gà trống nuôi con, nhưng là nuôi dạy của người có chút ít chữ nghĩa. Con về làm dâu thày mẹ, sống là người trong nhà, chết làm ma trong họ, nếu thày u còn thương, còn coi con là con. Ông lão Tuân lại quay đi ngậm ngùi: -Thôi người ta nói mất con, còn rể, nhưng thày còn có phúc, mất con trai, còn con dâu. Ông lão Tuân là người từng trải, con người quắc thước. Ở vào tuổi ngoài ngũ tuần, sự tráng kiện đã phôi phai, có phần tàn lụi, nhưng sức vóc vẫn còn mạnh mẽ. Bà mẹ chồng, sau cái tin con trai hy sinh bà nằm liệt giường ngay. Mọi sự ăn uống, vệ sinh, tắm giặt... đều tại một chỗ, đến nỗi, ông Tuân phải thu xếp một góc nhỏ dưới nhà ngang, cho bà nằm. Công việc đồng áng của chị Nga vốn đã chất ngất, giờ lại thêm bà mẹ chồng, làm cho chị phải luôn chân tay, đầu tắt mặt tối. -Con xin thày, có chuyện gì để mai hãy nói. -Con ạ, thầy nghĩ mãi rồi, thày phải nói với con ngay bây giờ! Con ơi! Vợ Kỳ ơi, thương thày với... Tiếng ông lão Tuân chìm hẳn xuống, lạc đi mãi đâu đâu. Nhưng nghe ra, có một cái gì nữa, như thể tiếng rạ rơm quẹt vào vách nứa. Nói xong câu này, lão Tuân ghé ngồi vào giường con dâu. Chị Nga thừa thông minh để đoán biết, nếu như trong tình huống khác. Đằng này ông lão cứ lào phào, rõ ràng ông kiệt sức lắm rồi. Tuy thế, chị cũng ngồi lui vào tận góc giường. Cảm giác lạnh buốt đâu đó trong người chạy ra bủa lấy hai bàn tay chị: -Thày ơi, đêm hôm khuya khoắt này, thày làm thế này, con thấy... -Con ngồi lại đây, ngồi lên cho thày lạy, rồi thày mới dám xin con... -Đừng! Con van thày! Trong bóng tối lờ mờ, ông lão Tuân quỳ sụp xuống vái liền mấy cái. Chị Nga cắn chặt hai hàm răng lạnh vào nhau, run bần bật. Chị muốn đứng dậy nhưng không nổi. Chị muốn òa khóc, nhưng không mở miệng ra được. Ông lão lạy con dâu xong thì chồm tới phía trước, hai tay ông quờ quạng và túm được một bên ống quần chị Nga: -Thương thày với, con ơi! Chị Nga run rẩy cố đẩy ông bố chồng ra, nhưng ông lão Tuân đã úp mặt vào chân chị: -Thày xin con, Nga ơi! Thằng Kỳ chết đi, giòng họ Trần nhà thày thế là tuyệt tự. Phải chi, trước lúc nó ra trận, con giữ lại cho nó, cho thày, cho giòng họ này một hòn máu. Hu... hu...! Chị Nga đau đớn lắc đầu trong bóng sáng từ cửa sổ hắt vào của quầng thái âm nhợt nhạt: -Con không biết làm thế nào. Không biết có phải lỗi tại con không? -Không! Con không có lỗi. Con thương ta, cho ta một đứa cháu, một đứa con nối dõi... Chị Nga càng lắc đầu tuyệt vọng: -Nhưng con đã không làm được như thế. Thày bảo phải làm sao? Ông lão ngẩng lên, một khuôn mặt đẫm nước mắt hòa trộn vào ánh trăng đã vào hồi thiếu sáng: -Được chứ! Con bằng lòng cho thày nhá, cho thày một đứa con. Một đứa con thay vào chỗ thằng Kỳ, vào chỗ con thằng Kỳ! -Không! Không! Khô... ông... Chị Nga thét lên bằng những cung bậc khác nhau, nghe như tiếng rít lên phẫn uất của cây đàn mà người nhạc công tạo hóa vuốt ngược sợi dây định mệnh. Hai chân chị co lại, giãy giụa như đứa trẻ hờn dỗi. Ông lão Tuân chồm tới, bằng một sức mạnh cuối cùng của lòng quyết tâm cao độ và của sự khát thèm thôi thúc. Tự dưng chị Nga im lặng, thở dốc, những giọt nước mắt đắng cay tứa ra. Ông bố chồng cảm thấy một sự thỏa hiệp ở phía người đàn bà đang vào độ mặn mà phì