Trong dòng máu chúng ta, nhất là trong dòng máu quân chủ và quý tộc, đều tiềm ẩn tinh thần du mục, hẳn nhiên nó chiếm một phần quan trọng trong khí chất lớp người kế tục, chúng ta phải coi tinh thần gấp rút mở rộng đất đai là thuộc về khí chất này, nó hối thúc các quốc gia hễ có điều kiện là mở rộng cương vực và mở rộng quyền lợi của họ đến tận chân trời góc biển. - (Anh Herbert). Well “Thế giới sử cương” Batu và Trương Kế Nguyên liên tục thay bốn lượt ngựa chạy hai ngày một đêm thuận gió mới dồn được đàn ngựa lên tới bãi chăn trên mỏm núi tây bắc. Họ không còn lo đàn ngựa chạy ngược gió trở lại đường cũ. Hai người mệt đến nỗi đờ đẫn trên lưng ngựa, gần như không xuống nổi, phải hít mấy hơi dài rồi lăn từ yên xuống đất nằm sóng xoài trên bãi cỏ, mở ống tay áo cho gió lùa vào hong khô áo lót trong ướt đẫm mồ hôi. Tây bắc là hướng gió núi thổi tới, đông nam là hồ nước nằm chính giữa thung lung. Đàn ngựa phân tán trên mỏm núi tròn vo, chúng sốt ruột, nửa muốn chạy ngược gió để đuổi muỗi, nửa muốn xuống hồ uống nước. Đàn ngựa mệt mỏi loay hoay đến ba vòng mà vẫn do dự chưa quyết, nghe tiếng hí vang của mấy con ngựa giống, mới từ bỏ ý định chạy ngược gió, chọn nước. Chúng đành chạy xuống hồ, hàng nghìn vó ngựa đánh động đàn muỗi bay lên bâu kín những con ngựa mình mẩy ướt đẫm, chọc vòi như kim máy dệt châm dày đặc. Đàn ngựa bị đau, nào cắn nào đá, tức tối mà không làm gì được, liêu xiêu như bị bệnh tâm thần. Batu và Trương Kế Nguyên thấy đàn ngựa đã xuống nũi, liền lăn ra ngủ, không kịp cài khuy tay áo. Đàn muỗi bu tới đốt vào cổ, nhưng mặc cho những chiếc vòi to như mũi dùi, đốt mấy cũng không tỉnh. Hai người từ hôm muỗi về, liên tục bảy ngày đêm không hôm nào được ngủ liền một mạch ba tiếng. Nạn muỗi biến đàn ngựa thành ngựa hoang, ngựa ốm, ngựa điên, không nghe quát, không sợ roi, không sợ thòng lọng xiết cổ, thậm chí sói cũng không sợ. Lúc không có gió, chúng chạy hoắng lên đón gió; khi có gió, chúng chạy ngược chiều để rũ muỗi trên người. Mấy hôm trước, đàn ngựa suýt vượt biên, nếu không có chuyện gió đột nhiên đổi chiều thì bây giờ chắc hai người đang ở đồn biên phòng yêu cầu quốc tế phối hợp giải quyết. Có đêm hai người tốn bao công sức vừa dồn được đàn ngựa về bãi thì đàn muỗi tấn công, đàn ngựa hoảng loạn, phá vây theo nhóm dòng họ chạy biến. Hai người lại mất một ngày một đêm mới gom được mười mấy dòng họ lớn lại, nhưng đếm thấy thiếu một tộc hơn hai mươi con. Batu để lại Trương Kế Nguyên một mình trông đàn ngựa, còn anh thay một con ngựa khoẻ tìm đúng một ngày mới thấy chúng trên bãi cát cách 80 dặm, toàn bộ số ngựa choai trong đàn đã không còn một con. Đàn sói bị điên vì muỗi đốt, chúng ra sức giết ngựa để bổ sung số máu bị mất, Batu tìm móng và bờm ngựa nhưng không thấy, sói đã chén sạch. Đàn ngựa muỗi bu đầy như cát bám trên người lao nhanh xuống hồ. Gần như bị muỗi hút kiệt máu, không còn mồ hôi để chảy, những con ngựa tranh nhau lội ào xuống nước. Chúng không vội uống, mà trước hết mượn nước đuổi muỗi, nước lút cẳng chân, cẳng chân không còn đau, nước lút bắp đùi, những con trùng hút máu trên bắp đùi cuốn xéo; nước lút bụng, những con muỗi không kịp rút vòi liền chết sặc, biến thành cung quăng. Đàn ngựa tiếp tục vùng vẫy, nước lút lưng, vừa mát vừa diệt muỗi, đàn ngựa phấn khởi hí vang, càng sục dữ trong nước, muỗi ác nổi trên mặt nước như trấu. Đàn ngựa hả giận, bắt đầu uống ừng ực cho đến khi không uống được nưa, sau đó duy trì lớp nước bùn trên người, trở lại chỗ nước vừa chấm bụng ngủ gật. Không một tiếng động, chúng ngại cả hắt xì hơi. Cả đàn ngựa im lặng cúi đầu mặc niệm những thành viên trong gia tộc bị muỗi