ếu tôi không thay đổi quyết định vào tối hôm đó, tôi sẽ không bao giờ biết được sự thật. Tôi không thể tin Carla đã ngủ với một thằng đàn ông khác, rằng tình yêu của cô ta là lừa dối, và rằng tôi có thể chỉ là thằng thứ hai, thậm chí là thứ ba trong danh sách người tình của cô ta. Carla đã gọi điện đến văn phòng của tôi suốt hôm đó – điều tôi nhắc cô ta đừng làm, đến khi tôi cảnh báo cũng đừng gọi cho tôi về nhà riêng thì cô ta không có sự lựa chọn nào khác. Hôm đó, hóa ra tất cả chỉ là cô ta muốn cho tôi biết không thể tuân theo yêu cầu của tôi như một người Pháp lịch thiệp. Cô ta giải thích là phải đi thăm chị gái bị ốm tại Fulham. Tôi đã rất thất vọng. Đó là một ngày đầy áp lực, và bây giờ, tôi đang bị yêu cầu phải bỏ đi điều khả dĩ giúp tôi chịu được. “Anh nghĩ là em không hợp với người chị gái kia đấy,” Tôi nói chua chát. Không có câu trả lời ngay. Cuối cùng, Carla nói, “Chúng ta sẽ làm điều đó vào thứ ba tới như thường lệ được không?” “Anh không biết liệu có thuận tiện không,” Tôi nói. “Anh sẽ gọi cho em vào thứ hai khi anh biết kế hoạch của mình.” Và tôi cúp máy. Buồn chán, tôi gọi điện cho vợ biết mình đang trên đường về nhà – thỉnh thoảng tôi làm vậy từ một hộp điện thoại bên ngoài căn hộ của Carla. Đó là mẹo tôi thường dùng để Elizabeth cảm thấy cô ấy biết tất cả những nơi tôi đến trong ngày. Hầu hết các nhân viên văn phòng đã ra về, vậy nên tôi thu gom một ít tài liệu để có thể mang về làm ở nhà. Từ hơn sáu tháng trước khi công ty mới nhận chúng tôi vào làm, người quản lý đã không chỉ sa thải đồng nghiệp thứ hai của tôi ở phòng kế toán mà còn muốn tôi bao nốt công việc của anh ta. Tôi hầu như không có quyền than phiền bởi ông chủ nói rất rõ ràng là nếu không thích sự sắp xếp đó, tôi có thể tự do tìm kiếm một công việc mới ở bất cứ nơi nào. Tôi lẽ ra cũng làm như vậy đấy, nhưng tìm đâu cho ra những hãng sẵn lòng tuyển một người đàn ông trung tuổi năng lực cũng vừa phải mà thôi. Lái xe ra khỏi bãi đỗ xe của công ty vào đúng tầm cao điểm buổi chiều, tôi bắt đầu thấy hối tiếc vì đã gay gắt như vậy với Carla. Suy cho cùng, Carla cũng thích thú gì với vai trò của mình. Cái cảm giác có lỗi cứ ám ảnh nên khi tới góc đường quảng trường Sloane, tôi chạy ra khỏi xe và băng ngang qua đường. “Cho tôi mười hai bong hồng.” Tôi nói, lóng ngóng với chiếc ví của mình. Một người đàn ông chắc chắn đã thu được lợi từ người tình khi chọn mười hai bong hồng đem tặng mà khỏi cần phải nói gì. Cách làm của tôi không phải là cách giải quyết tốt nhất nhưng ít ra thì Carla cũng biết là tôi đã cố gắng. Tôi lái xe về hướng căn hộ của Carla, hy vọng cô ấy chưa rời nhà đi thăm chị gái. Và có lẽ chúng tôi còn đủ thời gian để làm một ly. Sau đó, tôi nhớ ra mình đã nói với vợ là đang trên đường trở về nhà. Một vài phút chậm trễ có thể giải thích là do tắc đường, nhưng lời xin lỗi đó sẽ khó có sức thuyết phục nếu ở lại uống rượu. Khi tôi đến nhà Carla, như thường lệ lại gặp phải khó khăn khi tìm chỗ để xe cho đến khi thấy được một khoảng trống đủ chỗ cho chiếc Rover, đối diện với một quầy văn phòng phẩm. Tôi dừng lại và sẽ lùi xe vào khoảng trống đó nếu không nhìn thấy một người đàn ông đang đi ra từ lối cửa căn hộ của Carla. Tôi không hề có một thoáng suy nghĩ rằng Carla đi theo ngay sau anh ta. Cô ấy đứng ngay ở cửa, mặc một chiếc áo ở nhà lùng thùng, nghiêng người về phía trước trao cho người khách sắp khởi hành một cái hôn mà khó có thể miêu tả như tình cảm anh em. Khi cô ta đóng cửa, tôi lái chiếc xe của mình đến góc đường và dừng cạnh một chiếc xe khác. Tôi dõi theo người đàn ông qua chiếc gương chiếu hậu khi anh ta băng ngang qua đường, đi vào một cửa hiệu bán báo. Một lúc sau, anh ta lại xuất hiện với một tờ báo buổi chiều và một cái gì đó trông giống như một hộp thuốc lá. Anh ta rảo bước về phía chiếc xe ô tô của mình, một chiếc BMW màu xanh, dừng lại, giật một chiếc vé phạt đỗ xe từ tấm kính chắn gió và bật chửi. Chiếc xe BMW này đã ở đó bao lâu rồi nhỉ. Tôi bắt đầu phân vân liệu là hắn ta có ở cùng Carla khi cô ta gọi điện cho tôi nói tôi đừng đến. Người đàn ông trèo lên chiếc xe BMW, nhanh chóng thắt dây an toàn và châm một điếu thuốc trước khi lái xe đi. Tôi coi tiền phạt đỗ xe của hắn như một khoản đền bù cho người đàn bà của tôi. Tôi không cho đó là một sự trao đổi đẹp đẽ gì. Tôi kiểm tra ngang dọc đường phố – tôi luôn làm điều đó – trước khi bước xuống xe và đi về phía căn hộ. Trời thực sự tối và không có ai liếc nhìn tôi. Tôi ấn chiếc chuông mang dấu ‘Moorland’. Carla mở cửa trước, với một nụ cười rộng mở nhưng nó nhanh chóng biến thành cái cau mày, rồi lại nhanh chóng trở lại nụ cười. Nụ cười thứ nhất chắc chắn là dành cho người đàn ông có chiếc BMW. Tôi thường tự hỏi tại sao cô ta lại không đưa cho tôi chìa khóa cửa trước. Tôi nhìn chằm chằm vào đôi mắt màu xanh đã làm say đắm tôi ngay lần đầu tiên cách đây nhiều tháng trước. Dù đang mỉn cười, đôi mắt cô ta giờ đây để lộ ra sự lạnh lùng mà tôi chưa từng thấy trước đó. Cô ta đóng cửa và mời tôi vào tầng trệt của căn hộ. Tôi nhận thấy dưới lần áo mặc ở nhà, Carla mặc chiếc áo ngủ mà tôi tặng cô ta nhân dịp Noel. Từ lúc vào trong căn hộ, tôi nhận thấy mình bất giác đang săm soi khắp căn phòng mà tôi đã biết quá rõ. Trên mặt bàn kính ở chính giữa gian phòng, chiếc tách cà phê ‘Snoopy’ tôi vẫn thường dùng rỗng không. Bên cạnh nó là tách của Carla, cũng rỗng không, và mười hai bông hồng được cắm trong một chiếc lọ. Những nụ hoa vừa hé mở. Tôi rất dễ nổi nóng và những bông hồng đẹp mắt khiến tôi không thể giấu được sự giận dữ. “Người đàn ông nào mới đi ra đó?” Tôi hỏi. “Một người môi giới bảo hiểm,” Carla trả lời, dọn đi những cái tách trên bàn. “Vậy anh ta bảo hiểm cái gì?” Tôi hỏi. “Tình yêu của em hả?” “Tại sao anh lại cho là anh ta là người tình của tôi?” Cô ta bắt đầu lớn tiếng. “Cô thường uống cà phê với người môi giới bảo hiểm trong một cái áo ngủ hả? Cô nghĩ xem nào, chiếc áo ngủ của tôi.” “Tôi sẽ uống cà phê với bất cứ ai tôi thích,” Cô ta nói, “và mặc bất cứ cái gì mà tôi thích, đặc biệt là khi anh đang trên đường về nhà với vợ anh.” “Nhưng anh đã muốn đến với em…” “Và sau đó trở về với vợ anh. Anh chẳng đã thường xuyên bảo rằng tôi nên tự lo cho cuộc sống của mình và đừng có trông cậy vào anh,” Cô ta thêm, thứ luận điệu cô ta thường viện dẫn khi có điều muốn che giấu. “Em biết điều đó không dễ dàng mà.” “Tôi biết nó dễ dàng để anh nhẩy vào giường của tôi bất cứ khi nào tiện cho anh. Tôi chỉ tốt cho điều đó thôi, phải không?” “Điều đó không công bằng.” “Không công bằng? Không phải anh đang kì vọng ở trên giường lúc sáu giờ để vẫn ở nhà lúc bẩy giờ đúng lúc bữa ăn tối với Elizabeth à?” “Tôi đã không làm tình với vợ tôi hàng năm rồi!” Tôi la lớn. “Chúng ta chỉ nghe thấy điều đó do anh nói mà thôi,” Cô ta phun ra khinh rẻ. “Anh đã tuyệt đối chân thành với em.” “Điều đó có nghĩa là tôi phải luôn luôn có ở bên anh, phải không?” “Đừng có cư xử như một con điếm vậy.” Đôi mắt của Carla quắc sáng khi cô ta lao vào và tát vào mặt tôi, dồn tất cả sức mạnh. Tôi vẫn còn hơi choáng váng khi cô ta giơ cánh tay lên một lần nữa về phía tôi, nhưng khi nó lao tới, tôi nắm lấy và thậm chí còn đẩy cô ta lùi vào bệ lò sưởi. Cô ta nhanh chóng lấy lại thăng bằng và lại lao về phía tôi một lần nữa. Trong lúc đang điên tiết không thể điều khiển nổi mình, đúng lúc cô ta lao về phía tôi, tôi nắm chặt tay và cho cô ta một quả đấm. Tôi tóm dưới cằm cô ta và đẩy mạnh cô ta về phía sau. Tôi thấy cô ta chống tay để khỏi ngã. Nhưng trước khi cô ta có thể lao về phía tôi để trả miếng, tôi quay người và bước ra khỏi phòng, đóng sầm cánh cửa sau lưng. Tôi chạy xuống dọc tiền sảnh, băng qua đường, nhẩy vào xe và nhanh chóng phóng đi. Tôi đã không thể ở với Carla hơn mười phút. Dù vậy, ngay khi chưa về đến nhà, tôi đã thấy hối hận và cảm thấy giống như một kẻ giết người khi tôi đám cô ta. Hai lần tôi đã suýt quay lại, nhưng tất cả những điều cô ta oán thán đều đúng cả. Tôi tự hỏi liệu mình có dám gọi điện cho cô ta từ nhà không, mặc dù Carla và tôi chỉ là nhân tình trong vài tháng, nhưng cô ta chắc chắn phải biết là tôi quan tâm đến cô ấy nhường nào. Dù Elizabeth có ý định phàn nàn về việc tôi về muộn thì cũng đổi ý ngay khi tôi trao tặng cô ấy những bông hồng. Cô ấy cắm hoa vào lọ trong khi tôi tự rót cho mình một cốc lớn uýtsky. Tôi chờ cô ấy nói điều gì đó vì hiếm khi tôi uống rượu trước bữa tối, nhưng cô ấy dường như đang bận tâm với những bông hoa. Mặc dù tôi đã định gọi điện cho Carla và cố gắng đền bù lại, nhưng tôi lại quyết định không làm điều đó ở nhà. Dù sao thì nếu tôi đợi đến sáng mai, khi tôi trên đường đến sở làm, Carla có thể đã trấn tĩnh được đôi chút. Tôi thức dậy sớm vào ngày hôm sau và nằm trên giường, suy tính xem tôi nên xin lỗi Carla bằng cách nào. Tôi quyết định mời cô ta ăn trưa tại một quán rượu nhỏ của Pháp mà cô rất thích, nằm giữa trục đường từ sở làm của tôi đến chỗ cô ấy. Carla luôn luôn đánh giá cao khi gặp tôi vào tầm trưa, quãng thời gian mà cô biết không thể dành cho việc làm tình. Sau khi tôi cạo râu và mặc quần áo, tôi cùng với Elizabeth ăn sáng, và tìm xem có gì đáng chú ý trên mặt báo không. Tôi lật tới mục tài chính, cô phiếu của các công ty lại đang giảm giá một lần nữa, người dự báo mục tài chính cho rằng đó chỉ là sự sụt giảm lợi nhuận tạm thời. Sau các mẩu tin tồi tệ này, chắc chắn hàng triệu bạc sẽ tuột khỏi túi tiền lương của chúng tôi. Tôi thừa biết khi những sự đánh giá bất thường đã được in trên báo, sẽ là phép màu nếu công ty không tuyên bố về một sự thiếu hụt. Sau khi uống xong tách cà phê thứ hai, tôi hôn vào má vợ và đi ra xe. Đó là lúc tôi quyết định viết vài dòng rồi thả vào thùng thư của Carla hơn là ngượng nghịu đối mặt qua một cuộc điện thoại. “Hãy tha lỗi cho anh,” Tôi viết. “Nhà hàng Marcel Sole Véronique, thứ sáu, một giờ. Tình yêu của em, Casaneva.” Tôi hiếm khi viết cho Carla, và khi tôi làm vậy, tôi chỉ ký cái biệt danh mà cô ấy đã chọn cho tôi. Tôi đi vòng một quãng ngắn để có thể ngang qua nhà cô ta nhưng đường đã bị tắc. Khi đến gần chỗ căn hộ, tôi mới rõ nguyên nhân tắc đường là do một tai nạn. Có vẻ khá nghiêm trọng, bởi xe cứu thương chắn hết cả con đường và làm dồn đống dòng xe cộ đang chạy tới. Một giám sát viên giao thông đang cố cứu gỡ tình thế nhưng chỉ làm cho ách tắc thêm mà thôi. Hiển nhiên không thể đỗ xe ở một nơi nào gần căn hộ của Carla, nên tôi định đành sẽ gọi điện cho Carla khi tôi tới sở làm. Tôi thực không thích viễn cảnh đó. Một lúc sau, tôi cảm thấy nôn nao khi nhìn thấy xe cứu thương chỉ đỗ cách cửa trước ngôi nhà Carla vài mét. Tôi biết mình đang suy nghĩ điều phi lý nhưng tôi bắt đầu lo sợ điều xấu nhất. Tôi cố gắng thuyết phục mình đó chỉ là một tai nạn trên đường bình thường và không có liên quan gì đến Carla. Sau đó, tôi nhận thấy có xe cảnh sát đỗ đằng sau xe cứu thương. Khi tôi tiến tới ngang hàng với hai chiếc xe khác, tôi trông thấy cửa trước nhà Carla mở toang. Một người đàn ông trong chiếc áo blu trắng chạy hối hả ra ngoài và mở cửa sau xe cứu thương. Tôi dừng xe lại để quan sát kỹ hơn cái gì đang diễn ra, hy vọng người lái phía sau tôi không trở nên nôn nóng. Những người lái xe từ luồng khác giơ tay lên cám ơn tôi cho phép họ vượt qua. Tôi nghĩ mình có thể cho cả ta hoặc tất cả vượt qua trước khi có ai đó bắt đầu than phiền. Người giám sát giao thông giúp đỡ tôi bằng cách thúc giục họ vượt qua. Rồi một chiếc cáng xuất hiện ở cuối hành lang. hai nhân viên mặc đồng phục khiêng một người được phủ kín mặt đi ra ngoài đường và đưa chiếc cáng vào đằng sau xe cứu thương. Tôi không thể nhìn thấy mặt người trên cáng vì nó bị phủ một tấm khăn, nhưng người thứ ba, chỉ có thể là nhân viên điều tra, đi tiếp ngay đằng sau chiếc cáng. Ông ta cầm một chiếc túi nhựa, tôi có thể nhìn thấy bên trong đựng chiếc áo màu đỏ mà tôi e rằng đó chính là chiếc áo ngủ tôi đã tặng Carla. Tôi nôn cả bữa sáng ra chiếc ghế sau, rồi gục đầu lên vô lăng. Một lúc sau, người ra đóng cửa xe cứu thương, tiếng còi bắt đầu cất lên và người giám sát giao thông liền vẫy tôi tiến lên. Chiếc xe cứu thương nhanh chóng đi khỏi và người lái xe đằng sau tôi bắt đầu bóp còi. Rốt cuộc, chỉ có anh ta là người vô tội phải ngồi yên. Tôi lảo đảo tiến về phía trước và sau đó không thể nhớ được những gì đã xảy ra trên đường đến sở làm. Khi tới được chỗ đỗ xe của văn phòng, tôi lau chùi một cách tương đối đống hỗn độn ở ghế sau và mở cửa sổ xe trước khi đi thang máy lên phòng rửa mặt ở tầng bẩy. Tôi xé nát tờ giấy mời Carla đi ăn trưa thành những mảnh nhỏ và vứt chúng vào bồn cầu, xả nước. Tôi lên phòng mình ở tầng mười hai sáu tám rưỡi một lúc và thấy ông giám đốc điều hành đang diễu đi diễu lại trước bàn của tôi, rõ ràng là đang đợi tôi. Tôi quên bẵng đi mất ngày hôm nay là thứ sau và ông ta luôn chờ những bản báo cáo tính toán đã xong xuôi để ông ta nghiên cứu. Hóa ra thứ sáu này ông ta lại muốn có luôn những kế hoạch tài chính cho các tháng năm, sáu và tháng bẩy. Tôi hứa rằng chúng sẽ ở trên bàn của ông ta vào giữa ngày. Điều tôi cần bây giờ là một buổi sáng không phải suy nghĩ gì nhưng tôi đã không có được điều đó. Hễ có tiếng chuông điện thoại reo, cánh cửa bật mở hoặc thậm chí có ai đó nói về tôi, tim tôi đều như thót lại. Tôi cứ cho đó chỉ có thể là cảnh sát. Đến trưa, tôi đã hoàn thành một số báo cáo cho giám đốc điều hành, nhưng tôi biết chắc ông ta sẽ thấy nó không đầy đủ và chính xác. Ngay sau khi gửi tập báo cáo cho thư ký của ông ta, tôi rời đi ăn trưa. Tôi không thể nuốt được, nhưng dù sao cũng tìm xem được tờ báo Standard vừa phát hành và tìm kiếm bất cứ thông tin gì về cái chết của Carla. Tôi ngồi trong góc quầy căn tin nội bộ, nơi sẽ không bị nhìn thấy từ sau bar. Một cốc nước cà chua đặt bên cạnh và tôi bắt đầu chậm chạp giở từng trang của tờ báo. Tin tức về cái chết của Carla không có ở trang thứ nhất, không có ở trang thứ hai, thứ ba và cả trang thứ tư. Và ở trang thứ năm, có một mẩu tin nhỏ: “Cô Carla Moorland, 31 tuổi, được phát hiện đã chết tại nhà của cô ở Pimlico sáng sớm ngày hôm nay.” Lúc đó ôi còn nhớ là đã nghĩ thậm chí họ còn viết sai tuổi của cô ấy. “Thanh tra Simmons, người chịu trách nhiệm điều tra vụ án này, cho biết công việc điều tra đã được triển khai và họ đang chờ đợi bản báo cáo pháp y nhưng cho tới lúc này, họ thấy không có lí do gì để nghi ngờ là đã có hành động bạo lực”. Sau mẩu tin tức đó, tôi đã cố gắng ăn được một ít súp và bánh mỳ. Khi đọc mẩu tin đó lần thứ hai, tôi quay về bãi đỗ xe của công ty và ngòi lại ở trong xe. Tôi kéo cánh cửa cho không khí trong lành ùa vào trước khi bật radio, chương trình “World At One”. Cái chết của Carla chưa được đưa tin. Cái chết của một phụ tá 32 tuổi trong ngành công nghiệp đã không được đài BBC thông báo trong mục những cái chết do bị bắn, ma túy, aisd hay là một vụ cướp đồ kim hoàn. Tôi quay trở lại văn phòng và thấy trên bàn mình một tờ giấy chứa một loạt những câu hỏi của ông giám đốc điều hành. Không nghi ngờ gì ông ta đã thấy lỗi của bản báo cáo. Tôi đã giải quyết gần như toàn bộ số câu hỏi và đưa lại bản trả lời cho thư ký của ông ta trước khi rời khỏi căn phòng tối đó. Hầu hết thời gian của buổi chiều, tôi cố gắng tự thuyết phục mình rằng bất cứ nguyên nhân gì gây nên cái chết của Carla chắc chắn là xẩy ra sau khi tôi rời khỏi chỗ cô ta và nó không thể liên quan đến việc tôi đã đánh cô ta. Nhưng cái áo ngủ màu đỏ cứ ám ảnh ý nghĩ của tôi. Nó có làm cảnh sát truy nguyên ra tôi không? Tôi đã mua nó tại Harrods – một khoản chi xa hoa, tôi cảm thấy nó không thể là cái độc nhất được và đó vẫn là một món quà đáng kể duy nhất tôi từng tặng Carla. Những bức thư ngắn tôi viết cho Carla – Carla đã hủy nó chưa? Cảnh sát có phát hiện ra ai là Casaneva không? Tôi lái xe về thẳng nhà tối hôm đó, biết rằng mình sẽ không bao giờ còn có dịp đi qua con phố mà Carla đã ở nữa. Tôi lắng nghe đoạn cuối của chương trình buổi chiều trên cái radio trong xe, và ngay khi về tới nhà tôi bật ngay chương trình tin tức lúc 6 giờ. Tôi chuyển sang kênh 4 lúc bẩy giờ và trở lại đài BBC lúc 9 giờ. Tôi bật sang ITV lúc mười giờ và thậm chí đợi xem hết chương trình bản tin tối. Cái chết của Carla, đối với Ban biên tập của chương trình, chắc chắn là không quan trọng bằng kết quả bóng đá lượt ba giữa Reading và Walsall. Elizabeth còn đang mải đọc cuốn sách cuối cùng mượn từ thư viện nên cũng chẳng để ý gì đến tình trạng nguy khốn có thể xảy ra đến với tôi. Tôi đó, tôi ngủ chập chờn. Sáng hôm sau, ngay khi nghe thấy những tờ báo được vứt vào thùng thư, tôi chạy xuống tầng và