ôi đã tìm cho anh ấy một người luật sư đấy”, Caleb mở lời, “Anh chàng này cũng còn trẻ mà lại không đắt tiền như những tay lão luyện khác, nên cũng không chắc kết quả có khả quan không. Nhưng phần nào đó tôi cũng giúp cho Reuben khi nói dối với đám cảnh sát rằng Reuben ở tại hiện trường theo yêu cầu của tôi, để kiểm kê số sách thu thập và đó là lý do anh ta có chìa khóa và mã số mở cửa. Tôi cũng bổ sung thông tin tên tuổi của luật sư của Jonathan trong trường hợp họ biết chức danh của tôi là người phụ trách bản thảo của ông ta”. Milton và Caleb đang ngồi trong nhà của Stone, cái tin Reuben bị bắt vì phạm tội giết hại Cornelius và cô ả bạn gái của gã đã làm khuôn mặt mọi người lo lắng. “Anh ta có được tại ngoại không?”, Milton hỏi. Stone lắc đầu, “Họ có rất nhiều nghi vấn xung quanh việc anh ta đang có mặt tại hiện trường cũng như tình tiết vụ việc. Chỉ hy vọng thông tin mà Caleb đưa ra sẽ giúp họ giảm nhẹ mức án mà thôi”. Caleb nói thêm, “Sáng nay tôi có gặp Reuben một lúc. Anh ta kể rằng anh ta đang quan sát nhà của Behan thì tự nhiên phát giác ra đám cháy và sau đó bị đánh vào đầu bất tỉnh. Khi tỉnh dậy, anh thấy Behan và bạn tình của hắn đã chết. Rồi khi anh ta ráng thoát ra khỏi rắc rối thì lại bị cảnh sát bắt”. “Những tờ báo đưa dòng tít lớn rằng ngài tài phiệt của chúng ta đã bị ám hại chung với cô nhân tình lõa thể, trong khi quý phu nhân thì lại đang chu du ở New York tối qua”, Milton thêm vào. Stone hỏi, “Chúng ta cần phải tìm ra sát thủ thật sự”. Milton thắc mắc, “Liệu bằng cách nào đây?” “Bằng cách tiếp tục cuộc điều tra của mình”. Ông nhìn thẳng Caleb và tiếp, “Chúng ta cần phải xem qua những đoạn băng của máy quay phim tại thư viện”. “Susan có bảo sẽ hỗ trợ tôi phần này mà tới giờ cũng chưa thấy cô ấy có động tĩnh gì”. “Tôi e là anh phải tự thân vận động thôi”. Caleb có vẻ ngạc nhiên nhưng cũng không hỏi lại Stone. Stone tiếp tục trình bày, “ Vậy là bây giờ chúng ta cứ kết luận rằng Behan và Bradley không phải là bạn, lúc trước tôi từng nghĩ rằng Behan đã nhờ người ám sát Bradley, và giả thuyết đó vẫn đúng, chỉ có điều là ai đã giết Behan và tại sao lại làm vậy?” Milton đặt giả thuyết, “Hay là trả thù cho cái chết của Bradley?” “Nếu vậy, chúng ta phải truy tìm đầu mối bằng mọi cách, tôi cần biết về tên tuổi nhân viên của Bradley, cộng sự, bạn bè trong quân đội hay lĩnh vực tình báo, đó là những người có khả năng và cả phương tiện để hành động”. Milton tán thành, “Có một thứ gọi là Thư mục không trúng cử có thể hữu ích cho chuyện này. Có điều đụng đến người quân đội, hay tình báo cũng mất khá nhiều thời gian đấy”. “Kẻ nào đã giết hại Behan chắc chắn biết đến sự có mặt của Reuben ở đó, và gài bẫy anh ta, đồng nghĩa với việc chúng cũng đang theo dõi căn nhà”. “Ý anh là những kẻ ở căn nhà đối diện mà Reuben đề cập phải không?”, Caleb đánh bạo nêu ý kiến. Stone lắc đầu phủ nhận, “Không phải vậy. Vụ hỏa hoạn sẽ do đồng bọn của tên sát thủ dựng ra, bọn chúng thừa biết vụ theo dõi đang diễn biến ra sao, và việc phóng hỏa chỉ là chiêu đánh lừa và tạo cơ hội