°
° °Chị Bốn lấy nếp ra hông. Anh Bốn đi tập tự vệ về nhà chưa kịp đặt cây côn đã vác búa ra sân bửa củi. Nhà cửa quét dọn sạch sẽ, bàn thờ lau chùi sạch bóng. Cối chày nồi niêu nhà tôi và nhà chị Bốn cứ lịch kịch lốc cốc. Tôi nói với thằng Cù Lao:
- Mày về làng sướng chưa? Được tiếp như vua Bảo Đại! Tôi đang chờ đợi một sự kiện lớn xảy ra. Nhà tôi đóng góp vào bữa tiệc một khay xôi ngọt. Tôi được chị Ba giao việc giã nếp. Tôi giã hăng đến nỗi chị Ba phải giật chày bắt thôi, vì nếp đã trắng quá. Chị Ba vuốt nếp, hông xôi, nấu đỗ, trộn vào nhau, xéo với đường làm món xôi ngọt. Chị Ba bới tất cả vào một cái khay, ép xôi lại, rắc vừng. Mùi thơm của xôi bay ra, tưởng không có mùi thơm nào thơm hơn được. Tôi ngồi nhìn. Chợt tôi gọi chị Ba khe khẽ: - Chị Ba! Chị coi có miếng cháy... Chị Ba quắc mắt: - Đồ để cúng mà mày định ăn trước hả? - Một miếng cháy nho nhỏ thôi. Chị Ba càng la to: - Không có miếng cháy nào cả! Làm món xôi ngọt xong, chị Ba còn làm giúp bác Úc món bánh giò. Chị vuốt nếp, hông đỗ, lấy lá dong gói thành những chiếc bánh vuông vức to bằng đầu gối. Chị Bốn lấy ra một bó vải sợi, vác thang ra vườn chặt ba trái mít, đem đi chợ bán để sắm hương đèn mắm muối. Tôi cùng đi chợ để gánh giúp cho chị Bốn. Anh Bốn cho thằng Cù Lao cùng đi theo. Tôi với chị Bốn mỗi người gánh một gánh nhẹ đi trước. Thằng Cù Lao theo sau. Ra khỏi bờ keo vườn bác Úc, con đường hoá thênh thang. Bên trái là bãi dâu trải ra lớp lớp. Dọc đường, chốc chốc một hồ nước hiện ra như một tấm gương sáng quắc. Quanh hồ, những bụi tre xanh nghiêng nghiêng trên nước. Đường vào chợ càng rộn rịp. Gặp nhau ai cũng hỏi han chào đón. Chị Bốn khen: - Độ rày đi chợ sướng lắm! Ăn mày, ăn cắp bỏ nghề đi đâu mất! Chị Bốn lo bán vải sợi trước. Bạn hàng từ Bảo An lên mua sợi đi một hàng dài. Người nào cũng có một cái cân móc trên khuy áo trước ngực, trên vai vắt một khăn vuông to. Cuộn sợi nào cũng được người mua sờ bóp, được vạch ra xem rồi bị chê là sợi chưa nhỏ chưa đều. Cái khăn vải vắt vai của người mua phồng dần to bằng quả bưởi, sau to bằng cái cối. Bán vải xong, chị Bốn rẽ sang hàng hoa quả. Mít chất thành đống, có trái to bằng cái lu. Người mua lấy tay vỗ về. Bà hàng mít cầm con dao to, cắt phầm phập thành từng miếng hình lưỡi búa. Mít nghệ múi vàng hườm. Mít dừa múi trắng bạch. Mít dai hay mít mật mùi thơm đều thơm ngát. Bí với dưa gang gánh đến hàng giỏ. Bà bán hoa quả thấy thằng Cù Lao đội cái mũ nồi lạ lạ, liền nhặt đưa cho nó hai quả ổi nếp, hỏi thăm có phải nó ở Lục Tỉnh về không. Ai cũng tốt bụng, cũng muốn cho người khác một vật gì. Mọi người trong chợ đều vui vẻ. Ngay cả mụ Búp, mụ Xù trước đây hay gay