kiểm tra những dòng tít. “DUKAKIS ĐƯỢC GIỚI THIỆU TRANH CỬ” đập ngay vào mắt tôi ở trang đầu của tờ Thời báo. Tôi băn khoăn, rõ ràng là không thích hợp nếu ông ta được làm bầu làm tổng thống. “Tổng thống Dukakis” làm tôi nghe không thấy hợp lý chút nào. Tôi nhặt tờ Diễn đàn hàng ngày của vợ tôi và một đề mục chiếm toàn bộ đầu trang báo: “GIẾT CHẾT NGƯỜI TÌNH VÌ XÍCH MÍCH”. Chân của tôi run lẩy bẩy, tôi khuỵu xuống. Chắc chắn trông tôi rất khác thường khi quỳ trên sàn nhà, cố gắng đọc mẩu tin này. Nhưng tôi không thể đọc được chữ nào trong đoạn tiếp sau vì không có kính. Tôi suýt ngã mấy lền khi trèo trở lại lên tầng với tờ báo và chộp lấy cặp kính trên bàn cạnh giường ngủ. Elizabeth vẫn ngủ ngon lành. Dù vậy, tôi vẫn chui vào phòng tắm và khóa cửa để có thể đọc đoạn tin một cách từ từ mà không sợ bị cắt ngang. “Cảnh sát đang điều tra vụ án về cái chết của cô thư ký xinh đẹp, Carla Moorland, 32 tuổi, được tìm thấy đã chết tại nhà riêng sáng sớm ngày hôm qua. Thanh tra Simmon của Scotland Yard, người chịu trách nhiệm điều tra, ban đầu cho rằng cái chết của Carla Moorland là do nguyên nhân đột tử, nhưng phim chụp X-quang cho thấy một xương quai hàm bị vỡ, có thể là hậu quả của một vụ đánh lộn. Cuộc điều tra sẽ được tiến hành vào thứ tư, ngày 19 tháng này. Người giúp việc của cổ Moorland, Maria Lucia, 48 tuổi, - theo phỏng vấn giêng của báo Diễn đàn- cho biết bà chủ của mình đã ở với bạn trai khi cô rời khỏi căn hộ vào lúc 5 giờ chiếu hoom đó. Một nhân chứng khác, bà Rita Johnson, người sống sát cạnh căn hộ, nói rằng bà ta nhìn thấy một người đàn ông rời khỏi căn hộ của cô Moorland vào tầm khoảng 6 giờ, trước khi đi vào quầy báo đối diện căn hộ rồi sau đó lái xe đi. Bà Johnson nói thêm không chắc đã nhận ra chiếc xe nhưng có thể đó là một chiếc Rover…” “Ôi, Chúa ơi!” Tôi kêu to đến độ lo rằng nó có thể sẽ đánh thức Elizabeth. Tôi cạo râu và tắm qua loa, cố gắng suy nghĩ xem mình sẽ phải làm gì. Tôi mặc xong quần áo và sẵn sàng rời khỏi nhà đi làm trước cả khi vợi tôi tỉnh giấc. Tôi hôn vào má Elizabeth nhưng cô ấy chỉ trở mình, tôi ghi nguệch ngọa vài chữ và đểnó lên giường bên cạnh cô ấy, giải thích rằng tôi phải đi sớm đến văn phòng vì có một báo cáo quan trọng cần hoàn thành sáng hôm đó. Trên đường tới nơi làm việc tôi nhẩm lại chính xác những điều tôi sẽ nói. Tôi nhẩm đi nhẩm lại. Tôi đến tầng mười hai trước tám giờ một chút và mở rộng cửa sổ để có thể nhận ra bất cứ sự xâm nhập nào khác dù nhỏ nhất. Tôi tin chắc rằng mình sẽ không bị làm phiền trong mười lăm, thậm chí hai mươi phút trước khi có ai đó đến được chỗ làm việc. Một lần nữa, tôi nhẩm lại chính xác những gì tôi cần nói. Tôi tìm thấy số điện thoại đó trong cuốn danh bạ điện thoại và viết vội nó vào một tờ giấy trước mặt trước khi viết hoa năm đề mục, đó là những việc tôi thường làm trước mỗi buổi gặp quan trọng. BẾN XE BUÝT ÁO KHOÁC SỐ 19 BMW VÉ Sau đó tôi quay số. Tôi tháo đồng hồ và để nó xuống trước mặt mình. Tôi đã đọc được ở đâu đó rằng nơi của cuộc gọi đến có thể được truy ra trong khoảng 3 phút. Một giọng phụ nữ cất lên, “Scotland Yard đây.” “Xin cho gặp thanh tra Simmons,” tôi chỉ nói vậy. “Tôi có thể hỏi ai ở đầu dây không?” “Không, tôi không muốn nói tên mình.” “Vâng, dĩ nhiên, thưa ông,” cô ta nói, hiển nhiên là cô thường nhận những cuộc gọi như vây. Một tiếng chuông khác reo lên. Miệng của tôi chợt khô lại khi một giọng đàn ông cất lên “Simmons đây”, đây là lần đầu tiên tôi nghe viên thanh tra đó nói. Tôi ngạc nhiên nhận thấy ông ta có cái tên đặc Anh mà lại phát âm đặc thổ ngữ vùng Glawey. “Tôi có thể giúp gì?” ông ta hỏi. “Không, nhưng tôi nghĩ tôi có thể giúp ông,” tôi nói với thanh âm trầm, diễn đạt sao cho khác với giọng nói của tôi lúc bình thường. “Ông có thể giúp gì tôi, thưa ông?” “Ông có phải là viên thanh tra chịu trách nhiệm điều tra trong vụ án của cô gái hình như có tên là Carla?” “Vâng, là tôi. Nhưng ông có thể giúp gì vậy?” ông ta nhắc lại. Một phút trôi qua. “Tôi nhìn thấy một người đàn ông rời khỏi căn hộ của cô ta tối hôm đó.” “Lúc đó ông đang ở đâu?” “Tại chỗ đỗ xe buýt cùng bên này đường.” “Ông có thể miêu tả cho tôi người đàn ông đó được không?” Giọng nói của Simmons bất chợt hạ xuống như tôi. “Cao. Tôi cho là khỏng 5,11 đến 6 futs. Khổ người đậm. Mặc một chiếc áo khoác sang trọng theo kiểu một doanh nhân – ông cũng biết, đó là một chiếc áo đen, cổ nhung mềm.” “Làm sao ông có thể chắc chắn như thế về chiếc áo khoác?” Viên thanh tra hỏi. “Đứng ở bến chờ xe rất lạnh nên tôi ước mình được mặc chiếc áo ấy.” “Ông có nhớ kỹ về những gì đã xảy ra sau khi anh ta rời khỏi căn hộ không?” “Chỉ là anh ta đi vào quầy báo đối diện căn hộ trước khi vào xe và phóng đi.” “Vâng, chúng tôi đã biết rõ về điều đó,” Viên thanh tra nói. “Tôi cho là ông không nhớ đó là chiếc xe hiệu gì?” Bây giờ, hai phút đã trôi qua và tôi bắt đầu nhìn chiếc đồng hồ cẩn thận. “Tôi nghĩ đó là một chiếc BMW,” Tôi nói. “Ông có nhớ nó màu gì không?” “Không, trời quá tối.” Tôi tạm dừng. “Nhưng tôi nhìn thấy anh ta xé chiếc vé phạt đỗ xe khỏi kính chắn gió, như vậy sẽ không khó khăn để ông tìm ra dấu vết của anh ta.” “Và những điều đó diễn ra lúc nào?” “Quãng tầm sáu giờ mười lăm đến sáu giờ ba mươi, thưa ông thanh tra.” Tôi nói. “Và anh có thể nói cho tôi…?” Hai phút năm mươi tám giây. Tôi dập ống nghe xuống. Toàn thân toát mồ hôi. “Rất vui được gặp anh ở văn phòng vào sáng thứ bẩy,” Ông giám đốc điều hành nói dứt khoát khi ông ta đi qua phòng tôi. “Ngay khi anh kết thúc bất cứ việc gì anh đang làm, tôi muốn nói vài điều với anh.” Tôi rời khỏi bàn làm việc và theo ông ta đi dọc hành lang vào văn phòng của ông. Ông ta xem xét kỹ lưỡng những tính toán kế hoạch tài chính của tôi trong một giờ sau đó, nhưng dù có cố gắng thế nào, tôi cũng không thể tập trung được. Không lâu sau, ông ta dừng lại cố gắng che dấu sự khó chịu của mình. “Anh có điều gì đó phải không?” ông ta hỏi khi gấp tập tài liệu lại. “Anh dường như đang lo lắng.” “Không,” Tôi chối, “chỉ vì tôi làm việc ngoài giờ quá nhiều gần đây thôi,” và tôi đứng lên rời khỏi đó. Khi quay trở lại pòng mình, tôi đốt mảnh giấy đã viết năm cái đề mục rồi ra về. Trong số ra đầu của báo buổi chiều, câu chuyện “Xích mích với người tình” đã chuyển xuống trang thứ bẩy. Họ không có gì thêm để thông báo. Thời gian còn lại của ngày thứ bẩy đó dường như vô tận, nhưng tờ Diễn đàn chủ nhật của vợ tôi cuối cùng đã làm giảm bớt sự lo lắng của tôi. Theo như thông tin mới nhận được trong vụ án Carla Moorland, vì xích mích đã giết chết người tình, một người đàn ông đang giúp đỡ cảnh sát trong cuộc điều tra.” Tôi đã đọc những tin tức cũ rích đó thường xuyên trong những ngày qua, giờ đây nó chợt có ý nghĩa thực sự. Tôi sục tìm những tờ báo chủ nhật khác, nghe mọi thông cáo và xem mọi mục tin tức trên ti vi. Khi vợ tôi bắ đầu thấy tò mò về việc đó, tôi giải thích rằng có tin đồn nói là công ty bị ai đó tiếp quản, điều đó có nghĩa là tôi có thể bị mất việc. Váo sáng ngày thứ hai, tờ Diễn đàng hàng ngày đã có tên của người đàn ông trong vụ án “Giết chết người tình vì xích mích.” Đó là PaulMenzies, 51 tuổi, một nhân viên môi giới bảo hiểm ở Sulton. Vợ anh ta đang nằm điều trị ở bệnh viện tại Epsom trong khi anh ba bị bắt giam tại nhà tù Brixton. Tôi bắt đầu phân vân liệu gã Menzies đó có nói với Carla về vợ gã và biệt danh của gã là gì. Tôi rót cho mình một tách cà phê đen đặc và đi đến văn phòng. Cuối buổi sáng hôm đó Menzies xuất hiện trước quan tòa tại tòa án Horseferry Road, tuyên bố chịu trách nhiệm về cái chết của Carla. Cánh sát đã thành công trong việc phản đối việc bảo lãnh, tờ Standard tái khẳng định cho tôi điều đó. Tôi được biết rằng vụ án giết người đó để được đưa ra xét xử ở tòa án thì cần đến sáu tháng. Paul Menzies đã trải qua từng ấy tháng tạm giam ở nhà tù Brixton. Cũng từng ấy thời gian tôi sống trong sợ hãi với mọi tiếng chuông điện thoại, mọi tiếng gõ cửa, mọi vị khách không mời. Những điều đó tạo ra các cơn ác mộng cho tôi. Những người không có tội lỗi không hình dung được hàng ngày có biết bao sự cố xảy ra. Tôi vẫn làm việc hết mức tôi có thể, và thường băn khoăn liệu Menzies có biết mối quan hệ của tôi với Carla, anh ta có biết tên tôi không, thậm chí có biết đến sự tồn tại của tôi không. Chắc là