nhiêu mà phải héo hon dần theo thời gian cay nghiệt. Ông van vỉ con dâu: -Nhá! Nga ơi, con hãy thương thày với... Không ai biết chuyện này đâu! Bất thần, chị Nga vùng dậy xô ông lão ngã lăn ra giữa nền buồng. Rồi như không nhìn thấy gì, chị nhắm mắt lao ra phía cửa và cứ thế, nhằm hướng cánh đồng Lưu Lạc mà chạy. Dưới chân chị, đất đợi ải vỡ ra lạo xạo. Những con nhái ăn đêm bị đánh động chạy tán loạn. Tiếng gió lùa ào ạt trong tai chị, hòa lẫn với tiếng chó sủa nhấm nhẳng trong làng, làm chị Nga càng chạy khỏe. Dưới lớp sương mờ và ánh trăng già càng về khuya càng sáng, người đàn bà đầu tóc xổ tung rũ rượi, trong bộ quần áo trắng ướt đẫm mồ hôi và sương sa, chị như lướt đi vào cõi hoang mang. Chị Nga chạy mãi mà không biết đến đâu rồi, cho đến khi một búi dây bìm bìm giằng xấp mình xuống đất, chị mới nằm vật ra. Có tiếng ong ong trong lòng đất, như những tiếng ru ai oán khiến chị dần tĩnh lại. Xa xa trong làng có tiếng gà gáy gọi nhau. Nước mắt chị Nga chan hòa cho thân phận chị, cho hương hồn anh Kỳ chồng chị, cho cả sự trớ trêu của người chinh phụ. Chị kêu lên một tiếng thảng thốt, ngậm ngùi: -Mẹ ơi! Đến đây xin bạn đọc vui lòng cho tôi rẽ ngang câu chuyện một chút, để tôi được kể về tôi. Kể về tôi sau khi nhập ngũ, trải qua ba tháng huấn luyện ngắn ngủi và chỉ kịp bắn bia số bốn, bài một rồi vào một đêm trăng sáng lạnh ngăn ngắt, chúng tôi lên tàu ở ga Sen Hồ vào Nam. Không phải không còn lãng mạn, nhưng đói và cực, mệt mỏi đã làm tôi nhiều lúc ngồi một mình ứa nước mắt. Chết ư? Dễ thôi. Chỉ cần một quả bom rơi, một viên pháo lạc, một cái sảy chân bên bờ dốc thẳm, một cơn co giật của bệnh sốt rét ác tính... cũng là chết rồi. Thực ra lúc ấy, nghĩ đến cái chết nó nhẹ lắm cơ. Có thể bây giờ có người không tin, nhưng cứ thử hình dung mà xem, một thân một mình, chẳng nợ ai, ai nợ... thì có gì mà vương vấn. Với cha mẹ đẻ ra mình thì cầm bằng hòn máu đánh rơi. Cầm tấm vải liệm quân nhu phát cho nhét vào đáy ba lô đề phòng mọi tình huống, tình huống xấu nhất, tình huống cuối cùng, mà không thấy sợ, không thấy rủi ro, sui sẻo, thế là được rồi. Anh đã hoàn toàn là anh lính chiến. Bom đạn rồi cũng quen đi. Chỉ có gian khổ, đói và nỗi cực nhọc hành hạ thân xác từng phút, từng giờ là giày vò con người. Nỗi nao lòng, nhẹ dạ rất thường khi ở chỗ này... Bây giờ, khi chúng ta đã có một gia đình, một đàn con, một trách nhiệm không thể trút bỏ được, nên nghĩ đến một khi chúng ta không còn trên cõi đời này nữa, để cùng chia sẻ, cùng gánh vác mọi nỗi niềm, mà chủ yếu vẫn là những nỗi oan nghiệt trái ngang, thì vợ con ta, cha già, mẹ héo của ta sẽ đau khổ biết nhường nào? Ấy, cứ nghĩ thế mà lăn lưng ra mà cày, mà cuốc, mà kiềm tiền, mà sống. Mấy năm đánh nhau có lúc được, lúc thua, có khi thừa thắng xông lên, có khi cắm cổ chạy dài... Chiến tranh, đó cũng là cái thường tình. Cố mà đi đến chỗ cấp trên bảo, cố mà lao vào chỗ cấp trên ra lệnh, cố mà sống đến ngày mai. Rồi ngày mai nữa, được ngày nào hay ngày ấy... Đấy, đại khái là như thế. Nhưng mỗi đứa lính chúng tôi không chỉ có những lúc đánh đấm, bắn giết và cắm đầu chạy. Phút giây im lặng trong chiến tranh nhiều lắm, rất nhiều, đó mới lại là lúc gậm nhấm tâm hồn mỗi thằng lính chúng tôi. Trong cả một khoảng dài máu me, khét lẹt ấy, không mấy lần tôi không nhớ về chị Nga của tôi. Cuốn sổ tay mà Thu, người yêu tôi tặng tôi khi chia tay, ghi nhằng nhịt những giòng lưu niệm của bạn bè, nhưng vẫn còn một khoảng trống khá dày trang. Tôi ghi nhật ký, không ghi dài được. 30.4- Mệt. Hình như sốt. Uống liền bốn viên nivaquin. 