gổ, chuyên nghề đánh cắp thịt cá, cũng trở nên hoà nhã hiền lành. - Mình là dân nước độc lập, Cách mạng lên rồi, “xớ” thịt cá của bà con chi nữa! Chị Bốn đứng trước đống dứa Chiên Đàn ngọt nổi tiếng. Cầm lòng không đậu, chị mua chục quả về bỏ mắm. Chị mua cho thằng Cù Lao một chùm lòn bon ăn cho biết. Lòn bon rất quý, trước Cách mạng chỉ để dâng vua. Chợ có chỗ bán tranh tre, than củi. Các bà bán than mặt mày đen thui. Những chú bán tre chân tay bị gai cào xây xát. Dây dừa khoanh thành khoanh. Dầu rái đựng thành gàu. Chè tươi bó thành bó. Ngô khoai vừng đỗ phơi đủ màu sắc. Thằng Cù Lao dừng trước hàng cá biển, nhìn chằm chằm, miệng há hốc. Không ngờ những loài vật nó thường vọc, thường bị kẹp, ở đây đều có đủ. Từ những con cua lớn tuy bị trói chặt nhưng vẫn ngo ngoe, những con tôm hùm lắm râu lắm càng, cho đến các loại cá cơm, cá nhám, cá chim, cá sòng sắp đầy mẹt đầy rổ. Thằng Cù Lao tưởng thấy lại mùa cá ở biển. Chúng tôi kéo sang hàng bán bánh đầy hấp dẫn. Bánh nậm bột mịn, nhân tôm sắp thành chồng. Bánh ú, bánh gio gói lá dong buộc thành chùm. Bánh bèo đổ trên bát, bát nào cũng nhẫy mỡ, rắc đầy nhân thịt với tôm. Bà bán bánh xèo đổ bột vào chảo chốc chốc nghe “xèo”. Bà bán bánh đa phe phẩy chiếc quạt tre, trở cán quạt ép bánh vào nồi lửa, bánh phồng giòn tan. Các cô hàng xén đến chợ chỉ gánh một gánh trên vai. Gánh đặt xuống biến thành cả một quầy hàng, hai đầu gánh lắp không biết bao nhiêu là mủng, cái nhỏ lắp trong cái lớn, đựng đủ các thứ trên đời, từ cây kim sợi chỉ, bánh xà phòng, mớ bồ kết, cho đến tiêu, hành, tỏi, ớt, hương, đèn, giấy mã, không sót thứ gì. Dù ai đã đi khắp thiên hạ, đọc hết sách vở, nhưng nếu chưa đến thăm chợ Quảng Huế thì trình độ vốn hiểu biết vẫn còn thấp. Chj Bốn mua mắm muối, dầu lạc, dầu dừa, thứ nào cũng chỉ đùm trong lá chuối hơ lửa, không biết bao nhiêu là đùm to nhỏ, chẳng cần phải chai lọ lỉnh kỉnh phiền phức. Tôi và thằng Cù Lao dạo chơi quanh chợ. Ở góc chợ là hiệu thuốc bắc. Tôi chỉ cho thằng Cù Lao thấy bức tranh vẽ một người trần truồng bị hàng trăm cây kim đâm vào đầu, vào tim, vào bụng. Thằng Cù Lao không hiểu người đó bị tội gì mà phải chịu một nhục hình ghê sợ vậy. Tôi giảng cho nó biết, đó là hình vẽ những huyệt trong thân thể người ta. Ai cũng có trăm thứ bệnh, chỉ cần lấy kim chích vào những huyệt đó thì bách bệnh sẽ tiêu tan. Trên một cái tủ đầy những hộc, tôi chỉ cho thằng Cù Lao thấy ba ông phúc, lộc, thọ làm bằng sứ. Ông nào trông cũng phương phi, cũng có vẻ thản nhiên phớt lờ. Đối với họ, chợ Quảng Huế đông hay không đông, thằng Cù Lao có đội mũ nồi hay không đội mũ nồi là điều không cần biết đến. Tôi dẫn thằng Cù Lao lượn qua chỗ bán chiếu, chỗ bán nồi đất, các quán bán mì quảng, nhìn ngang nhìn ngửa cốt để khoe với thằng Cù Lao cái hay cái lạ bày trong chợ.°