phải hai tháng trước khi phiên tòa xét xử bắt đầu, công ty của tôi tổ chức cuộc họp toàn thể thường niên. Cuộc họp sẽ xem xét các khoản thu chi, nhiệm vụ của tôi là làm các báo cáo để mọi người biết là chúng tôi đã sử dụng lợi nhuận như thể nào. Chúng tôi chắc chắn không thể trả cổ tức cho các cổ đông trong năm đó. Tôi rời khỏi cuộc họp như trút được gánh nặng, gần như tỏ ra phấn khởi. Sáu tháng đã trôi qua từ sau cái chết của Carla và không có bất cứ sự việc bất ngờ gì xẩy ra trong suốt thời gian đó để có ai có thể nghi ngờ tôi biết Carla, huống chi là nguyên nhân thực gây ra cái chết của cô ta. Tôi vẫn cảm thấy có tội trong cái chết của Carla, thậm chí còn rất nhớ cô ta. Nhưng sau sáu tháng, giờ đây cả ngày tôi không còn sợ hãi gì nữa. Thật là kỳ lạ, tôi không thấy có tội đối với cảnh ngộ khốn khổ của Menzies. Rốt cuộc, anh ta chỉ là công cụ giúp tôi tránh khỏi nhà tù. Vì vây, khi tai họa đến nó gây hậu quả gấp đôi. Đó là vào ngày 26, tháng Tám – Tôi sẽ không bao giờ quên được cái ngày đó – khi tôi nhận được một bức thư, nó giúp tôi nhận thấy sự cần thiết phải theo dõi tiến trình xét xử vụ án. Mặc dù cố gắng tìm ra lý do tại sao tôi không nên làm điều đó, nhưng tôi biết mình sẽ không có khả năng cưỡng lại. Đó cũng là một sáng thứ sáu – Tôi cho là những điều không hay luôn xảy ra vào ngày thứ sáu. Tôi được gọi vào gặp giám đốc điều hành và tôi cứ nghĩ rằng đó là một cuộc gặp theo lệ thường cho đến khi được thông báo là công ty không còn cần tôi nữa. “Thực ra, trong vài tháng qua, anh làm việc ngày một tồi tệ,” Tôi bị nhận xét như vậy. Tôi thấy không thể phản đối được ông ta. “Và anh đã không để cho tôi sự lựa chọn nào khác ngoài việc thay thế anh.” Một cách nói lịch sự của “Anh đã bị sa thải”. “Bàn làm việc của anh phải được dọn sạch trước năm giờ chiều nay,” giám đốc điều hành tiếp tục, “Anh sẽ được nhận một tấm séc 17,500 bảng từ phòng kế toán.” Tôi nhướn lông mày. “Sáu tháng đền bù theo quy định của hợp đồng khi chúng tôi tiếp nhận công ty,” ông ta giải thích. Ông giám đốc điều hành đưa thẳng cánh tay ra nhưng nó không phải là để chúc tôi may mắn mà là hỏi tôi chiếc chìa khóa chiếc Rover. Tôi nhớ ý nghĩ đầu tiên, khi ông ta thông báo với tôi quyết định đó, là ít nhất thì tôi sẽ có thể tham dự phiên tòa xét xử cả ngày mà không có bất cứ phiền nhiễu gì. Elizabeth đón nhận tin tôi bị sa thải một cách buồn rầu và chỉ hỏi tôi có kế hoạch gì để tìm kiếm một công việc mới chưa. Trong suốt tháng tiếp theo, tôi đã dự định tìm kiếm một vị trí nào đó tại một công ty khác nhưng tôi nhận ra là mình không thể có hy vọng yên tâm làm bất cứ việc gì cho đến khi vụ án qua đi. Vào buổi sáng ngày xử án, tất cả các tờ báo đều có những mảng nền đầy màu sắc. Tờ Diễn đàn hàng ngày thậm chí còn đăng trên trang nhất một bức ảnh rất đẹp của Carla trong bộ đồ tắm trên bãi biển tại Marbella. Tôi tự hỏi không biết chị gái của Carla tại Fulham sẽ đau khổ đến mức nào khi xem bài báo này. Bên cạnh đó là bức ảnh và tiểu sử sơ lược của Paul Menzies, nó khiến anh tra trông như thực sự có tội. Tôi là một trong những người đầu tiên được chỉ cho biết phòng xử án Manzies. Một cảnh sát mặc đồng phục hướng dẫn chi tiết cho tôi cùng một số người khác đến phòng xử án số bốn. Khi tới phòng xử án, tôi đi vào và để an tâm, tôi ngồi xuống cuối hàng. Tôi nhìn xung quanh với ý nghĩ rằng ai cũng đang nhìn mình, nhưng thật nhẹ cả người vì chẳng có ai để ý đến tôi hết. Tôi có một góc nhìn tốt bị cáo khi anh ta đứng ở vành móng ngựa. Menzies, trông gầy rộc, chứng tỏ gần đây anh ta sút cân mạnh. Năm mươi mốt tuổi – một tờ báo đã viết như vậy – nhưng trông anh ta như thể gần sáu mươi. Tôi bắt đầu băn khoăn trông mình bao nhiêu tuổi sau từng ấy tháng. Menzies mặc bộ complet màu xanh thẫm lịch sự nhưng nó như mắc lỏng lẻo trên người anh ta, một chiếc áo sơ mi sạch sẽ và một cái cà vát mà tôi nghĩ là của quân đội. Mái tóc mỏng màu xám hất thẳng về phía sau, hàng ria mép con kiến khiến anh ta như là một quân nhân, mà không giống một tên giết người hay vướng vào chuyện nhân tình. Nhưng bất cứ ai nhìn lướt qua tôi cũng có những suy nghĩ như vậy. Tôi nhìn quanh tìm bà Menzies trong biển mặt những người nhưng không ai trong tòa án có nét giống với những bài báo miêu tả về bà ta. Tất cả chúng tôi đứng lên khi quan tòa Buchanan tiến vào; “Phiên tòa bắt đầu” viên thư ký nói to. Quan tòa nghiêng về phía trước nói với Menzies rằng anh ta có thể ngồi xuống rồi sau đó quay về phía bục ngồi của bồi thẩm đoàn. Ông ta giải thích rằng mặc dù có những sức ép là sự quan tâm và nhận định của báo chí về vụ án, nhưng quan điểm của bồi thẩm đoàn là những gì đã xảy ra đều không đáng quan tâm và họ độc lập trong việc quyết định bị cáo có phạm tội gieetsngwowif hay không. Ông ta cũng nói rằng bồi thẩm đoàn không được dựa vào những bài báo viết về vụ án hay nghe theo bất cứ ý kiến của người nào, đặc biệt là những người không hiện diện tại tòa án hôm nay. Những người đó – ông ta nói – luôn là những người đầu tiên thay đổi ý kiến của họ khi có phán quyết của tòa án. Ông ta cũng nhắc nhở bồi thẩm đoàn về việc tập trung vào các bằng chứng quan trọng như thế nào bởi vì cuộc sống của một con người đang bị đe dọa. Tôi thấy mình gật đầu đồng tình. Tôi nhìn lướt qua xung quanh tòa án hy vọng không có ai ở đó nhận ra mình. Đôi mắt của Menzies vẫn nhìn chằm chằm vào quan tòa đang quay mặt về bồi thẩm đoàn. Ngay khi viên công tố Humphrey Mountcliff đứng lên, tôi đã rất biết ơn vì người ông ta chống lại là Menzies chứ không phải tôi. Đó là một người đàn ông với một chiều cao nổi bật, trán cao, mái tóc màu xám bạc, ông ta làm chủ tòa án không chỉ bằng vóc dáng bệ vệ mà giọng nói của ông cũng chẳng kém uy quyền. Suốt thời gian còn lại của buổi sáng, ông ta đọc bản cáo trạng trước những cử tọa im phăng phắc. Đôi mắt của ông ta hiếm khi rời khỏi bục ngồi của bồi thẩm đoàn trừ lúc nhìn chăm chú những ghi chép của mình. Ông ta dựng lại những sự kiện đã xẩy ra trong buổi tối tháng tư đó theo hình dung của ông ta. Quá trình mở đầu đó mất hai tiếng rưỡi, ngắn hơn là tôi tưởng. Sau đó, quan tòa đề nghị nghỉ trưa và yêu cầu tất cả chúng tôi quay lại chỗ vào lúc hai giờ mười. Sau khi kết thúc buổi ăn trưa, ngài Humphrey cho gọi nhân chứng đầu tiên, thanh tra điều tra Simmons. Tôi không thể nhìn thẳng viên cảnh sát đó khi ông ta đứng ở bục nhân chứng. Mỗi câu trả lời của ông ta như để trả lời cho riêng tôi. Tôi không hiểu liệu ông ta có nghi ngờ có một người đàn ông khác không. Simmons tường thuật với sự chuyên nghiệp khi ông ta miêu tả chi tiết họ đã phát hiện ra người chết như thế nào rồi sau đó lần theo dấu vết Menzies thông qua hai nhân chứng và chiếc vé phạt đỗ xe. Cũng có lúc ngài Humphrey khiến một số người ngồi dự phiên tòa có cảm tưởng như ông Simmons đã bắt nhầm người. Luật sư bào chữa của Menzies đặt ra những câu hỏi cho viên thanh tra điều tra cũng không có sự trái ngược lắm với ngài Humphrey. Robert Scott, thành viên trong hội đồng cố vấn của Nữ hoàng – một người đàn ông lùn, đậm người với cặp lông mày rậm rạp ông ta nói chậm và đều đều. Tôi thì vui khi quan sát thấy một thành viên của bồi thẩm đoàn đang cố gắng kìm chế cơn buồn ngủ. Trong hai mươi phút tiếp theo, Scott yêu cầu viên thanh tra cẩn thận đối với những chứng cớ đã đưa ra nhưng điều đó không làm cho Simmons rút lại những lời khai quan trọng. Khi viên thanh tra bước ra khỏi bục nhân chứng, lúc này tôi đã đủ tự tin để nhìn thẳng vào măt của ông ta. Nhân chứng tiếp theo là một nhà nghiên cứu bệnh học của Bộ Nội vụ, bác sĩ Anthony Mallins. Sau khi trả lời những câu hỏi mở đầu để chưng minh uy tín nghề nghiệp của mình, ông ta bắt đầu trả lời những câu hỏi của ngài quan tòa Humphrey. Những câu trả lời này làm cho toàn thể mọi người ngạc nhiên, ông bác sĩ cho biết là cô Moorland đã có một cuộc làm tình ngắn ngủi trước khi cô ta chết. “Tại sao ông lại có thể chắc chắn như vậy về điều đó, bác sĩ Mallins?” “Bởi vì tôi tìm thấy vết của nhóm máu B trên cao bắp đùi của người chết, trong khi đó cô Moorland thì lại thuộc nhóm máu O. Và cũng có những dấu vết của tinh dịch trên chiếc áo ngủ mà cô ấy đã mặc vào lúc cô ấy bị chết.” “Đó là những nhóm máu phổ biến phải không?” ngài Humphrey hỏi. “Nhóm máu O thì phổ biến,” Bác sĩ thừa nhận. “Tuy