cho chúng vào nhà, giết Behan và tẩu thoát”. “Kế hoạch hay nhỉ”, Caleb ca tụng. Stone trả lời, “Bây giờ tôi vào thành phố thăm Reuben đây”. “Họ có hỏi căn cước hay gì không, Oliver?”, Milton hỏi. “Họ có hỏi, nhưng lần trước khi tôi bị kiểm tra, cho dù không có cũng không gán là có tội”. “Tôi tin là Susan có thể tìm cho anh một thẻ căn cước đấy”, Milton lên tiếng, “Cô ta có vài thứ đồ của dân FBI nhìn cứ như thật”. Caleb hùa theo, “Mà cô bạn đồng nghiệp gan dạ của chúng ta đâu rồi nhỉ?” “Cô ấy có vài kế hoạch khác rồi”, Stone trả lời. Jerry Bagger ngồi trong phòng làm việc với vẻ ủ rũ thất bại hiếm có đối với một người như hắn. Những tấm hình của Annabelle và Leo đã được thận trọng gửi đi vào thế giới ngầm và tới giờ vẫn chưa có ai nói ra được hành tung của họ. Điều đáng ngạc nhiên ở đây không phải là chuyện không có một bức hình rõ ràng nào của hai kẻ đó, mà là việc có cảm giác họ biết chỗ nào có gắn máy theo dõi vậy. Hiện tại, cho dù người của hắn đã làm hết sức để ngăn chặn thông tin những tên lừa bịp đã tìm đến ngài Bagger đáng kính thì nó vẫn ít nhiều bị lộ ra, và điều đó có khi lại càng gây bất lợi hơn cả sự thật, bởi vì nó tạo điều kiện cho suy đoán và lời đồn nhảm. Tóm lại, hắn hiện là tâm điểm của những lời đùa cợt, và việc đó chỉ khiến gã thêm điên tiết, quyết tâm phải tìm được cặp nam nữ kia, xẻ thịt họ qua máy cưa trong lúc hắn điềm nhiên ngồi quay hình lại cảnh tượng rùng rợn nhất trên đời này. Phòng của họ đã bị lục soát kỹ lưỡng, tuy vậy không tài nào tìm ra một vết vân tay nhỏ, thậm chí ngay cả ly uống nước của họ cũng được lau sạch dấu vết. Còn cái điện thoại di động mà Annabelle ném bay vào tường đã nằm gọn trong sọt rác và bây giờ đang chu du đến khu đổ rác nào đó của bang Jersey cả cái cửa sổ trong bốn ngày cũng che dấu hành tung của họ. Bagger vò đầu, hắn chính là kẻ đã quyết định tăng thêm thời gian, và cũng chính hắn đã tự đưa mình vào tròng. Con quỷ cái đó đã lên hết những kế hoạch như vậy, nó đưa cho mình cái thòng lọng, còn mình tự xiết dây. Hắn đứng dậy và tiến về phía cửa sổ. Hắn luôn tự hào mình là kẻ đánh hơi ra những mưu mô như vậy trước khi có kẻ thực hiện nó và gây hại cho hắn. Nhưng hắn phải tự nhận đây là lần đầu tiên chính hắn là đối tượng của vụ lừa gạt, trong khi tất cả những lần khác đối tượng lại là sòng bạc của hắn. Đó chỉ là những mưu mô ngắn hạn, nhằm lừa tiền từ những bàn xì-phé, ru-lét của hắn mà thôi. Lần này thì khác, chỉ huy vụ bịp lần này là một phụ nữ biết chính xác muốn gì, và sử dụng tất cả những mánh khóe mà ả có, ngay cả cái thứ xưa như trái đất là tình dục. Nhưng hắn phải công nhận ả nhập vai rất tốt, hắn vẫn còn nhớ như in những câu chuyện ả bịa ra, việc ả ngắt và mở hệ thống nghe trộm đúng lúc, ngay cả việc ả đã làm cho hắn tin tưởng ả là gián điệp chuyên nghiệp làm việc cho chính phủ. Chính những tiểu tiết như vậy đã góp phần làm cho hắn tin cả câu chuyện bịa to lớn hơn đằng sau. Hắn liếc ra ngoài cửa sổ, trí óc liên tưởng đến cú điện thoại, cái cú điện thoại hẹn gặp gã sau khi cô ả giả vờ khám phá ra đám