° °Lúc quay về nhà, trời đã xế. Đến tối, lợn đã mổ xong. Bà con đến giúp việc nấu nướng đều có mặt. Tất cả nồi niêu bát đĩa nhà tôi và nhà bác Úc đều được đem ra, gánh về nhà anh Bốn. Tiếng giã giò lốp bốp. Tiếng băm thịt lốc cốc suốt đêm. Lửa bếp sáng tận ngoài bờ tre. Chị Ba, chị Bốn hết hỏi món này đã giã hành chưa, món nọ đã rắc tiêu chưa, lại gọi tôi và thằng Cù Lao sai múc nước, lấy củi, khêu đèn, đánh chó. Các chị thò đũa vào nồi để khuấy. Hết khuấy lại ngửi, lại nếm. Lúc trời sáng, anh Bốn giao tôi đi mời khách trong làng. Anh Bốn mượn sẵn cho tôi cái áo dài đen. Cách đi đứng của tôi hoá khác. Bọn chó thấy tôi ăn mặc lạ lạ nổi sủa rất dữ. Tôi dắt thằng Cù Lao đi theo. Hễ gặp khách phải mời, tôi khoanh tay trước ngực lặp lại lời anh Bốn dặn:
- Hôm nay nhà anh Bốn Linh tôi có giỗ, nhân cũng để mừng chú Hai tôi về làng, mời bác đúng giờ ngọ lại nhậu rượu! Đi hết xóm trên, tôi ra ngoài vạn để mời ông Hoạt. Ông Hoạt đang ngồi trong thuyền. Tôi không thể đứng khoanh tay, phải chui vào thuyền, phải ngồi xếp lại nên gặp nhiều lúng túng. Ông Hoạt đang nói chuyện với ông Mười Ý. Ông Mười Ý hỏi to: - Mày mời ông Hoạt, thế có mời tao không? Tôi không biết nên giải quyết thế nào. Nhớ rõ anh Bốn không dặn mời ông Mười Ý, tôi nói dứt khoát: - Không mời. Cả thuyền cười ồ. Chui ra khỏi thuyền ông Hoạt, tôi đến xóm giữa để mời ông Bảy Hoá. Tôi sực nhớ ông Bảy vừa mua đâu về một con chó mun rất dữ. Phen này thấy tôi xúng xính trong chiếc áo dài, chắc nó không tha. Tôi sợ chó cắn, cái sợ tăng dần. Tôi quay lại gạ thằng Cù Lao: - Mày biết ông Bảy Hoá không? Nó trả lời liến thoắng: - Ngày bữa gì, ông Bảy Hoá có một vết sẹo trong mông. Nghe nói chuyện lạ vậy, tôi bực mình nói xẵng: - Cái vết sẹo đó có trời biết! Tao biết ông Bảy Hoá có râu thôi. Nhưng nghĩ đến con chó dữ của ông Bảy Hoá, tôi dịu giọng: - Thôi được. Áo dài đây, cho mày mời ông Bảy một cái cho sướng! Tôi vừa nói vừa cởi áo dài đưa cho thằng Cù Lao. Nó sướng ra mặt vì nó cũng thích được đi mời như tôi. Thằng Cù Lao vào nhà ông Bảy. Tôi ngồi đợi ngoài ngõ. Đợi mãi chẳng thấy nó quay ra, tôi buộc phải gọi to. Con chó mun của ông Bảy chạy vụt ra, thấy tôi thập thò, nó xông vào đuổi cắn. Tôi phải vừa bước thụt lùi vừa chống đỡ. Một lúc sau thằng Cù Lao mới chịu hiện ra. Nó còn khoe với tôi là nó được ông Bảy đãi mít. Sau khi ăn mít, nó còn được xem tranh vẽ Thập Điện Diêm Vương trên bàn thờ thần trong nhà ông Bảy.°
° °Khi tôi và thằng Cù Lao quay về đến nhà, cỗ bàn đã dọn sẵn. Khách khứa đến đông đủ.