sói liên kết sát hại. Mã quan trên núi và đàn ngựa dưới hồ đều ngủ say như chết. Không rõ thời gian bao lâu, ngựa cũng như người sực tỉnh vì đói, cả hai mấy ngày nay chưa ăn miếng gì vào bụng. Batu và Trương Kế Nguyên chạy tới một lều bạt gần nhất uống no nước trà và sữa chua, ăn no thịt luộc, rồi tiếp tục ngủ như chết. Đàn ngựa đói quá lên bờ gặm cỏ, bùn đất trên mình ngựa khô rất nhanh dưới nắng gay gắt, đàn muỗi thừa cơ nhè kẽ nứt mà đốt. Cỏ bên hồ đã bị bò cừu gặm cụt, để khỏi chết đói, đàn ngựa phải trở lại bãi cỏ tươi tốt trên núi, vừa ăn cỏ vừa đương đầu với đàn muỗi. o0o Toàn thể cán bộ của đội họp tại nhà ông Pilich. Ông già nói: Mây không dày không mỏng, trời này chưa mưa được, đêm lại càng nóng, mấy ngày nay muỗi ăn thịt đàn ngựa. Các đàn gia súc thiếu người, đàn cừu vừa có chuyện, quả thực không còn người thay thế cho mã quan về nghỉ. Bao Thuận Quý và ông Pilich quyết định rút cán bộ mục trường đi chăn cừu, rút dương quan và cán bộ bán thoát li lên núi thay thế các mã quan nhỏ tuổi và thanh niên trí trức, nhất định cầm cự bằng được giai đoạn trầm trọng nhất của nạn muỗi nạn sói hiện nay. Trương Kế Nguyên gần như suy nhược vì mệt mỏi, nhưng cậu ta bướng như con bò mộng, nói mấy cũng không lui về tuyến sau. Cậu hiểu, chỉ cần trụ nổi đại hoạ này,,từ nay cậu có thể trở thành mã quan đích thực, đảm đương một mặt của công việc. Trần Trận và Dương Khắc động viên cậu, cả hai đều muốn có một mã quan ưu tú trong đội ngũ thanh niên trí thức. Quá trưa thời tiết càng ngột ngạt, mưa to thì không, mưa nhỏ cũng chẳng hi vọng gì. Thảo nguyên mong mưa nhưng lại sợ mưa. Mưa to muỗi không bay được, nhưng sau cơn mưa, muỗi nhiều thêm. Muỗi hút máu sói ngày càng nhiều, con cháu của những con muỗi này mang tính sói, thích quậy phá. Thảo nguyên Ơlôn biến thành địa ngục trần gian, Trương Kế Nguyên cũngện sau đó không cần quan tâm. Trần Trận cảm thấy có thể cậu phạm sai lầm lớn. Xe gíp men theo con đường bốn mùa di chuyển bãi chăn, chạy hết tốc lực về phía tây bắc. Bãi cỏ xuân cho cừu đẻ con bị gặm cụt gốc, nay sang thu đã cao trên hai thước, thân cỏ ken dày, dập dềnh trước gió như sóng biển; những bông cúc vàng rung rinh, những vạt cỏ dinh dưỡng cao toả mùi hương hấp dẫn; vài con chim én đuổi theo xe đớp đám côn trùng bay vù lên. Chim én bị ô tô bỏ lại phía sau, nhưng phía trước xe lại hiện ra những con khác, chúng vẽ những đường parapôn phía trên xe. Trần Trận ngốn mùi thơm của hoa cỏ mùa thu. Trước mắt có thể là bãi đỡ đẻ cho cừu vào năm tới, là dương quan, cậu rất quan tâm đến tình hình mọc cỏ ở đây. Thu nhập hàng năm của mục trường, 70% dựa vào tiền bán len và cừu sống. Bãi đỡ đẻ là bãi vàng, là sinh mạng của mục trường. Trần Trận nhìn kỹ hai bên đường, cỏ mọc đep như có người chăm sóc, phẳng như ruộng lúa mạch. Từ khi đại đội chuyển vào bãi chăn mới, chỗ này không thấy có người dựng lều bạt. Trần Trận cảm ơn đàn sói và các mã quan, nếu như không có đàn sói, bãi cỏ thơm mê mẩn này sẽ biếu không cho dê vàng, thỏ đồng và chuột thảo nguyên. Suốt mùa hè, đàn sói không cho những cao thủ giành giật cỏ non nói trên đạt mục đích. Mỗi bãi chăn xanh tốt mà Trần Trận nhìn thấy đều là công lao của các mã quan. Chính họ không quản ngày đêm, bất chấp nắng mưa chặn đứng đàn ngựa tham lam, khoanh chúng trên núi cho ăn cỏ loại hai hoặc ăn thừa cỏ của bò cừu, dứt khoát không cho chúng ăn cỏ ở bãi cừu đẻ. Những dân tộc sống trên lưng ngựa rất yêu ngựa, coi ngựa như sinh mạng. Nhưng khi chăn thả, họ coi ngựa như đạo tặc hoặc như châu chấu để đề phòng. Nếu không có các mã quan, bãi cỏ quý như mạng người này sẽ chỉ còn lại những bãi phân ngựa tiêu hoá không