cận vệ của hắn đang bám theo. Hắn đã nói dối ả rằng hắn đã ra rời văn phòng, trên đường ra khỏi thành phố, còn ả thẳng thừng chỉ rõ hắn đang ở trong chính văn phòng. Chính từ lời nhận xét đó đã làm cho hắn tin tưởng ả hơn, rằng đám người nào đó đang theo dõi hắn. Theo dõi ư? Hắn nhìn vào cái khách sạn cao hai mươi ba tầng trên đường Boardwalk, tương tự như tòa nhà của hắn, nơi dãy cửa sổ trông thẳng qua văn phòng của hắn. Đồ khốn nạn! Thế là đủ rồi! Hắn gào lên với tên vệ sĩ. Sau vài thứ thủ tục, chất vấn phiền hà và cả cú điện thoại cho luật sư của Reuben, cuối cùng Oliver cũng được vào thăm bạn trong tù. Khi cánh cửa nhà tù đóng lại phía sau lưng ông, Stone hơi giật mình. Trước đây, dù gì ông cũng từng ở tù, cho dù không phải là nhà tù Mỹ. Không, cũng không hẳn, ông tự bào chữa, vì lần chất vấn gần đây nhất của ông là do những người Mỹ đồng hương thực hiện ngay chính trên đất Mỹ mà. Cho rằng căn phòng thăm thân nhân được theo dõi chặt chẽ, Stone và Reuben nói nhỏ vừa đủ nghe, và chỉ sử dụng những từ ngữ vừa đủ, thậm chí Stone cũng bắt đầu gõ nhịp chân xuống sàn. Reuben suy đoán, “Anh cho rằng âm thanh có thể làm rối thiết bị nghe trộm điện tử à?” “Cũng không hẳn thế, nhưng điều đó làm tôi thấy thoải mái hơn”. Reuben mỉm cười và cũng bắt đầu nhịp chân, “Vụ hỏa hoạn?”, ông thì thầm. “Vâng, tôi biết”, Stone trấn an, “Anh ổn chứ?” “Chỉ bị một cú vào đầu, luật sư của tôi sẽ xem đó là một lời biện hộ cho vụ này”. “Thế còn dấu vân tay trên súng thì sao?” “Không cố ý chạm phải”. “Caleb có lý giải với đám cảnh sát rằng anh đang ở đó canh sách thôi”, Reuben gật đầu, “Còn gì khác không?” Reuben lắc đầu, “Tôi chỉ quan tâm tới vụ điều tra của chúng ta, mà thấy sự việc có vẻ lắng xuống”. “Vẫn đang tiến triển, tình hình là vậy”. “Giữ liên lạc với nhau phại càng khiến hắn thích thú bấy nhiêu. Tay sếp này biết rất ít về những hoạt động trong quá khứ của hắn cho Cục, vì rõ ràng câu lạc bộ ba số sáu của hắn được bưng bít thông tin gần như tuyệt đối, điều dễ hiểu thôi. Tuy vậy, gã lại biết rất rõ việc Seagraves đã làm việc nhiều năm cho lĩnh vực tình báo, và được Cục cho leo lên hàng “đỉnh”. Cũng vì những lý do đó, Seagraves nhận được nhiều sự kính trọng hơn mấy tay ngang hàng với hắn. Trở lại khu giữ đồ, trong lúc đợi tay sếp tắm táp, Seagraves mở hộc tủ và lấy khăn tắm ra. Hắn lau mặt và lau khô tóc. Rồi cả hai cùng lái xe đến trung tâm Reston và dùng bữa tối tại nhà hàng Clyde, cùng ngồi thưởng thức các món ngon gần lò sưởi trong không khí ấm cúng của nhà hàng. Sau đó, cả hai tạm biệt nhau, và mỗi người đi mỗi ngả. Seagraves đợi tay sếp lái xe chạy đi, rồi thong dong tản bộ xuống khu đường chính của trung tâm, hắn dừng trước một rạp hát. Rạp hát, công viên và những nơi công cộng đại loại như vậy là nơi cung cấp tài liệu và nhận tiền của đám tình báo trước đây. Seagraves có thể hình dung ra cảnh trao tay một gói bắp rang, mà bên trong chắc chắn chứa những thứ quan trọng hơn chỉ là bơ, tuy tế nhị, nhưng hoạt động tình báo kiểu vậy có vẻ vụng về. Rõ ràng là hắn đã thực hiện việc