1.5- Thằng Mão tụt lại. Thấy trên cây săng lẻ Binh trạm 32 có khắc cơ man những dòng chữ nguệch ngoạc, tên họ quê quán của những người lính đã đi qua đây. Có dòng Hà Đức Mẫn, Phổ Yên, Bắc Thái. 10.5- Gửi thư cho Thu và chị Nga. Sao chị Nga lấy chồng vội quá nhỉ? Nhanh thế! Chị bảo chị không lấy chồng kia mà? Giá chị ít tuổi nhỉ! Ít đi vài ba tuổi thôi. Thu trắng hơn chị Nga, và có vẻ yếu ớt hơn. Giá được vùi mặt vào lòng Thu, trong lúc này như chị Nga nhỉ! Chiều nay gặp một đoàn người đi ra, toàn là trẻ con và phụ nữ. Có mùi gì lạ lắm... 2-6. Cả một đoàn quân dài dặc chuyền tay nhau từ dưới lên trên cái xu-chiêng! 8-8. Khương Đức Duy chết rồi. Một quả đạn AT do chính tay nó gài chống ăn cắp kho quân lương. Vân vân... Những dòng nhật ký đại loại như thế mà rồi cũng kín hết chỗ giấy còn lại của quyển sổ. Tôi lại ghi tiếp vào cuốn khác. Những mẩu chi tiết, sự kiên, cảm nghĩ như thế cứ nối nhau, nhưng không phải lúc nào, chuyện gì, hay ý nghĩ ra sao tôi cũng ghi được. Rồi cuốn sổ cũng chẳng còn, một cuốn bị cháy mất, một cuốn phải nộp cho chính trị viên đại đội. Cuốn sau cùng những thằng bạn tranh nhau xé làm giấy cuốn thuốc lá Tà Ôi. Cho đến một ngày cuối tháng mười năm bảy hai, khi trên đài phát thanh chúng tôi nghe được lời tuyên bố của chính phủ ta phản đối Mỹ lật lọng không chịu ký một hiệp định hòa bình. Tiếc ngẩn ngơ, một cơ hội hòa bình bị mất đi, chiến tranh sẽ còn kéo dài... dài đến bao giờ? Lại âm thầm làm phận sự người lính của mình và chờ đợi. Thế rồi cái ông Richard Nixon trúng cử tổng thống Mỹ một nhiệm kỳ nữa, nghĩa là bom, đạn, lính Mỹ tiếp tục cày phá đất nước này. Chiều hôm ấy, ngày Hiến chương quốc tế các nhà giáo 20-11, một buổi chiều khá thanh thản. Tôi một anh giáo nửa mùa, nhưng sao cứ âm ỉ nhớ về cái ngày ấy. Và rồi bâng khuâng tơ tưởng về quê nhà, nơi ấy có cha mẹ, có các em tôi. Nơi ấy còn có Thu của tôi, có thầy Hoan và chị Nga! Tôi lặng lẽ ra bờ suối ngồi một mình để một mình kỷ niệm về cái ngày của mình. Liệu tôi có còn kịp trở về để được làm một thày giáo làng gõ đầu trẻ nữa không? Không còn nhật ký, không còn cả bút mực mà viết một cái gì đó, một dòng chữ gì đó cũng được. Tôi thả ý nghĩ lang bang trong buổi hoàng hôn rừng rú, tiếng ì ầm của máy bay C.130, tiếng nổ cuối tầm của đạn pháo xen lẫn tiếng rì rầm của thác suối. Và ve, tiếng ve đầu mùa khô trong rừng khộp nghe như có cả tiếng kim khí của một loại khí nhạc đơn điệu độc một giai điệu trung tính, không ra trầm, không ra bổng, chẳng rõ vui hay buồn. Có tiếng chân người đạp trên lá khộp lạo xạo sau lưng. Tôi ngoảnh lại, thằng Tiến hào hứng: -Này nhà thơ! Mày có người tìm! -Ai tìm? Anh Ngữ à? -Không phải. Một người lạ, nhưng biết mày, từ Binh trạm xuống... Tôi ngạc nhiên hỏi Tiến: -Có phải cán bộ quân lực không? -Cứ về xem nào. Lúc nào cũng chỉ tưởng quân lực! Tôi hỏi thế là