hết, những đám cỏ chết khô vì nước đái ngựa. Thế nhưng, những cán bộ binh đoàn đến từ vùng nông nghiệp làm sao hiểu nổi những ảo diệu của thảo nguyên và nghề chăn thả? Xe chạy như bay, nhưng không cuốn theo bụi vàng nữa. Được nghỉ ngơi cả mùa hè, con đưòng đất cổ lỗ được phủ lên một lớp cỏ non mảnh mai. Du mục là luân canh. Cho lớp cỏ mỏng manh ấy xây xát nhẹ rồi bón bằng phân bò phân cừu. Hàng ngàn năm nay, dân tộc thảo nguyên áp dụng phương pháp sản xuất tối nguyên thuỷ và cũng rất khoa học này để bảo vệ thảo nguyên Mông Cổ. Trần Trận nghĩ một lúc, rồi không đừng được, cậu nói với Tham mưu trưởng Từ: Ông xem, đồng cỏ này được bảo vệ rất tốt. Mùa xuân năm nay đại đội nhân mã kéo đến chuẩn bị đỡ đẻ cho cừu thì cũng là lúc mấy vạn con dê vàng từ Ngoại Mông kéo về. Mọi người dùng súng đuổi không đi, ban ngày đi, tối trở lại giành giật cỏ với cừu non, cừu mẹ. Sau đó may mà có đàn sói, chỉ ít ngày đã đuổi sạch dê vàng. Thảo nguyên mà không có sói, cừu mẹ không có cỏ, cừu non không có sữa, hàng vạn cừu non sẽ chết đói. Chăn nuôi không như trồng trọt. Trồng trọt mất mùa chỉ một năm, còn chăn nuôi thì bảy tám năm, thậm chí thu thập cả đời cũng không bù nổi. Tham mưu trưởng Từ gật đầu, cặp mắt chim ưng tiếp tục sục sạo các xó xỉnh. Ông ta nói: Diệt dê vàng mà phải nhờ sói? Quá lạc hậu! Súng và lỗi bắn của mục dân không ổn, lại không có ô tô. Để mùa xuân sang năm chúng tôi tiến hành cho các vị xem, chúng tôi dùng tiểu liên, trung liên thì mấy vạn dê vàng cũng không sợ. Hồi tôi ở miền tây Nội Mông có săn dê vàng. Săn dê vàng tốt nhất là vào ban đêm, bật đèn pha, dê vàng sợ bóng tối, tập trung hết về phía ánh sang trước mũi xe, thế là vừa cho xe chạy vừa lia, một đêm hạ gục mấy trăm con. Đây có dê vàng thì hay rồi. Chúng đến càng nhiều càng tốt, như vậy sư đoàn bộ và nông nghiệp đoàn có thịt ăn. Kìa! Bao Thuận Quý khẽ kêu, trỏ phía bên trái. Trần Trận dùng ống nhòm, vội bảo đó là con cáo lớn, đuổi theo mau! Bao Thuận Quý tỏ vẻ thất vọng, nói: Cáo thì đừng đuổi. Quay lại nói với Tham mưu trưởng: Đừng bắn, đừng bắn! Sói rất thính tai, chúng giật mình bỏ chạy là chuyến đi công cố. Tham mưu Từ ngồi xuống, mặt mày tươi tỉnh, nói: Hôm nay hên rồi, đã gặp cáo thì thế nào cũng gặp sói. Xe gíp càng gần bãi chăn, động vật trên sườn núi và trong trảng cỏ càng nhiều, hơn nữa đều có đuôi “sa mạc” ở sau: én sa mạc, gà sa mạc, cáo sa mạc. Gà sa mạc có cánh nâu nhiều nhất, hàng đàn, vỗ cánh rào rào. Trần Trận trỏ một con đèo thấp xa xa, nói: Qua con đèu kia là tới vùng cát. Những người già bảo, vùng cát xưa kia vốn là vùng cỏ, còn có cả một con suối. Cách đây mấy chục năm, vùng Ơlôn bị đại hạn, hồ cạn, sông biến mất dòng chảy, giếng khô, nhưng một giếng thiên nhiên có nước. Khi đó, tất cả những đàn cừu đàn bò đàn ngựa đều đến uống nước ở mắt giếng này, từ sáng đến đêm, từng đàn gia súc xếp hàng uống nước. May mà mắt giếng không cạn, đồng cỏ hồi phục dần, nhưng phải mấy chục năm mới lai như xưa. Thảo nguyên èo ợt lắm, gia súc tăng quá mức một tí là biến thành sa mạc. Một đàn chuột thảo nguyên kêu chí chí chạy tán loạn ngay trước bánh xe. Trần Trận trỏ thảo nguyên nói: Sức tải gia súc phải tính cả chuột trong đó. Chuột thảo nguyên huỷ hoại cỏ nhiều hơn gia súc, mà sói có công lớn trong việc giảm nhẹ sức tải của thảo nguyên. Lát nữa các ông bắn được sói, cháu mổ bụng nó cho các ông xem, mùa này trong bụng sói quá nửa là thịt chuột và chuột đồng. Tham mưu Từ nói: Tôi chưa nghe nói sói ăn chuột bao giờ. Chó bắt chuột mà còn coi là chuyện trái khoáy nữa là sói. Trần Trận nói: Sói con rất thích ăn thịt chuột, ăn cả đuôi. Thảo nguyên Ơlôn không bao giờ có