Anh Bốn Linh, khăn áo chỉnh tề, thắp hương đèn bắt đầu làm lễ. Tôi đang chờ anh Bốn bái hai bái rồi thụp xuống lạy như mọi khi. Nhưng anh Bốn đứng yên, hai tay buông thõng, cúi đầu nhắm mắt. Chợt anh ngẩng lên nói oang oang: - Thưa bà con cô bác, thôn Hoà Phước chúng ta thiệt đáng tự hào! Xưa kia có ông Bùi Kiệt theo đảng Cần Vương bỏ nhà ra đi mưu đồ việc lớn. Ai cũng tưởng ông bị Tây giết. Vừa rồi mới biết ông thoát lên núi. Con cháu của ông còn sống ở Dùi Chiêng. Sau hôm cướp chính quyền, cháu nội của ông là ông Hội Hiệt về đây tìm lại họ hàng tông tích. Như vậy cách mạng đã trả lại làng xóm tổ tiên... Chú Hai Quân chúng tôi trước đây không chịu áp bức, bỏ làng ra đi, bụng dạ luôn luôn hướng về cách mạng. Nay nước nhà độc lập. Đất lành chim bay về đậu. Về đây chú thấy bà con ai cũng tham gia cách mạng, vui đó không chi sánh kịp. Hôm nay nhà có giỗ, lại có chú Hai chúng tôi về, mời bà con đến cầm chén rượu nhạt... Chợt anh Bốn Linh vung cao nắm đấm hô to: - Cách mạng muôn năm! Tiếng hô bất ngờ, chỉ thầy Lê Hảo hô theo. Trên bàn thờ, hai ngọn nến run run. Như vậy, theo mẹ tôi, là vong linh ông bà đã về hưởng. Tôi đợi anh Bốn tắt đèn, cho hạ cỗ bàn. Anh Bốn vẫn nghiêm trang: - Xin mời chú Hai phát biểu ý kiến. Chú Hai bị gọi bất ngờ, giật thót. Chú iệp đây. Phải mở cửa mau mau ra đón. Gặp thằng Cù Lao bà nói: - Tao nhớ đến thằng con của tao. Nó cũng tướng đói như mày. Bà thò tay lên cái gáo trên giàn. Bốn quả bồ quân theo tay bà xuống nằm trên cái bát. Bà bốc hai quả đưa cho tôi. Tôi lắc đầu không ăn. Chị Ba đã dặn không được ăn bồ quân của bà. Chị Ba giảng giải: - Bà Hiến không chết là nhờ cây bồ quân. Bà hái bồ quân đi đổi gạo. Mày ăn bồ quân của bà thì bà chết đói. - Ăn một vài quả thì ra răng? - Một quả cũng không được ăn. Bà nghèo lắm! Bà Hiến bốc hai quả đưa cho thằng Cù Lao. Tôi nháy mắt ra hiệu cho nó đừng ăn. Nhưng nó đã bỏ một quả vào mồm. Tôi trợn mắt ra hiệu rõ hơn. Thằng Cù Lao bỏ nốt quả thứ hai vào mồm nhai rau ráu, nuốt nghe ừng ực, ăn nhanh như cọp đói. Bà Hiến lấy thêm cho nó năm quả. Lần này, tôi phải ra hiệu bằng cách lắc đầu, dậm chân. Nhưng chỉ trong nháy mắt, tất cả bồ quân đã biến mất. Lúc về, tôi thấy cần phải cho thằng Cù Lao một bài học: - Nè Cù Lao! Mày làm bà Hiến chết đói rồi! Nó mở tròn mắt: - Răng? - Bà chết đói chớ răng nữa? Mày ăn hết bồ quân của bà. Bà chẳng còn gì để đổi gạo. Bà chết