nhiên, nhóm máu B thì khá là hiếm.” “Và ông nói gì về nghuyên nhân cái chết của nạn nhâ?” Ngài Humphrey hỏi. “Một cú đập hoặc nhiều cú đập vào đầu, nguyên nhân gây nên gẫy xương quai hàm, và những vết nứt ở sau xương sọ có thể là do bị đánh bằng một dụng cụ cùn.” Tôi muốn đứng bật dậy và nói, “Tôi có thể nói với ngài về cái đó!” khi ngài Humphrey nói, “Cảm ơn ông, bác sĩ Mallins. Không có câu hỏi nào thêm nữa. Xin đợi ở đó.” Ông Scott xử sự với vị bác sĩ tôn trọng hơn nhiều so với viên thanh tra Simmons, mặc dù Mallins đã trở thành nhân chứng bảo vệ cho bị cáo. “Có thể cú đập vào đằng sau cô Moorland là do bị ngã không?” Ông ta hỏi. Vị bác sĩ ngần ngừ. “Có thể,” ông ta đồng ý. “Nhưng điều đó không thể giải thích cho xương quai hàm bị gẫy.” Ông Scott lờ đi câu nói đó và hỏi dồn dập. “Có bao nhiêu phần trăm số người tại Anh mang nhóm máu B?” “Khoảng năm, sáu phần trăm,” vị bác sĩ trả lời. “Hai triệu rưỡi người,” Scott nói và đợi cho con số này ngấm dần trước khi ông ta thay đổi chiến thuật. Nhưng dù rất cố gắng ông ta cũng không thể làm ông bác sĩ thay đổi thời gian xảy ra cái chết hay thực tế một cuộc làm tình chắc chắn đã xảy ra trong khoảng thời gian một tiếng khi khách hàng của ông ta ở với Carla. Khi luật sư Scott ngồi xuống, quan tòa hỏi Humphrey xem ông ta có muốn thẩm tra không. “Vâng, thưa Quý tòa. Thưa bác sĩ Mallins, ông nói với tòa rằng cô Moorland bị chết do xương quai hàm bị gãy và xương sọ phía sau bị rạn nứt. Có thể vết nứt là do bị ngã vào một vật cùn sau khi xương hàm đã bị vỡ không?” “Tôi phản đối, thưa Quý tòa,” Scott bật dậy, cao giọng một cách bất thường. “Đây là một câu hỏi mớm cung.” Quan tòa Buchanan nghiêng về phía trước và nhìn chăm chú vị bác sĩ. “Tôi đồng ý, ông Scott, nhưng tôi muốn biết liệu bác sĩ Mallins có tìm thấy nhóm máu O, nhóm máu của cô Moorland, trên những vật khác trong căn pòng không?” “Có, thưa Quý toà,” vị bác sĩ trả lời. “Vết máu có ở rìa mặt kính của chiếc bàn ở giữa phòng…” “Cám ơn, bác sĩ Mallins, không còn câu hỏi gì nữa.” Ngài Humphrey nói. Nhân chứng tiếp theo của ngài Humphrey là bà Rita Johson, người đã xác nhận là nhìn thấy tất cả. “Bà Johnson, vào tối ngày mùng bẩy tháng tư, có phải bà trông thấy một người đàn ông rời khỏi căn hộ của cô Moorland?” Humphrey hỏi. “Vâng.” “Lúc đó vào khoảng mấy giờ?” “Sáu giờ hơn vài phút.” “Xin bà hãy kể cho tòa nghe chuyện gì đã xảy ra tiếp theo.” “Anh ta băng ngang qua đường, lấy tấm vé phạt ô tô, ngồi vào trong xe rồi phóng đi.” “Bà có nhìn thấy người đàn ông đó ở tòa ngày hôm nay không?” “Có”, bà ta khẳng định, chỉ vào Menzies, anh ta lắc mạnh phản đối sự khẳng định trên. “Không có câu hỏi nào thêm nữa.” Luật sư Scott lại từ từ đứng lên. “Bà có nhận định gì về chiếc xe mà người đàn ông đó đi?” “Tôi không chắc chắn lắm,” bà Johnson nói, “nhưng tôi nghĩ nó là một chiếc BMW.” “Không phải là Rover như lần đầu bà nói với cảnh sát sáng hôm sau a?” Nhân chứng không trả lời. “Và có thực sự là bà nhìn thấy người đàn ông đang bị thẩm vấn giật chiếc vé phạt từ kính chắn gió không?” Scott hỏi. “Tôi nghĩ là như vậy, thưa ông, nhưng sự việc xẩy ra quá nhanh.” “Tôi chắc là vậy,” Scott nói, “Trên thực tế, tôi thừa nhận với bà là sự việc xẩy ra quá nhanh đến nỗi bà nhìn nhầm người và cả chiếc xe.” “Không, thưa ông,” bà ta trả lời, nhưng không có sức thuyết phục giống như những câu trả lời của bà ta trước đó. Công tố Humphrey không thẩm vấn bà Johnson nữa. Tôi nhận thấy ông ta muốn những bằng chứng của bà ta được bồi thẩm đoàn quên đi càng nhanh càng tốt. Vì vậy, khi bà ta rời khỏi bục nhân chứng, bà ta cũng để lại cho tất cả mọi người ở tòa án một sự nghi ngờ đáng kể. Người giúp việc hàng ngày của Carla, Maria Lucia, có lý lẽ thuyết phục hơn. Bà ta nói rõ chắc chắn đã nhìn thấy Menzies trong phòng khách của căn hooj vào buổi chiều hôm đó khi bà ta đến vào lúc năm giờ kém. Ty nhiên, bà ta cũng thừa nhận là chưa bao giờ nhìn thấy anh ta trước đó. “Có đúng vậy không?” Humphrey hỏi, “bởi vì bà chỉ thường hay làm việc vào buổi sáng mà?” “Vâng,” bà ta trả lời. “Cô Moorland có thói quen mang công việc về nhà vào chiề thứ ba vì nó tiện cho tôi đến để nhận tiển công.” “Vậy cô Moorland đã mặc gì vào buổi chiều hôm đó?” “Cô ấy mặc áo choàng buổi sáng màu xanh.” Người giúp việc trả lời. “Đó là bộ cô ấy thường mặc vào chiều thứ ba phải không?” “Không, thưa ông, nhưng tôi dám khẳng định rằng cô ấy sẽ đi tắm trước khi đi ra ngoài vào buổi tối hôm đó.” “Nhưng khi bà rời khỏi căn hộ có phải cô ấy vẫn ở cùng ông Menzies không?” “Vâng, thưa ông.” “Bà còn nhớ cô ấy mặc gì nữa ngày hôm đó không?” “Vâng, thưa ông. Bên trong áo khoác cô ấy mặc một chiếc áo lót màu đỏ.” Chiếc áo lót của tôi đã được đưa ra đúng lúc này và Maria Lucia xác nhận ngay nó. Lúc này, tôi nhìn thẳng vào nhân chứng nhưng bà ta có vẻ như không nhận ra. Tạ ơn tất cả các thánh thần là không khi nào tôi đến với Carla vào buổi sáng. “Xin bà đợi ở kia,” Humphrey nói với bà Lucia. Luật sư Scott đứng lên. “Bà Lucia, bà đã nói trước tòa rằng mục đích đến nhà cô Carla là để nhận lương. Bà đã ở lại đó trong bao lâu?” “Tôi đã dọn dẹp một chút trong bếp và là một chiếc áo choàng, có lẽ là hai mươi phút.” “Bà nhìn thấy cô Moorland trong suốt thời gian đó không?” “Vâng, tôi đã đi vào phòng khách và hỏi xem cô ấy có muốn dùng thêm cà phê không nhưng cô ấy bảo không.” “Ông Menzies ở với cô ấy khi đó phải không?” “Vâng, ông ta ở đó.” “Có lúc nào bà nghe thấy họ có tranh cãi hoặc thậm chí to tiếng với nhau không?” “Không, thưa ông.” “Khi nhìn thấy họ ngồi cùng nhau, bà có thấy cô Mooland biểu hiện gì lo lắng hoặc cần sự giúp đỡ không?” “Không, thưa ông.” “Khi nhìn thấy họ ngồi cùng nhau, bà có thấy cô Moorland biểu hiện gì lo lắng cần sự giúp đỡ không.” “Không, thưa ông.” “Điều gì xẩy ra sau đó?” “Cô Moorland vào trong bếp cùng tôi trong vài phút sau đó, đưa cho tôi iền lương và tôi rời khỏi đó.” “Khi có một mình bà ở trong bếp với cô Moorland, cô ấy có biểu hiện sợ sệt người khách của mình không?” “Không, thưa ông.” “Không có câu hỏi gì thêm, thưa Quý tòa.” Viên công tố Humphrey không hỏi thêm bà Maria Lucia nữa và nói với quan tòa rằng ông ta đã hoàn thành việc khởi tố bị can. Quan tòa Buchanan gật đầu, nói rằng ông cảm thấy một ngày như thế là đủ. Nhưng tôi thấy ngần đó bằng chứng không đủ để kết tội Menzies. Tối đó, khi tôi trở về nhà, Elizabeth không hề hỏi tôi đã ở đâu ngày hôm đó. Tôi cũng không tự nói bất cứ điều gì. Cả buổi tối, tôi giả bộ xem lại kỹ lưỡng những lá đơn xin việc. Buổi sáng hôm sau, tôi ăn sáng muộn và đọc vài tờ báo. Sau đó, trở lại vị trí cũ của tôi ở phòng xử án ố 4, chỉ một lúc trước khi quan tòa bước vào. Quan tòa Buchanan ngồi xuống, chỉnh lại bộ tóc giả trước khi bảo Scott bắt đầu quá trình biện hộ. Luật sư Scott chậm chạp đứng lên – Một người đàn ông được trả tiền theo giờm tôi nghĩ bụng một cách cay nghiệt. Ông ta khởi đầu với lời hứa trước tòa rằng bài diễn văn mở đầu của ông sẽ ngắn và rồi ông ta cứ thế đứng suốt hai tiếng rưỡi sau. Ông bắt đầu quá trình biện hộ bằng cách nhắc lại chi tiết những phần trong quá khứ của Menzies mà ông ch là có liên quan của vụ án. Ông ta khẳng định với tất cả là nếu phân tích kỹ thì sẽ thấy một lý lịch của một con người trong sạch. Paul Menzies là một người chồng hạnh phúc, anh ta sống tại Sutton cungv với vợ và ba con: Polly, hai mươi mốt tuổi, Michael, mười chín tuổi và Sally, mười sáu tuổi. Hai trong số chúng hiện đang học đại học và đưa bé nhất cũng sắp hoàn thành phổ thông trung học. Bác sĩ đã khuyên bà Menzies đừng đến phiên tòa xét xử với tình trạng sức khỏe của bà gần đây. Tôi nhận thấy hai người phụ nữ trong bồi thẩm đoàn mỉm cười thông cảm. Ông Menzies, luật sư Scott tiếp tục, đã làm việc tại một hãng môi giới bảo hiểm ở thành phố London trong sáu năm qua, và mặc dầu không được thăng chức, ông vẫn là một nhân viên rất được kính trọng. Ông cũng là một nhân vật chủ chốt ở địa phương của ông, đã từng phục vụ trong quân đội địa phương và ban lãnh đạo của câu lạc bộ nhiếp ảnh địa phương. Ông ta cũng từng một lần có chân trong hội đồng nhân dân của Sutton. Thật khó có thể n ói ông là một tên giết người. Luật sư Scott tiếp tục với những sự kiện trong ngày xảy ra vụ giết người và khẳng định Menzies đã hẹn gặp Carla vào