dịch hạch, chính là vì chúng tôi không giết hết sói. Các vị giết hết sói, chuột sẽ hoành hành, thảo nguyên Ơlôn sẽ phát sinh bệnh dịch... Bao Thuận Quý ngắt lời: Tập trung tư tưởng, quan sát kỹ! o0o Xe tới gần mỏm núi. Tham mưu Từ tỏ ra căng thẳng. Ông ta xem xét địa hình, rồi kiên quyết cho xe rẽ sang hướng tây, nói: Nếu trảng cát có sói thì không thể xộc thẳng vào, mà phải triệt trạm gác lưu động trước. Ô tô chạy vào một khe núi dọc theo hướng đông tây, đườngm sau cũng thế. Đêm thứ ba, Bao Thuận Quý cho xe ngựa chở đến hai con cừu lớn. Buổi chiều, các mã quan đã được ngủ bù, vây quanh nồi thịt cừu nhắm rượu, mọi người ăn uống ca hát, hò la ầm ĩ, vừa thưởng thức rượu thịt, vừa hù doạ đàn sói. Hơn năm nay Trương Kế Nguyên tửu lượng tăng lên, rượu ngà ngà hát bài “tửu ca”, cậu nhận ra giọng mình cũng du dương như tiếng tru của sói. Sáng sớm hôm thứ tư, ngựa lưu tính của mục trường đến thông báo hai cán bộ của binh đoàn sản xuất đã đến bãi chăn mới, cần gặp Ulichi và ông Pilich tìm hiểu tình hình. Hai người đành rời đôi, trước khi lên đường, ông Pilich dặn đi dặn lại các mã quan không được sơ suất. Hai nhân vật đáng nể của thảo nguyên vừa dời đội, các mã quan liền nhớ đến người yêu của họ. Buổi tối, hai mã quan trẻ phóng ngựa đi gặp các cô nương gác đêm ngoài trời cùng họ “gác đêm”. Từ “gác đêm” ở Ơlôn có hai nội dung, nhất thiết không được vừa cười vừa nói “gác đêm” với các cô gái, nếu không chưa chừng cậu sẽ phải đợi suốt đêm. Đàn ngựa đông đúc đã gặm trơ cả rễ tất cả các loại cỏ cứng cỏ đắng. Nhưng ngựa giống giám sát thành viên trong bộ tộc như cai ngục gác tù, kẻ nào đi về phía đồng cỏ vài bước, lập tức bị ngựa giống gọi trở lại, cả đàn bị phạt đứng trong lúc đói, còn ngựa giống vẫn đi tuần trong lúc bụng rỗng không. Những con sói nấp sau đám cỏ dại xa xa cũng đã đói vàng mắt, nhất là khi ngửi thấy mùi thịt từ trong nồi bay ra, đàn sói càng chịu không nổi. Nhưng đàn sói đến vùng ít muỗi này cũng đã được di dưỡng đầy đủ về tinh thần, đang lặng lẽ đợi thời. Batu đoán có đến nửa số sói thảo nguyên Ơlôn đã mai phục xung quanh đàn ngựa, có điều chưa dám liều lĩnh rat ay. Đám mã quan đông đảo súng ống trang bị tận răng, ngựa giống hung hăng bảo về vòng ngoài. Vài con ngựa giống sức lực có thừa không biết dùng làm gì, liên tục giậm chân quát tháo đàn sói phía xa, chỉ tiếc nỗi không ngoạm lưng sói mà quăng lên trời, đợi rơi xuống liền dùng chân giẫm đạp cho hả giận. Nhưng nhược điểm lớn nhất của đàn ngựa chăn thả dã ngoại là không có chó đi theo. Xưa nay người thảo nguyên chưa hề huấn luyện những con chó giữ nhà trung thành luyến chủ thành vệ binh của đàn ngựa. Sau bữa cơm chiều, Batu dẫn theo Trương Kế Nguyên đi dò tung tích đàn sói tại một nơi khá xa có loại cỏ thân cứng. Họ đi theo một tuyến rộng hơn, vẫn không phát hiện dấu vết mới của sói. Batu không yên tâm. Mấy hôm trước trinh sát tầm xa, anh thấy có mấy bóng sói lảng vảng, vậy mà khi người ngựa đã lơ là đôi chút lại không thấy bóng con nào. Anh biết, trước khi phát động tổng công kich, sói thường chủ động lùi xa mục tiêu để người và gia súc mất cảnh giác. Trương Kế Nguyên cũng cảm thấy một thứ căng thẳng không thể cắt nghĩa trước sự im ắng này. Cả hai cùng nghĩ tới thời tiết, bèn ngẩng đầu nhìn trời: Góc tây bắc không còn sao, mây đen dày đặc đang ùn ùn kéo về trảng cát. Hai người vội quay ngựa chạy về lều bạt, Batu phát hiện ba nhóm mã quan mỗi nhóm thiếu một người, hỏi mã quan lớn tuổi, người thì bảo họ về mục trường lĩnh pin đèn, người lại bảo họ đi khám bệnh. Batu tức điên, quát: Tôi biết họ đi đâu rồi, đêm nay mà có chuyện, mấy cậu trốn việc đó dứt khoát sẽ giao cho mục