vì, đã hơn một lần tôi được cán bộ quân lực xuống hỏi thăm, rồi sau đó là quyết định điều động. Từ công binh, sang thông tin, rồi bây giờ là pháo cao xạ. Ai mà biết được, trong chiến tranh nhiều cái bất ngờ lắm, và cũng nhiều cái bất trắc lắm. Người đàn ông từ lán anh Ngữ đứng dậy nhìn tôi chằm chằm: -Cậu không nhận ra anh à? -Dạ... em không biết anh... Anh Ngữ, trung đội trưởng đế vào: -Người làng mà không nhận ra nhau à? -Kỳ đây! Ở nhà đã biết nhau rồi mà. Dưới bóng loạng nhoạng của hoàng hôn trong rừng thẫm, tôi vẫn còn đang nghĩ ngợi, không dám nói, thì anh tiếp: -Kỳ chồng Nga, con rể thầy giáo Hoan đây! -Trời ơi, anh Kỳ! Tôi ôm choàng lấy anh mà lắc. Anh Kỳ đây ư? Tôi thật vô tâm. Mà đâu phải tôi chỉ vô tâm khi đứng trước mặt anh. Suốt từng ấy năm, trong ý nghĩ của tôi không hề có một tí tẹo nào dành về anh Kỳ. Chồng chị Nga là một người không có thực trong tôi, nó giống như một cái tên gọi, được gán kèm vào đấy, ví dụ " Thúy Nga" chẳng hạn, mà tôi thì lại chỉ biết và chỉ chấp nhận ở chị mỗi hai chữ "chị Nga"mà thôi. Tôi ôm anh Kỳ khá lâu, lúc rời anh, tôi mới nhìn kỹ thấy một người đàn ông vêu vao, đầu trọc lốc như người trong tranh hý họa. Tóc rụng đã đành, cả lông mày cũng không còn, nhìn anh thật sợ. Tôi xin phép anh Ngữ đưa anh Kỳ về lán tôi. Anh Kỳ lấy võng của mình từ trong cái túi mìn clâymo ra mắc vào hai khúc cây gác ngang hai bên mái lán, nhún thử rồi ngồi xuống: -Tôi ở ban quân giới, lúc sang làm việc với quân lực, nhìn ké danh sách tiểu đoàn 68, tình cờ thấy tên cậu. Hôm nay, nhân xuống làm việc với quân khí tiểu đoàn mới có dịp tìm cậu. Khỏe chứ? -Vâng, em bình thường. Tôi vừa hí húi đun nước pha trà, vừa đáp. Sao anh gầy thế? Trông phát hãi lên ấy! Anh móc ra một bao thuốc lá RUBI quân tiếp vụ: -Hút đi cậu! Tôi thích thú ngắm nghía bao thuốc loại của quân đội Sài Gòn, có vẽ một người lính rằn ri đang xung trận với vẻ mặt đằng đằng sát khí trong tư thế một chân co, một chân duỗi trên lá cờ vàng ba sọc đỏ: -Anh sang thế? Loại "chân co, chân duỗi" này chúng em có mà mơ! -À, gặp cánh bộ binh đi ra, họ cho đấy mà. Tôi cho trà "Thái Nguyên" - một loại trà làm ở Chợ Lớn được quản lý cấp - cho vào cái ca bằng i-nốc, dốc ngược cái bi-đông Mỹ đựng đầy nước sôi úp vào, rồi nhớm lên môt tý cho nước ra ngấm trà. Tôi rót ra cái bát "B52" mời anh. Anh Kỳ bưng bát nước trà kề lên miệng rồi lại đặt xuống: -Các cụ ở nhà nói thế mà thiêng thật. Cái hôm tôi lên đường, bà cụ nhà cậu dặn tôi là vào cố tìm em nó. Cả cô Nga cũng bảo thế. Không ngờ lại hóa thật. Tôi cứ nghĩ chiến trường thì mênh mông, biết đâu mà tìm nhau. Thanh bình còn khó huống chi là bom đạn như trấu vãi, lính tráng đâu có được tự do đi lại. Phải không cậu? -Ừ mà anh cũng giỏi thật đấy. Anh đi năm nào? Anh Kỳ uống cạn bát nước, châm một điếu thuốc nhả khói: -Tôi nhập ngũ sau cậu một năm. À, tôi đã báo cáo với đại đội rồi, đêm nay anh em mình nằm với nhau một đêm. Sáng mai, các cậu đi nhận nhiệm vụ mới rồi. Tôi leo lên võng nằm, mà bụng dạ nghĩ vẩn vơ. Không ngờ có lúc tôi với anh Kỳ lại nằm bên nhau trong khu rừng nguyên sơ này. Trong khoảnh khắc, tôi thấy mình cũng yêu yêu anh, yêu yêu một phần đời của chị Nga mà tôi không nguôi thương nhớ.