chiều ngày hôm đó, thật ra với mục đích duy nhất là dùng khả năng chuyên môn của mình giúp đỡ cô Carla trong kế hoạch bảo hiểm cá nhân. Không thể có lý do nào khác để viếng thăm cô Moorland trong suốt một giờ đồng hồ mà đáng lẽ ra là phải ở công sở. Ông ta cũng không hề làm tình với cô ấy và chắc chắn là ông ta không giết cô ấy. Bị đơn đã rời khỏi nhà khách hàng của ông vào lúc sáu giờ hơn. Ông ta biết Carla có ý định thay quần áo trước khi đi ra ngoài ăn tối với chị gái của cô ấy ở Fullham. Ông ta đã sắp xếp một cuộc gặp khác với Carla vào thứ tư tuần sau tại văn phòng của ông để hoàn thành nốt những điều khoản hợp đồng. Tôi, Scott tiếp tục, sau đó đã nhận được cuốn nhật ký của Menzies, nó sẽ khẳng định sự thật của những sự kiện tôi đã nói ở trên. Những lời buộc tội, tố cáo – ông ta lập luận- dựa trên những bằng chứng chi tiết, đầy đủ. Ông ta tin tưởng rằng khi tòa án có kết luận, bồi thẩm đoàn sẽ không phải bàn luận gì ngoài việc phóng thích khách hàng của ông ta trở về với gia đình thân yêu. “Mọi người chắc chắn sẽ kết thúc cơn ác mộng này,” Scott kết luận. “Chúng ta đã cư xử rất không đúng với một người đàn ông vô tội.” Đến đây, quan tòa đề nghị nghỉ trưa. Trong suốt bữa trưa đó, tôi không thể tập trung vào bữa ăn vì phải lắng nghe mọi người xung quanh nói gì. Phần đông họ đều có ý kiến cho rằng dường như Menzies vô tội. Khoảng hai giờ mười, ngay khi chúng tôi quay trở lại, luật sư Scott cho gọi nhân chứng đầu tiên của ông ta: đó chính là bị cáo. Paul Menzies rời khỏi vành móng ngựa và từ ừ tiến về phía bục nhân chứng. Tay phải cầm một quyển kinh Tân Ước, ông ta ngập ngừng nói những lời tuyên thệ sẽ nói sự thật. Tất cả mọi con mắt tập trung vào ông ta trong khi luật sư Scott bắt đầu hướng dẫn cẩn thận khách hàng của mình né tránh những chứng cớ bất lợi. Menzies trình bày trở nên tự tin hơn trong suốt buổi chiều hôm đó. Vào lúc bốn giờ ba mươi, quan tòa nói, “như vậy là đủ cho ngày hôm nay,” Tôi thấy là Menzies sẽ thoát tội, bởi đó là kết luận của hầu hết mọi người. Tối đó, tôi ngủ không yên giấc, lo sợ điều tồi tệ nhất sẽ xẩy ra vào ngày thứ ba. Menzies có được tha không và liệ sau đó họ có tìm ra tôi không. Luật sư Scott mở đầu buổi sáng thứ ba cũng nhẹ nhàng như ngày thứ hai, nhưng ông ta nhắc lại rất nhiều những câu hỏi từ những ngày trước mà rõ ràng là ông ta chỉ muốn khách hàng của mình giữ vững những lời khai trong quá trình tiếp diễn phiên tòa. Trước khi kết thúc, ông ta hỏi Menzies lần thứ ba, “Có bao giờ anh làm tình với cô Moorland không?” “Không, thưa ông. Đó là ngày đầu tiên tôi gặp cô ấy,” Menzies khẳng định. “Thế có phải anh giết cô Moorland không?” “Chắc chắn là không, thưa ông,” Menzies trả lời, ông ta cao giọng và đầy tự tin. Scott trở về chỗ ngồi, nét mặt thoáng vẻ hài long. Ít ai đang sống cuộc sống bình thường lại nghĩ đến chuyện bị ngài Humphrey Mountchift thẩm vấn. Tôi khó có thể đòi hỏi một luật sư tốt hơn vậy. “Nếu tôi có thể, thưa ông Menzies,” Humphrey bắt đầu, “Tôi muốn hỏi luật sư của ông dường như ông ta còn rất nhiều bằng chứng chứng minh cho sự vô tội của ông.” Đôi môi mỏng của Menzies mím lại thành một đường thẳng. “Chúng ta đi thẳng vào vấn đề nhé, trong hật ký cua ông có viết rằng ông đã hẹn gặp cô Moorland, người phụ nữ bị giết” – những từ đó được viên công tố lặp đi lặp lại trong suốt quá trình thẩm vấn của ông ta – “vào ngày thứ tư sau khi cô ta đã bị chết.” “Vâng, thưa ông,” Menzies nói. “Cuộc hẹn gặp đó – theo tôi – được sắp xếp trong cuộc gặp mặt ngày thứ ba đó tại căn hộ của cô Moorland.” “Vâng, thưa ông,” Menzies trả lời, rõ ràng đang kiếm chế để không nói thêm điều gì để có thể bổ sung thêm vào quá trình xử án. “Vậy khi nào ông ghi lại cuộc hẹn đó trong nhật ký của mình?” Humphrey hỏi tiếp. “Vào sáng ngày thứ sáu.” “Sau khi cô Moorland đã bị giết chết?” “Vâng, nhưng tôi không biết điều đó.” “Ông có hay mang theo cuốn nhật ký bên mình không, ông Menzies?” “Có, đó chỉ là một cuốn sổ bỏ túi nhỏ, không phải là cuốn nhật ký lớn ở bàn.” “Ông có đem theo nó hôm nay không?” “Có.” “Có thể cho phép tôi xem nó không?” Menzies miễn cưỡng lấy một cuốn số màu xanh nhỏ từ túi áo khoác và trao nó cho viên thư ký tòa án, ông ta tiếp lấy đưa cho viên công tố. Humphrey bát đầu đọc lướt qua từng trang. "Tôi thấy rằng ở đây không có ghi cuộc hẹn gặp của ông với cô Moorland vào buổi chiều hôm cô ấy bị giết?” “Không, thưa ông,” Memzies nói. “Những cuộc hẹn gặp công việc tôi chỉ ghi vào cuốn nhật ký ở trên bàn, những cuộc hẹn gặp riêng tôi giới hạn trong cuốn nhật ký bỏ túi của mình.” “Tôi hiểu,” Humphrey nói. Ông ta dừng lại và ngước lên. “Nhưng điều đó thật khác thường, ông Menzies, ông đã nói là đã sắp xếp một cuộc hẹn gặp để bàn bạc thêm về những điều khoản hợp đồng và sau đó hy vọng nó được ghi nhận. Ông ghi luôn điều đó vào nhật ký, chẳng lẽ lúc nào ông cũng mang nó theo người?” “Tôi có lẽ đã viết nó ra một tờ giấy lúc đó, nhưng tôi đã nói đó là một cuốn nhật ký cá nhân mà.” “Vậy sao?” Humphrey nói và lật lại vài trang trước đó. “Ai là David Paterson?” ông hỏi. Trông Menzies như là đang cố gắng nhớ lại cái tên đó. “Ông David Paterson, 112 đường City, mười một giờ ba mươi, mùng chín tháng giêng năm nay,” Humphrey đọc to trước tòa. Menzies trông có vẻ lo lắng. “Chúng tôi có thể đòi ông Paterson hầu tòa nếu như ông không thể nhớ lại được ông ta,” Humphrey nói giúp. “Ông ta là khách hàng của công ty tôi.” Menzies nói, trầm giọng. “Một khách hàng của công ty ông,” Humphrey nhắc lại chậm chạp. “Tôi không hiểu liệu có bao nhiêu người như thế tôi có thể thấy nếu tôi có thời gian xem hết quyển nhật ký của ông?” Đầu Menzies cúi xuống khi Humphrey đưa quyển nhật ký lại cho viên thư ký tòa án. “Bây giờ tôi muốn quay lại với một số câu hỏi quan trọng hơn…” “Hãy để sau buổi trưa, ông Humphrey,” vị quan tòa xen vào. “Đã gần đến giờ nghỉ trưa và tôi cho là chúng ta sẽ nghỉ luôn bây giờ.” “Vâng, thưa Quý tòa.” Viên công tố trả lời nhã nhặn. Tôi rời khỏi tòa án trong một tâm trạng lạc quan hơn, mặc dù tôi không thể đợi để khám phá ra điều có thể quan trọng hơn trong cuốn nhật ký. Công tố Humphrey đã nhấn mạnh vào một số dòng. Và dù cho nó khong chứng minh được Menzies là kẻ giết người, nhưng nó cho thấy ông ta đang muốn che giấu điều gì đó. Tôi lo lắng liệu trong buổi nghỉ trưa luật sư Scott có thể khuyên Menzies thừa nhận mối quan hệ với Carla, và điều đó làm cho phần còn lại của câu chuyện sẽ trở nên đáng tin hơn. Như để giảm bớt lo lắng, suốt bữa ăn tôi cho rằng theo luật pháp của Anh thì Menzies sẽ không thể thảo luận với luật sư biện hộ khi ông ta vẫn còn ở trên bục nhân chứng. Tôi nhận thấy khi chúng tôi trở lại tòa án thì nụ cười của Scott đã biến mất. Công tố Humphrey đứng lên để tiếp tục cuộc thẩm vấn. “Ông đã nói sau khi đã tuyên thệ, ông Menzies, rằng ông là một người chồng hạnh phúc.” “Vâng, thưa ông,” bị đơn trả lời vẻ xúc đông. “Cuộc hôn nhân đầu của ông hạnh phúc chứ, ông Menzies?” Humphrey hỏi bất chợt. Mặt của bị đơn biến sắc. Tôi nhanh chóng liếc nhìn về phía luật sư Scott, ông ta có vẻ không biết thông tin này. “Hãy suy nghĩ trước khi trả lời,” Humphrey nói. Tất cả mọi con mắt đều dòn về người đàn ông trong bục nhân chứng. “Không,” Menzies nói và nhanh chóng thêm vào, “Nhưng lúc đó tôi còn trẻ. Việc đó đã xảy ra nhiều năm về trước và tất cả là một sai lầm lớn.” “Tất cả là một sai lầm to lớn u?” Humphrey nhắc lại, ông ta nhìn thẳng vào bồi thẩm đoàn. “Và cuộc hôn nhân đó kết thúc như thế nào?” “Ly dị,”Menzies nói khá đơn giản. “Và nguyên nhân gì đã dẫn tới việc ly dị?” “Sự độc ác,” Menzies nói, “Nhưng…” “Nhưng… Vậy ông có muốn tôi nói cho bồi thẩm đoàn biết những điều mà người vợ đầu của ông đã khai trước tòa khi ly dị không?” Menzies đứng đó lắc đầu. Ông ta biết rằng nói “Không” sẽ gây nguy hiểm cho mình nhưng nói “Có” tức là sẽ treo cổ chính mình. “Thôi được, ông dường như không thể nói cho chúng tôi biết, vậy thì tôi xin phép ông nói ra điều đó. Thưa Quý tòa, theo những lời khai của bà vợ đầu tiên của ông Menzies đấy, trước thẩm phán Rodger tại tòa Swindon Couty vào ngày mùng chín tháng sau năm 1961.” Viên công tố hắng giọng. ‘“Anh ta đã thường xuyên đánh đập tôi, và càng ngày điều đó càng trở nên tồi tệ tới mức tôi phải bỏ trốn khỏi nhà vì sợ một ngày nào đó anh ta sẽ giết tôi.”’ Humphrey nhấn mạnh những từ cuối cùng. “Bà ta thổi phồng lên đó,” Menzies hét lớn từ bục nhân chứng. “Thật là không may cho cô Carla tội nghiệp không thể có mặt cùng với chúng ta ngày hôm nay để cho chúng tôi biết rằng liệu sự việc giữa ông và cô ấy cũng là một sự thổi phồng.” “Tôi phản đối, thưa Quý tòa,” Scott nói. “Ông Humphrey đang quấy rầy nhân chứng.” “Tôi đồng ý,” Quan tòa nói. “Hãy cẩn thận hơn trong nói năng, ông Humphrey.” “Tôi xin lỗi, thưa Quý tào,” Hunphrey nói, nghe có vẻ như chẳng chú ý đến điều đó. Ông ta đóng tập tài liệu mà ông ta vừa đề cập đén và đặt lại nó lên chiếc bàn trước mặt trước khi lấy một tập mới. Ông ta mở nó ra từ từ, tin là chắc chắn tất cả mọi người trong phiên tòa theo dõi từng hành động của mình, ông ta lấy ra một tờ giấy. “Ông có bao nhiêu nhân tình trước khi cưới người vợ thứ hai?” “Tôi phản đối, thưa Quý tòa. Những điều đó không liên quan?” “Thưa Quý tòa, có quan hệ đấy, tôi xin trân trọng nói rằng điều đó có liên quan. Tôi muốn chỉ ra rằng đó không phải là mối quan hệ công việc mà ông Menzies đang có với cô Moorland mà là một mối quan hệ cá nhân ở mức độ cao.” “Chấp nhận đặt câu hỏi đó cho bị đơn,” Quan tòa quyết định. Menzies không nói gì khi Humphrey cố ý chỉa tờ giấy ra trước mặt ông ta và chăm chú nhìn tờ giấy. “Hãy suy nghĩ ký vì tôi muốn có con số chính xác,” viên công tố nói, nhìn qua phía trên của cặp kính. Những tiếng tích tắc trôi qua và tất cả chúng tôi chờ đợi. “Hừm – ba người, tôi nghĩ thế,” cuối cùng Menzies nói như thể vừa mới nhớ được. Các phóng viên vội vàng ghi chép. “Ba thôi ư,” Humphrey nói, liếc nhìn qua tờ giấy nghi ngờ. “Ờ, có lẽ là bốn.” “Và người thứ tư chính là cô Carla Moorland phải không?” Humphrey hỏi. “Bởi vì ông đã làm tình với cô ấy tối hôm đó, phải không?” “Không, tôi không làm như vậy,” Menzies nói, nhưng lần này rất ít người trong phòng xử án tin vào lời của ông ta. “Thôi được” Humphrey tiếp tục, khi ông ta đặt tờ giấy lên bàn trước mặt. “nhưng trước khi quay lại mối quan hệ của ông với cô Moorland, hãy để chúng tôi khám phá sự thật về bốn mối quan hệ trước đó.” Tôi liếc nhìn qua tờ giấy mà Humphrey đang đọc. Từ chỗ tôi ngồi, có thể nhìn thấy không có gì được viết trên đó. Một tờ giấy trắng nằm trước mặt ông ta. Tôi thấy khó có thể kiềm chế được một nụ cười nhạo. Bí mật về sự ngoại tình của Menzies là lợi ích bất ngờ cho tôi và cho cả báo chí – Và tôi tự hỏi không hiểu Carla sẽ phản ứng ra sao nếu như cô ta biết điều đó. Thời gian còn lại của ngày hôm đó, công tố Humphrey trình bày chi tiết những mối quan hệ trước đó của Menzies với bốn cô nhân tình. Phiên tòa xôn xao còn các nhà báo thì tiếp tục ghi chép, họ đã có một ngày tha hồ khai thác. Khi phiên tòa tạm nghỉ thì cặp mắt của luật sư Scott nhắm lại. Tôi trở về nhà tối hôm đó, cảm thấy tự hài lòng với bản thân, giống như một người vừa hoàn thành tốt một ngày làm việc. Khi bước vào phòng xử án sáng hôm sau, tôi nhận thấy mọi người bắt đầu công nhận thật sự, không còn nghi ngờ gì về tội lỗi của Menzies. Tôi cũng nói với mọi người như vậy và gật đầu niềm nở chào mọi người khi tôi ngồi xuống chỗ ngồi quen thuộc của mình ở cuối hàng. Công tố Humphrey dành trọn buổi sáng hôm đó để nói về những tội lỗi khác của Menzies. Chúng tôi biết được rằng ông ta đã phục vụ trong quân đội địa phương chỉ có năm tháng và phải rời khỏi đó do có bất hòa với viên sĩ quan chỉ huy. Ở đó, ông ta được yêu cầu nên dành bao nhiêu thời gian cho việc tập luyện vào cuối tuần và ông ta đã đòi phải trả bao nhiêu chi phi phí cho những giờ tập đó. Chúng tôi cũng biết rằng ông ta đã tham gia hội đồng nhân dân địa phương chỉ vì tức giận do đã bị từ chối không được cấp phép xây dựng đám đất tiếp giáp nhà của ông ta hơn là mong muốn phục vụ các đồng bào của mình. Công bằng mà nói, ông Humphrey có thể khiến Thánh Gabriel trở nên giống như một tên du côn bóng đá; nhưng con chủ bài của ông còn ở phía trước. “Ông Menzies, bây giờ tôi muốn quay lại với lời khai của ông về những sự việc đã xảy ra tối hôm mà cô Moorland đã bị giết được không?” “Vâng,” Menzies nói với một tiếng thở dài mệt mỏi. “Khi ông gặp khách hàng của mình để thảo luận về những điều khoản của hợp đồng, ông thường tư vấn cho họ trong thời gian bao lâu?” “Thường thì là nửa tiếng, một tiếng là tối đa,” Menzies nói. “Vậy ông đã tư vấn cho cô Moorland trong bao lâu?” “Mất một tiếng.” “Và khi ông rời khỏi đó, nếu tôi nhớ chính xác, thì vào khoảng sáu giờ hơn.” “Vâng, đúng vậy.” ”Vậy ông hẹn gặp cô ấy vào lúc mấy giờ?” “Năm giờ, nó được ghi rõ trên nhật ký làm việc của tôi,” Menzies nói. “Ông Menzies, nếu ông đến nơi vào lúc năm giờ, giữ đúng hẹn với cô Moorland và rời khỏi đó lúc sáu giờ hơn, vậy làm thế nào mà ông lại bị phạt đỗ xe?” “Tôi có bị chậm vài phút. Tôi đánh liều.” “ông đánh liều,” Ngài Humphrey nhắc lại. “Ông rõ là một người hay đánh liều, ông Menzies ạ. Tôi không hiểu ông có thể xem lại được cái phiếu phạt xe không?” Viên thư ký chuyển tấm vé phạt cho Menzies. “Ông sẽ đọc to trước tòa thời gian mà cảnh sát giao thông đã ghi vé phạt khi vi phạm xẩy ra chứ.” Một lần nữa, Menzies không trả lời một lúc lâu. “Bốn giờ mười sáu đến bốn giờ ba mươi phút,” cuối cùng ông ta trả lời. “Tôi chưa nghe rõ,” Quan tòa bật nói. “Ông có thể nhắc lại những lời vừa rồi cho quan tòa nghe được chứ?” Viên công tố yêu cầu. Menzies nhắc lại những con số có thể gây nguy hiểm cho ông ta. “Vậy bây giờ chúng tôi có thể nói rằng thực tế là ông đã ở cùng với cô Moorland trước lúc bốn giờ mười sáu phút chứ không phải là năm giờ như trong nhật ký của ông ghi sau đó. Đó là một lời nói dối khác, phải không?” “Không phải,” Menzies nói. “Tôi chắc là đã đến sớm hơn một chút.” “Dường như sớm hơn ít nhất một tiếng. Và tôi cho là ông đã đến sớm hơn một tiếng bởi vì mối quan hệ của ông với cô Carla Moorland không đơn thuần chỉ là công việc phải không?” “Đó không phải là sự thật.” “Và dự định của ông là cô ấy sẽ trở thành nhân tình của mình phải không?” Menzies ngập ngừng một lúc đủ để cho viên công tố Humphrey tự trả lời câu hỏi đó.” Bởi vì phần thảo luận hợp đồng đã kết thúc trong nửa giờ như thường lệ phải không, ông Menzies?” Ông ta chở đợi nhưng vẫn không có câu trả lời nào. “Ông thuộc nhóm máu gì, ông Menzies?” “Tôi không biết.” Viên công tố tiếp tục. “Ông đã bao giờ nghe về xét nghiệm DNA chưa?” “Chưa,” Menzies trả lời lúng túng. “DNA là một phương pháp chứng minh những gen di truyền chỉ là duy nhất đối với mỗi cá nhân. Mẫu máu hay tinh dịch có thể được xác định. Tinh dịch, thưa ông Menzies, cũng duy nhất như vân tay. Với mẫu tinh dịch thu được, chúng tôi sẽ ngay lập tức biết được liệu ông có cưỡng hiếp cô Moorland không.” “Tôi không cưỡng hiếp cô ta,” Menzies phẫn nộ. “Dù sao thì ông cũng đã làm tình với cô ấy phải không?” Giọng của viên công tố trầm hẳn xuống. Menzies vẫn im lặng. “Tôi sẽ gọi cho bác sĩ Bộ nội vụ và yêu cầu họ tiến hành kiểm tra DNA của ông được không?” Menzies vẫn không trả lời. “Và sẽ kiểm tra nhóm máu của ông.” Humphrey tạm dừng lại. “Tôi xin hỏi ông một lần nữa, ông Menzies. Ông đã làm tình với người phụ nữ bị giết vào chiều ngày thứ ba đó, đúng không?” “Vâng, thưa ông,” Menzies nói khẽ. “Vâng, thưa ông,” Humphrey nhắc lại đến nỗi mà toàn bộ tòa án có thể nghe thấy điều đó. “Nhưng đó không phải là một vụ cưỡng hiếp,” Menzies nói lớn tiếp theo lời viên công tố. “Phải như vậy không, ông Menzies?” “Tôi thề là tôi không giết cô ấy.” Chắc chắn tôi là người duy nhất trong tòa án biết rằng Menzies đã nói sự thật. Viên công tố Humphrey chỉ nói, “Không có câu hỏi gì thêm nữa, thưa Quý tòa.” Luật sư Scott đã cố gắng phục hồi lại sự tin tưởng cho khách hàng của ông ta trong suốt quá trình thẩm vấn tiếp theo. Nhưng trên thực tế, Menzies đã bị vạch trần sự lừa dối của ông ta về mối quan hệ với Carla, vì vậy đã làm cho tất cả những điều nói trước đó đều bị nghi ngờ. Nếu như Menzies nói sự thật rằng Carla là tình nhân của ông ta, câu chuyện của ông ta sẽ có thể được chấp nhận không nghi ngờ. Tôi tự hỏi tại sao ông ta phải lừa dối như vậy, phải chăng là để bảo vệ vợ mình? Dù với bất cứ động cơ gì, nó cũng sẽ làm xuất hiện nhân tố buộc tội ông ta mặc dù ông ta không thừa nhận. Tối đó trở về nhà, tôi ăn một bữa ăn nhiều nhất trong suốt những hôm đó. Sáng ngày hôm sau, luật sư Scott cho gọi thêm hai nhân chứng nữa. Người đầu tiên là mục sư giáo xứ Sutton, ông ta đã xác nhận vị trí trụ cột của Menzies trong cộng đồng. Mục sư trông khá là phúc hậu, thanh cao, toàn bộ sự hiểu biết của ông về Menzies chỉ dựa trên những dịp lễ cầu nguyện sáng chủ nhật mà Menzies tham dự gần đây. Nhân chứng thứ hai là cấp trên của Menzies ở công ty, cả hai người cùng làm việc trong thành phố. Ông ta có ấn tượng sâu sắc hơn với Menzies nhưng cũng không thể khẳng định là cô Moorland đã từng là khách hàng của công ty. Luật sư Scott không có câu hỏi gì thêm đối với nhân chứng, ông nói với quan tòa Buchanan rằng ông đã hoàn thành công việc biện hộ. Vị quan tòa gật đầu và quay lại nói với viên công tô Humphrey là không cần ông ta bắt đầu bài diễn thuyết kết thúc cho đến sáng ngày hôm sau. Viên thư ký ra hiệu cho mọi người đứng dậy. Một buổi tối dài dằng dặc, và một đêm còn dài hơn mà tôi và Menzies phải chịu. Cũng như các ngày xét xử trước đó, tôi biết chắc rằng mình sẽ có mặt ngay khi ngày xét xử mới bắt đầu, tại chỗ cũ vào buổi sáng trước khi quan tòa bước vào. Công tố Humphrey kết thúc bài nói một cách xuất sắc. Tất cả những sự dối trá nhỏ nhặt đều bị vạch trần đến nỗi mọi người đều bắt đầu thừa nhận rằng chỉ có một phần rất nhỏ trong lời khai của Menzies có thể tin được. “Chúng ta sẽ không bao giờ biết chắc chắn,” Humphrey nói. “Nguyên nhân tại sao người phụ nữ đáng thương Carla Moorland bị giết. Không chống cự nổi những hành động của Menzies? Một cuộc cãi vã kết thúc bởi một cú đấm là nguyên nhân làm cho cô ngã và chết? Nhưng dù sao, thưa bồi thẩm đoàn, có những điều chúng ta có thể chắc chắn. “Chúng ta có thể chắc chắn rằng Menzies đã ở với người phụ nữ bị giết ngày hôm đó trước bốn giờ mười sáu phút bởi vì bằng chứng của nó là chiếc vé phạt đỗ xe. “Chúng ta cũng có thể chắc chắn ông ta đã rời khỏi đó lúc sáu giờ hơn bởi vì có nhân chứng nhìn thấy ông ta lái xe đi khỏi đó, và ông ta cũng không từ chối điều này.. “Và chúng ta có thể khẳng định ông ta đã cố tình viết sai trong nhật ký để làm mọi người tin rừng ông ta có một cuộc hẹn gặp với người phụ nữ bị giết vào lúc năm giờ, đúng hơn là cuộc hẹn gặp riêng tư trước đó. “Và bây giờ chúng ta cũng có thể chắc chắn ông ta nói dối là không làm tình với cô Moorland trong thời gian ngắn trước đó khi cô ấy bị chết, mặc dù chúng ta không biết chắc chắn là nó diễn ra trước hay sau khi xương hàm cô ấy đã gẫy.” Đôi mắt của viên công tố dừng lại bồi thẩm đoàn trước khi tiếp tục. “Cuối cùng, chúng ta có thể xác minh, dựa vào những bằng chứng khả nghi, từ báo cáo của bác sĩ về thời gian xảy ra cái chết và dù sao thì Menzies cũng là người cuối cùng nhìn thấy Carla Moorland lúc còn sống. “Vì vậy, không có ai nữa giết Carla Moorland, không thể quen những bằng chứng của thanh tra Simmons, và nếu chấp nhận n ó, mọi người có thể không nghi ngờ gì về việc chỉ có Menzies phải chịu trách nhiệm trong cái chết của cô Moorland. Và chắc chắn mọi người có thể tìm thấy nhiều bằng chứng kết tội mà ông ta đã cố tình che giấu, như sự tồn tại của người vợ đầu, bà ta đã phải ly dị vì sự đánh đập của ông ta, và bốn cô nhân tình đã bỏ ông ta mf chúng ta không hiểu là vì sao hoặc như thế nào. Ông ta chỉ là một người không chiều vợ hôi sao?” Humphrey thêm. “Vì lợi ích của tất cả những người phụ nữ trẻ đang sống trên đất nước này, các bạn phải thực hiện nhiệm vụ của mình, dù nhiệm vụ ấy có khó khăn, để xem xét Menzies có tội hay không.” Khi công tố Humphrey ngồi xuống, tôi đã muốn vỗ tay tán thưởng ông ta. Quan tòa cho chúng tôi nghỉ. Tất cả những giọng nói quanh tôi đều đang kết tội Menzies. Tôi nghe, toại nguyện mà không thêm bất cứ ý kiến gì. Tôi biết nếu như bồi thẩm đoàn kết tội Menzies, vụ án sẽ khép lại và sẽ không ai để ý đến lời nói của tôi. Tôi đã ngồi tại chỗ của mình trước khi quan tòa vào lúc hai giờ kém mười. Ông ta cho gọi luật sư Scott. Những lời chỉ bảo của luật sư với Menzies làm khách hàng của ông ta vững tâm hơn, ông ta chỉ ra rằng hầu hết tất cả những bằng chứng mà Humphrey đưa ra chỉ là những chi tiết suy diễn và rằng có thể có ai đó đến với Carla sau khi Menzies đã đi khỏi. Cặp lông mày sâu róm dường như là sức sống của đôi mắt Scott, khi ông ta nhấn mạnh rằng trách nhiệm của bên khởi tố là buộc tội thông qua những bằng chứng đáng nghi còn trách nhiệm ông là bác bỏ những lời buộc tội đó. Và rằng, theo quan điểm của ông, người bạn học của ông – công tố viên Humphrey đã thất bại trong vụ kiện này. Trong suốt bài diễn thuyết của mình, Scott tránh đề cập đến cuốn nhật ký, chiếc vé phạt đỗ xe, những cô nhân tình đã qua, sự làm tình hay bất cứ câu nói nào đề cập đến vai trò của Menzies trong cộng đồng. Nếu có người nào đến muộn mà chỉ nghe được phần kết của bài diễn thuyết có lẽ đã nghĩ rằng hai quý ông đang nói trong hai phiên xử khác nhau. Sự diễn đạt của luật sư Scott trở nên mạnh mẽ khi ông ta quay mặt lại bồ thẩm đoàn để nói phần kết. “Mười hai người các ngài,” ông nói, “đang nắm giữ số phận khách hàng của tôi. Vì vậy, các ngài phải chắc chắn, tôi nhắc lại, phải chắc chắn xem xét những bằng chứng để có thể khép Menzies vào tội giết người. “Đây không phải là một phiên tòa về cách sống của ông Menzies, vị trí của ông ta trong cộng đồng hoặc thậm chí là thói quen sinh hoạt tình dục của ông ta. Nếu như ngoại tình là một tội ác thì tôi sẽ cảm thấy tự tin để nói rằng sẽ không phải chỉ có ông Menzies trên vành móng ngựa kia, trong phòng xử án ngày hôm nay.” Ông ta tạm dừng, đảo mắt qua bồi thẩm đoàn. “Với lý do này, tôi biết rằng các ngài sẽ quyết định giải thoát cho khách hàng của tôi khỏi sự dày vò về thể xác và tinh thần mà ông ta đã phải chịu trong suốt bẩy tháng qua. Ông ta chắc chắn là một người vô tội và sẽ rất lấy làm cảm kích với quyết định của các ngài.” Luật sư Scott ngồi xuống và tôi cảm thấy ông đã đem tới cho khách hàng của mình le lói một tia hi vọng. Quan tòa nói với mọi người rằng ông ta sẽ kết luận vào sáng ngày hôm sau. Cuối tuần đó dường như vô tận đối với tôi. Vào ngày thứ hai, tôi tự thuyết phục bản thân là bồi thẩm đoàn sẽ thấy đủ bằng chứng để kết tội Menzies. Ngay khi phiên tòa bắt đầu dưới sự điều khiển của mình, quan tòa giải thích một lần nữa cho bồi thẩm đoàn rằng họ sẽ độc lập trong việc ra quyết định cuối cùng. Công việc của ông ta không phải là cho họ biết mình cảm thấy thế nào và khuyên họ quyết định phải dựa trên pháp luật. Ông ta trở lại với tất cả những bằng chứng, tạo dựng lại các sự kiện, nhưng ông ta không bao giờ ám chỉ đến quan điểm của ông. Khi kết thúc những lời tổng kết đã quá trưa, ông ta để cho bồi thẩm đoàn tự xem xét những quyết định của họ. Tôi chở đợi lời phán quyết với sự lo lắng chắc chắn gần bằng Menzies. Trong lúc đó, tôi lắng nghe những ý kiến khác nhau trong căn phòng nhỏ, từng giây trôi qua, cuối cùng, khoảng bốn tiếng sau, một biên bản đã được đưa cho quan tòa. Ông ta ngay lập tức yêu cầu bồi thẩm đoàn trở lại chỗ ngồi trong khi đám đông đã trở lại phòng xử án – trông như buổi họp dự thảo ngân sách của hạ viện. Viên thư ký tòa án nghiêm trang đưa tờ biên bản cho quan tòa Buchanan. Ông ta mở nó ra đọc, đó là quyết định mà chỉ có mười hai người trong bồi thẩm đoàn biết. Ông ta trao nó lại cho viên thư ký để đọc cho cả phiên tòa nghe. Quan tòa Buchanan có vẻ không bằng lòng, ông hỏi nếu như cho thêm thời gian thì liệu phán quyết của bồi thẩm đoàn có đạt được sự nhất trí không. Thế nhưng ông cũng hiểu rằng nếu không thể chứng minh được ông cũng đành miễn cưỡng phải đồng ý với sự phán xét của đa số. Bồi thẩm đoàn biến mất ở tầng dưới một lần nữa để tiếp tục bàn bạc thêm, và không trở lại chỗ ngồi trong ba giờ tiếp theo. Tôi có cảm giác vô cùng căng thẳng khi những người xung quanh bàn luận ầm ĩ. Viên thư ký tòa yêu cầu lập lại trật tự, quan tòa chờ cho đến khi mọi người ổn định rồ mới bảo viên thư ký tòa án tiếp tục. Khi viên thư ký tòa đứng lên, tôi có thể nghe thấy hơi thở của người ngồi ngay cạnh tôi. “Có ai đại diện có thể đứng lên được không?” Tôi đứng lên. “Mọi người đã biết lời phán quyết cuối cùng mà ít nhất mười người trong bồi thẩm đoàn đã đồng ý chưa?” “Chúng tôi đã hiểu, thưa ông.” “Vậy ông có cho rằng bị cáo Paul Menzies phạm tội hay không?” “Phạm tội,” tôi trả lời. Hết