trường nghiêm trị. Rồi trỏ các mã quan và bảo: Đêm nay không ai được ngủ, thay con ngựa tốt nhất trực suốt đêm, nhất định phải quây chặt đàn ngựa không cho đến trảng cỏ, dứt khoát đêm nay sói về! Các mã quan vội thay pin mới, lắp đầy đạn, mặc áo mưa, phóng vội đến đàn ngựa chuẩn bị ứng chiến. Gần nửa đêm, tiếng quát từ phía trảng cát vang lên, ánh đèn pin lấp loáng nhiều lên. Những mã quan dũng mãnh cùng những con ngựa giống quay chặt đàn ngựa, đám ngựa lớn hình như đánh hơi thấy mùi sói, len ra đứng vòng ngoài dùng xương thịt tạo nên mấy lớp tường vây, dành mảnh đất an toàn bên trong cho ngựa cái, ngựa con và ngựa choai. Ngựa choai bám ngựa mẹ không rời nửa bước. Trương Kế Nguyên hình như nghe thấy tiếng đập của hàng nghìn trái tim ngựa, hồi hộp không kém cậu lúc này. Sang nửa đêm về sang, sau cơn cuồng phong, tiếng sấm dữ dội nổ tung bầu trời, phía dưới, đàn ngựa nhốn nháo như nổ kho thuốc súng. Trong khoảnh khắc đất trời rung chuyển, đàn ngựa sợ hãi hí vang, gần hai nghìn con ngựa bên trong náo loạn chỉ chực bỏ chạy. Tất cả những con ngựa giống đều đứng trên hai chân sau, mặt ngoảnh vào trong, dùng hai vó trước nện những con yếu bóng vía chực phá rào bỏ chạy. Các mã quan hò hét, vụt lia lịa giúp ngựa giống tử thủ phòng tuyến cuối cùng. Nhưng trên cao sấm rền vang, những tia chớp ngoằn ngoèo như dây thần kinh phóng thẳng xuống đất, ngựa như đập nước tròn khi động đất, vỡ tứ phía, loáng cái đã phá vỡ phòng tuyến ngựa giống và các mã quan, chạy như điên. Tiếng sét át hết tiếng kêu ngựa hí và tiếng súng, ánh chớp xoá đi ánh đèn pin, trong khoảnh khắc ngắn ngủi đó, thấy rõ những con sói xám từ bốn phương tám hướng xông vào đàn ngựa. Các mã quan mặt tái nhợt. Trương Kế Nguyên hét to: Sói! Sói! lạc cả giọng. Cậu chưa bao giờ trông thấy một tập đoàn sói công kích dữ dội dưới sự trợ oai của sấm sét trên trời giáng xuống. Đàn sói như đạo thần binh thực hiện ý chỉ của trời, ra quân có mục đích thay trời hành đạo, trả thù cho thảo nguyên, tấn công dữ dội người ngựa, giết tên đầu sỏ phá hoại đồng cỏ: Ngựa Mông Cổ. Đàn ngựa vừa sợ vỡ mật vì tiếng sấm, lại bị đàn sói hung dữ tấn công, tinh thần đồng đội nhanh chóng tan rã chỉ còn lại bản năng chạy trốn. Vỡ trận như núi lở, vỡ đàn còn hơn cả vỡ trận. Được sấm sét và bóng tối yểm hộ, đàn sói lao như tên vào giữa đàn ngựa. Đàn ngựa tan tác, sói dễ dàng tiêu diệt từng con. Mục tiêu công kích số một của sói là ngựa choai. Chưa từng nghe thấy tiếng sét nổ, những con ngựa choai sợ đến tê liệt. Lũ sói cứ mỗi con một miếng, mỗi miếng một con, mau chóng cắn chết mười mấy con ngựa choai. Chỉ những con ngựa choai can đảm bám sát ngựa mẹ, hoặc nếu lạc mẹ, bám ngựa bố hung dữ mới thoát cuộc tàn sát. Trương Kế Nguyên vội vã đi tìm “Nàng Bạch Tuyết” thân yêu của cậu. Cậu sợ trong đêm càng nổi bật càng nguy hiểm. Lại một ánh chớp, cậu trông thấy bốn con ngựa giống to lớn đang truy sát ba con sói bên cạnh con ngựa bạch, nào đập nào cắn, cực kỳ hung hãn. Ngựa bạch bám sát ngựa giống, thậm chí còn dám đá hậu mấy phát. Ngựa giống ra sức gọi ngựa cái. Trong đàn, trừ ngựa giống, chỉ ngựa cái là trầm tĩnh nhất, dũng cảm nhất trong việc bảo vệ ngựa con. Nghe tiếng gọi của chồng, ngựa cái vừa cắn vừa đá chạy về phía ngựa chồng. Ngựa giống hung hãn, ngựa cái dũng cảm đã nhanh chóng giữ vững trận thế trong lần hợp vây giữa sấm sét và sói, hơn nữa còn tập hợp được dòng tộc của mình. Tuy vậy, quá nửa đàn ngựa tan vỡ. Từng con sói như những quả ngư lôi dấy lên những đợt sóng trên hồ. Đàn sói hiếu sát giờ đây không coi các mã quan là cái đinh. Đèn pin không bằng ánh chớp; thòng lọng ném trong đêm rất khó trúng; mã quan