đói là tại mày! - Thế tui đã lỡ thì răng? - Mày phải mua bồ quân đem trả lại bà. Từ rày không được ăn cái gì của bà, nghe không? Ở đây người ta bảo “ăn phải coi nồi” là vậy đó. Tuy bụng mình đói meo, nhưng phải nói: “Tôi no quá, ăn không được nữa”. Có muốn ăn cũng phải thong thả. Bụng có cồn cào cũng phải đợi người ta mời năm lần bảy lượt mới cầm đũa. Khi cầm đũa phải gắp ít ít, không được luôn luôn thò vào món ngon. Đó là lễ nghĩa, chị Ba dạy vậy, nghe chưa? Thằng Cù Lao vểnh tai nghe. Nó đồng ý là về làng, nó phải giữ lễ nghĩa. Lúc còn ở ngoài cù lao, cha nó đã từng dặn: Tuy về quê cũ, nhưng cũng như lội sông, chớ có láu táu, người ta chê cười cho đó!°
° °Ban cứu tế cũng đã dựng xong cho bà Hiến một cái nhà một gian hai chái. Cái nhà mới của bà trông bề thế nhưng chẳng có gì hấp dẫn đối với tôi. Nó giống như mọi nhà khác trong làng. Tôi ngồi chéo chân chỉ lên nóc nhà:
- Nhà mới này chẳng thích đâu. Bảo làng làm lại cái nhà như nhà cũ. Cái nhà cũ thích hơn. Tôi chỉ lên gian giữa: - Sao không đem nhãn chè, nhãn chai dán lên như cũ?... - Chỗ đó tao sẽ dán ảnh một người... - Người nào? - Người đã cứu nàng Phấn Điệp. Thằng Cù Lao rất thích đến chơi nhà bà Hiến. Đến đây nó được ăn nói tự do. Nó nói thẳng với bà là từ này trở đi nó không ăn gì của bà nữa, dù chỉ một trái bồ quân. Ăn như vậy, bà sẽ lăn đùng ra chết đói, nó phải vạ lây. Tốt nhất là đừng ăn. Bà Hiến bảo nó cứ ăn, bà không chết đâu mà sợ. Xưa kia nhiều lần bà muốn chết, nhưng bây giờ bà muốn sống. Thằng Cù Lao hỏi lúc bà muốn chết có phải là lúc bà bị cái chấm đen lan dần hay không? Nó còn biết xưa kia bà Hiến rất đẹp. Bà cũng giỏi nghề canh cửi vá may. Có lúc nhà giàu đã thuê bà khóc mướn. Nó hỏi nhỏ bà:- Có phải người ta thuê bà đi khóc mướn không? Bà cười héo hắt: - Mày ở cù lao Chàm làm răng biết được? Ở đây nhà giàu khi chết đưa ma to lắm. Họ thuê bọn con gái diện bảnh theo sau linh cữu để khóc lóc. Tao đã khóc như khóc cha mẹ mình chết vậy!... - Thế còn ông Hiến đánh bà thế nào? - Ông cột tao vào chân giường, đánh nổi lằn khắp mình mẩy. Trước kia ông rất hiền lành, ăn ở phải đạo. Sau đó ông bỏ làng đi. Ông nói sẽ mang tiền về làm toà ngang dãy dọc. Nhưng ông về với một hình ma tướng cóc. Tao phải nuôi cho đến khi ông chết. - Thế khi ông chết, bà có khóc không? - Tao khóc mãi. Ông bỏ tao! Tao nhớ, tao thương ông lắm! Nói đến đây, bà Hiến lại khóc thút thít.