trao đổi với tay trưởng ban mà chắc hẳn kẻ nào cho dù có quan sát cũng không nhìn ra được. Đám CIA hầu như chưa bao giờ thực hiện những màn theo dõi hai nhân viên gặp gỡ, đặc biệt là chơi vài ván quần vợt và ăn tối với nhau. Khái niệm về những tay đặc vụ truyền thống cho rằng đó là hành động một mình, nên đó cũng là lý do hắn mời tay sếp ngây thơ làm tấm bình phong cho mình. Hắn lái xe về nhà, cầm chiếc khăn tắm mang theo từ tủ đồ, bước vào một gian phòng nhỏ ở tầng hầm, ẩn sau vách tường ngụy trang. Đó là một dạng “két sắt” của hắn, nơi không ai được phép dòm ngó. Hắn để khăn tắm lên bàn và với tay lấy chiếc bàn ủi hơi nước. Biểu tượng của trung tâm thể thao được may thẳng vào bề mặt khăn, có điều nếu khăn này là khăn của khu trung tâm đó. Bản sao cũng tạm chấp nhận, có điều cái lô-gô chỉ dính hờ lên trên nền vải, kiểu mấy miếng dán được là lên quần áo của trẻ nhỏ. Miếng lô-gô nhanh chóng bị tróc ra và mặt sau của nó là thứ mà Seagraves phải trầy trật đổ mồ hôi sau 3 ván quần vợt mới có được: đoạn băng ghi âm dài đúng 4 inch. Sử dụng một dụng cụ phóng đại khá tinh vi, mà chỉ có những người giữ chức vụ quan trọng mới được sở hữu, hắn bắt đầu đọc và giải mã thông tin trên đoạn băng ghi âm. Sau đó hắn lại mật mã hóa đoạn băng, sắp xếp thành hình thức thích hợp và gửi cho Albert Trent. Hắn mày mò làm đến tận khuya, nhưng có hề gì, khi đóng vai là sát thủ, hắn thường phải làm việc lúc khuya như vậy, và những thói quen cũ khó mà bỏ được. Hắn còn một việc nữa để làm trước khi ngày kết thúc. Hắn đến ngăn tủ đặc biệt của mình, mở khóa, tắt hệ thống bảo vệ và bước vào trong. Mỗi ngày hắn đến đây một lần để nhìn bộ sưu tập của mình. Tối nay, hắn đã tìm thêm một thứ nữa, dù hắn thấy hơi bực mình khi chỉ có một cái, đáng lý phải là một cặp. Hắn lôi thứ đó ra khỏi túi áo khoác. Đó là khuy áo măng-sét của Cornelius Behan mà một cộng sự của hắn hiện đang làm việc cho Công ty Cứu hỏa đã đưa cho hắn. Chắc là Behan đã làm rơi nó khi đi thăm khu nhà kho, một cuộc viếng thăm đã dẫn đến cái chết của hắn. Behan đã có thể phần nào đoán ra cái chết của Jonathan và hắn không được phép tiết lộ thông tin cho bất cứ ai. Seagraves đặt khuy áo măng-sét lên một cái kệ nhỏ trong phòng cạnh một cái yếm của trẻ em. Hắn vẫn chưa có thứ gì của cô gái hắn đã bắn, nhưng hắn sẽ tìm ra được tông tích của cô ta và lấy thứ gì đó. Hắn đã bắn Behan đầu tiên, gã nằm quỵ xuống sàn, và chừa một khoảng trống để hắn dễ xử lý luôn cô ả. Hắn vẫn còn nhớ rõ lúc đó, cô ả vẫn đang quỳ gần cửa sổ và nhìn ra phía viên đạn đầu tiên được bắn ra. Seagraves không biết liệu cô ả có thấy hắn hay không, nhưng điều đó không quan trọng nữa. Hắn cũng chẳng cho ả có cơ hội rên la, vì viên đạn bay thẳng vào khuôn mặt xinh đẹp của ả. Đám tang với quan tài đậy kín sẽ dành cho cả hai vì vết thương ra lúc nào cũng nặng hơn vết thương vào cả. Khi hắn nhìn đến khoảng trống kế bên cái khuy măng-sét, hắn tự hứa với lòng sẽ tìm cho ra một vật của ả ta và như vậy bộ sưu tập của hắn sẽ luôn được cập nhật mới hoàn toàn. Và hắn thích thế.