gào thét đến rách họng cũng bị tiếng sấm át đi, mất toàn bộ bản lĩnh giữ nhà. Sau nửa tiếng đồng hồ, ngay cả người liên lạc với nhau còn khó. Batu sốt ruột phát đi tín hiệu với các mã quan, hét to: Đừng để ý hướng đông nam, tập trung toàn bộ đuổi theo đàn ngựa phía tây bắc! Đề phòng ngựa vượt biên! Mọi người chợt tỉnh, rẽ sang hướng tây bắc đuổi theo đàn ngựa. Sau chớp giật, những hạt mưa to tướng rơi lộp bộp, lúc này đàn ngựa đã chạy đến trảng cỏ, mưa nặng hạt khiến đàn muỗi không thể tham gia bữa tiệc máu. Tiếng sấm xa dần, ánh chớp khi ẩn khi hiện phía chân trời. Trận gió ào qua, Batu lại thấy sao trên trời. Batu hét to với đám mã quan: Chặn ngay đàn ngựa lại! Nhanh lên! Muỗi sắp xông ra bây giờ! Mã quan vội quất ngựa lao lên. Vào trận đã thắng khiến đàn sói nổi máu tham. Đàn sói một khi chộp đúng thời cơ, chúng khai thác bằng hết, mở rộng chiến quả lên cực đại. Đàn sói không chỉ sát hại những con ngựa chạy chậm hoặc lạc mẹ, mà còn sát hai cả những con ngựa hai ba tuổi. Đàn sói lúc đầu tác chiến cá nhân, sau liên kết bộ ba, cắn đứt động mạch cảnh, máu chảy như xối hạ gục từng con khiến đàn ngựa hoảng sợ chạy tan tác. Giữa lúc nguy cấp, bỗng có ba con ngựa chạy tới từ hướng đại đội, ánh đén loé lên, ba cậu mã quan đi ăn mảnh nửa đường thấy thời tiết thay đổi liền vội vã quay lại chặn được đàn ngựa không người khống chế. Đàn ngựa thấy có người và ánh đèn pin, chạy chậm lại. Batu và các mã quan chạy tới kẹp chặt hai bên, cuối cùng bắt đàn ngựa quay về. Tiếng sấm rất xa, chớp không còn nữa. Tiếng quát và ánh đèn của mã quan bắt đầu phát huy tác dụng dẫn dắt, kêu gọi đàn ngựa phân tán trở về. Các ngựa giống vươn dài cổ gọi gia tộc. Đàn ngựa chạy như bay về hướng nam, dọc đường, những binh si thất trận nghe tiếng người và ánh đèn pin lục tục nhập đàn. Ba bốn chục con ngựa giống cao to lừng lững tự động đứng xếp hàng trước đòn tấn công đàn sói hung thần ác quỷ, mặt ngựa đầu trâu. Đàn sói lập tức rút lui về phía đông nam như một cơn gió. Những con ngựa yếu, bị thương từ các phía chạy về đàn như gặp được cứu tinh, có nhiều con ngựa giống dẫn bầu đoàn sứt mẻ trở về. Trong đàn vang lên tiếng hí gọi con trai con gái, nhận cha nhận mẹ. Đàn ngựa tổ chức lại đội hình theo từng gia tộc trong khi hành tiến. Đàn sói rất có trật tự khi tạm thời rút lui. Chúng không vội ăn thịt những con mồi đã bị thương hoặc chết, mà tranh thủ lúc mã quan và ngựa giống chỉnh đốn đội ngũ, chia nhau truy sát tàn quân phía đông nam. Batu và vài mã quan đến trứoc đàn ngựa đếm ngựa giống, thấy thiều một phần ba chưa dắt đàn về. Batu vội phóng ra phía sau đàn ngựa lệnh cho bốn mã quan chia hai tổ nhẳm hướng đông nam mở rộng phạm vi thu dung, những mã quan còn lại cấp tốc dồn đàn ngựa cho chạy thật nhanh, Batu phân công Trương Kế Nguyên nhằm hướng đông nam đuổi theo đàn sói. Đàn sói từ phái tây bắc xuống, với tốc độ cao đuổi kịp đàn sói phía đông nam đang say sưa tàn sát. Một số tộc ngựa choai bị giết không còn một con. Sau khi hội sư, đàn sói bắt đầu giết ngựa già yếu bệnh tật. Người la ngựa hí phía tây bắc ngày càng gần, vậy mà đàn sói vẫn rất bình tĩnh xé thịt ăn. Trương Kế Nguyên thấy một mình không đuổi được đàn sói, đành quay về giúp đội ngũ dồn cừu. Thời tiết thảo nguyên và sói thảo nguyên hình như đang đợi thời cơ càng có lợi cho chúng. Giữa lúc các mã quan dồn đàn ngựa còn cách trạm gác chừng ba dặm, đàn muỗi trong đám cỏ ướt bay lên như làn khói đen của bộc phá, vây chặt đàn ngựa. Đàn muỗi độc nhất năm nay, hàng triệu cái vòi cắm vào mình ngựa. Đàn ngựa chưa kịp hoàn hồn sau khi bị sấm chớp và sói công kích, giờ náo loạn lên vì muỗi đốt. Lúc này hình phạt tàn khốc nặng nề nhất rơi lên đầu ngựa giống- thần hộ về của đàn ngựa. Ngựa giống xác to lông mỏng, da thịt nhăn nheo, cái đuôi bết máu tròn như gậy, giá trị sử dụng bằng con số không. Muỗi độc tập trung công kích ngựa giống, hơn nữa chuyên đốt mi mắt, bụng dưới, dương vật và bìu dái, những chỗ chí mạng. Ngựa giống bị đốt đến phát điên, mất cả lý trí và lòng trọng. Đúng lúc ấy gió nhẹ không thổi dạt được muỗi, đàn ngựa nảy ý chạy ngược gió để đuổi muỗi. Bị muỗi đốt không mở được mắt, những con ngựa giống chồm lên, bỏ mặc vợ con, chạy như điên. Phần lớn mã quan từ trảng cát đến không đội mũ chống muỗi. Đầu mặt cổ và tay muỗi bu đầy; mi sưng vù, mắt nheo lại như một sợi chỉ, mặt “béo” ra như đang sốt cao, môi sưng vều, rất đau khi chạm phải; ngón tay to ra, đến nỗi không cầm chắc cán thòng lọng. Ngựa đang cưỡi không nghe lời chủ, chốc chốc lại đá hậu, chốc chốc dừng lại không đi, cúi đầu cọ gối gãi ngữa, lúc chạy ngược gió như điên; lúc không cần biết trên lưng có người cưới, định lăn lộn dưới đất gãi ngứa giảm đau. Người ngựa hầu như mất sức chiến đấu, hoàn toàn tê liệt trước chiến thuật của đàn muỗi. Đàn ngựa chạy bạt mạng cũng không tác dụng, những con tản mát từ các hướng khác lại chuyển hướng, chạy như điên về phía tây bắc. Đàn muỗi đốt như điên, đàn ngựa chạy như điên, đàn sói giết như điên. Sấm sét, gió, muỗi, sói, các vấn nạn chụp lên đầu đi ngày càng chật, bên trái là núi, bên phải là trảng cát. Tham mưu Từ dùng ống nhòm phóng đại lớn sục sạo các bụi cỏ hai bên, chợt nói khẽ: Dốc bên trái có hai con sói! Rồi ra hiệu báo tin cho xe sau. Trần Trận cũng trông thấy hai con sói đang chạy chậm theo hướng tây, cách ba bốn dặm. Tham mưu Tự bảo tài Lưu: Đừng xộc thẳng vào, cứ chạy theo đường núi cùng chiều với chúng, giữ nguyên tốc độ cũ để bắn vào ức. Lão Lưu đáp gọn một tiếng: Rõ! Rồi cho xe chạy cùng hướng với sói và tăng dần tốc độ. Trần Trận chợt nhận ra vị xạ thủ đặc biệt này rất có kinh nghiệm thực tiễn. Xe chạy kiểu này vừa rút ngắn được khoảng cách, vừa làm cho sói lầm tưởng là xe qua đường, không săn đuổi chúng. Xe tuần tra đường biên kỷ luật rất nghiêm, để bảo đảm yếu tố kín đáo bất ngờ, cấm nổ súng nếu không phải trường hợp đặc biệt. Cho nên sói thảo nguyên Ơlôn không sợ khi gặp xe gíp. Lúc này xe chạy trên cỏ thấp, phía dưới là cát ẩm nên tiếng động không lớn, hai con sói vẫn chạy thủng thẳng, đôi lúc chúng dừng lại nhìn xe rồi mới chạy tiếp về phía tây, nhưng đường chạy đã bắt đầu chếch so với đường dọc theo chân núi. Trần Trận đoán ra ý đồ của sói: Nếu xe vẫn chạy theo chân núi thì chỉ là xe qua đường, sói vẫn chạy theo đường cũ và nới lỏng giám sát; nhưng nếu xe xộc thẳng vào thì chúng lập tức tăng tốc, vọt qua mỏm núi và biến mất, đừng hòng thấy lại chúng. Hai con sói chạy rất đúng bài bản. Sói Ơlôn biết tầm bắn có hiệu quả của súng săn. Ngoài tầm bắn, sói còn cố ý trêu chọc, thậm chí còn dụ người đi săn vào nơi nguy hiểm, xe dễ lật. Nếu gần đó có họ hàng, chũng sẽ dụ anh rẽ sang đường khác để sói bị đuổi thoát hiểm. Trận Trận thấy sói không tăng tốc thì lo, dự cảm có chuyện chẳng lành. Xe này không phải xe tuần tra biên phòng, chỉ là xe đi săn, trên xe có hai xạ thủ đặc biệt mà sói thảo nguyên chưa bao giờ gặp, họ có thể bắn trúng ở tầm bắn mà mục dân cho là không hiệu quả. Dần dà chiếc xe gíp chạy song song với hai con sói, khoảng cách từ một nghìn năm trăm mét rút ngắn chỉ còn bảy tám trăm mét. Hai con sói hình như hơi căng thẳng, lặng lẽ tăng tốc. Nhưng chiếc xe chạy bon bon quả thật làm hai con sói mê mẩn, mất sự cảnh giác cần thiết. Trần Trận thậm chí ngờ rằng chúng đang cố ý thu hút và làm chậm tốc độ của xe. Lúc này, hai vị xạ thủ đã gác nòng súng ra phía ngoài chuẩn bị bắn. Tim Trần Trận như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, cậu dán mắt vào các động tác của Tham mưu Từ, hi vọng đúng lúc lẩy cò thì xe dừng lại, có thể hai con sói sẽ thoát chết. Cuối cùng, xe chạy song song với hai con sói, khoảng cách chừng bốn năm trăm mét. Hai con sói bỗng dừng chạy liếc sang xe, chắc chúng đã trông thấy súng, thế là đột nhiên tăng tốc, con trước con sau nhằm mỏm núi chạy chéo lên. Cùng lúc, hai tiếng súng nổ vang “pằng”, “pằng”, hai con sói đồng thời ngã xuống. Bao Thuận Quý reo lên: Bắn giỏi quá! Giỏi như thần! Trần Trận toát mồ hôi lạnh- xe lắc lư mà hai phát trúng cả hai thì quả thật cậu và sói thảo nguyên không tưởng tượng nổi. Hai xạ thủ ngoại hạng chỉ coi đó là rượu khai vị. Hứng lên, Tham mưu Từ lệnh cho tài xế Lưu chạy nhanh vào trảng cát, ông ta giục: Mau lên! Rồi dùng hai tay ra hiệu cho xe sau phối hợp bao vây gọng kìm. Hai chiếc xe mở hết tốc lực rời con đường chạy lên mỏm núi bên phải. Tài Lưu theo sự chỉ dẫn của Tham mưu Từ vượt một mỏm núi, chạy xuống một trảng cát rộng, rồi chiếm nhanh một cao điểm. Tham mưu trưởng Từ chống tay đứng dậy nhìn lướt trảng cát thấy hai đàn sói đang chạy hai ngả theo hướng tây bắc và chính bắc. Trần Trận nhìn qua ống nhòm, đàn chính bắc có bốn năm con tương đối lớn; đàn tây bắc có bảy tám con, trừ ba con tương đối lớn, số còn lại tương đối nhỏ, là sói mới sinh hồi đầu năm. Tham mưu Từ bảo tài Lưu: Đuổi đàn chính bắc! Rồi ra hiệu cho xe sau chạy hướng tây bắc. Hai xe chia nhau chạy hai ngả. Cánh đồng bằng phẳng nửa cát nửa cỏ là chiến trường lý tưởng cho xe gíp quân sự phóng hết tốc độ. Tài Lưu nói to: Đề nghị nắm chắc tay vịn, tôi không dùng súng, tôi sẽ chẹt chết vài con! Xe phóng nhanh như bay, trong đầu Trần Trận loé lên cụm từ “tốc độ tử vong”. Trên thảo nguyên, chỉ dê vàng mới có tốc độ này, ngựa chiến, sói hoang có chạy nhanh hơn cũng không bằng. Xe gíp phóng về phía đàn sói với tốc độ tử thần, đuổi theo 20 phút liền, đàn sói từ bằng hạt vừng to dần lên bằng hạt đậu xanh, rồi bằng hạt đậu nành. Nhưng Tham mưu Từ vẫn chưa nổ súng. Trần Trận nghĩ, vị tham mưu trưởng này có thể bắn rớt chim ưng bằng hạt đậu xanh, sao bây giờ vẫn chưa động thủ? Bao Thuận Quý hỏi: Nổ súng được chưa? Tham mưu Từ nói: Xa thế này, nổ súng là chúng chạy tản mát. Gần chút nữa có thể bắn được hai con mà không hỏng bộ da. Tài Lưu phấn khởi, nói: Hôm nay mỗi người được chia một bộ da lớn thì tốt quá. Tham mưu Từ nẹt: Chú ý tay lái, lật xe là làm mồi cho sói. Tài Lưu không nói gì, tiếp tục tăng tốc, chiếc xe gíp băng lên. Nhưng vừa vượt một đụn cát, một bộ xương bò đồ sộ sừng sững chắn ngang như vật cản kỵ binh trên chiến trường xưa, đàn sói có thể phi thân vượt qua, nhưng xe gíp thì không thể. Tài Lưu giật mình quặt mạnh tay lái xe ngoặt gấp về bên trái, hai bánh bên phải bốc khỏi mặt đất, suýt lật. Người trên xe nhổm hết dậy, thiếu chút văng ra ngoài. Ai nấy sợ tái mặt. Trần Trận sợ khiếp vía khi thân xe quẹt ngang bộ xương, khi đã lấy lại thăng bằng mà cậu vẫn không hết run. Cậu hiểu bọn sói bắt đầu lợi dụng địa hình để rút lui. Chỉ một mẹo nhỏ, thiếu chút cả xe lẫn người đi tong. Bao Thuận Quý mặt trắng nhợt, hét: Chạy chậm lại! Tài Lưu vuốt mồ hôi trán, xe chậm lại tí chút, đàn sói lại bứt xa hơn. Tham mưu Từ trái lại, giục: Tăng tốc! Xe chạy vừa tốc độ như ý muốn, trước mặt đã hiện ra những khóm cỏ rối bời. Trần Trận từng chăn cừu ở đây nên rất có ấn tượng về địa hình, cậu hét to: Trước mặt là đầm lầy, toàn những mô đất lởm chởm rất dễ lật xe, giảm tốc ngay! Nhưng Tham mưu Từ không thèm để