CHƯƠNG 4

    
oger Seagraves nhìn qua bàn hội thảo thấy đôi mắt sưng húp của một người đàn ông và những món tóc đen bóng dầu được chải ngang để che lấp phần da đầu bong vảy một cách vô vọng. Vai và chân người ấy ốm khẳng khiu nhưng lại béo phần bụng và mông. Dù vẫn còn ở độ tuổi bốn mươi nhưng có lẽ hắn ta vẫn có thể chạy bộ gần hai mươi yards1 trong những tình huống nguy khốn mà không vấp ngã. Nhấc một giỏ rau quả lên chắc chắn sẽ là một hạn chế với sức mạnh phần thân gầy ốm của hắn ta. Hắn ta cũng có thể là một tấm áp phích quảng cáo cho sự giảm sút thể chất của phái mạnh thế kỷ 21, Seagrave nghĩ. Hắn cảm thấy khó chịu về ý nghĩ đó vì thể hình cân đối luôn luôn đóng vai trò hết sức quan trọng trong cuộc đời hắn.
Mỗi ngày hắn chạy năm dặm2, kết thúc phần luyện tập trước lúc mặt trời lên cao. Hắn có thể hít đất chống đẩy một tay và đưa một chân lên bằng ghế đá để gập người, số lần gấp đôi trọng lượng cơ thể của mình. Hắn có thể giữ hơi thở dưới nước trong bốn phút và thỉnh thoảng chơi với đội bóng đá trung học gần nhà ở phía tây hạt Fairfax. Không một ai ở tuổi bốn mươi như hắn có thể đuổi kịp những thằng nhóc ‘mười bảy tuổi bẻ gãy sừng trâu’ thế mà hắn chưa bao giờ rớt lại phía sau bọn nhỏ. Đối với công việc trước kia của hắn, tất cả những kỹ năng này được dùng để phục vụ cho một mục đích duy nhất: giữ mạng sống cho mình.
Hắn trở lại chú ý người đàn ông phía bên kia bàn. Mỗi lần hắn thấy cái sinh vật ấy, một phần trong hắn muốn bắn thẳng vào trán tên đó một phát cho hắn ta phải sống đời thực vật. Nhưng không có một người tỉnh táo nào lại giết con ngỗng vàng hoặc, trong trường hợp này là con chuột vàng của mình cả. Seagrave thấy tên đồng bọn thể hình xấu xí nhưng dù sao hắn vẫn đang cần gã.
Sinh vật ấy tên Albert Trent, một kẻ có đầu óc thông minh dù bộ dạng khốn khổ. Trent là một nhân tố quan trọng trong kế hoạch, có lẽ những chi tiết tối quan trọng - thật sự mà nói - là ý tưởng của tên này hết. Chính vì vậy, Seagraves mới chấp nhận hợp tác với hắn ta.
Hai người đàn ông này từng nói chuyện với nhau một lần nhân dịp lễ kỷ niệm của các đại diện CIA đến Ủy ban Tình báo thường trực mà Albert Trent đang là một thành viên nổi bật. Sau đó bọn chúng kiểm soát những mẩu tin tình báo thu nhặt được từ khu mật thám ở Langley và các cơ quan thuộc kho thuốc nổ ma quỷ của chính quyền Mỹ. Những thiết bị này dò xét bạn từ trên vũ trụ, thông qua điện thoại, fax, thư điện tử và thỉnh thoảng ngay trên vai bạn.
Tiệc tàn, hai người đàn ông ngồi lại và uống cạn cốc cà phê. Seagraves vẫn chưa tìm được người nhân viên nào có thể pha một tách cà phê ngon theo đúng ý mình. Có lẽ tại loại nước uống dùng để pha cà phê ở đây.
“Ngoài trời gió thổi mạnh lắm”, Trent nói, mắt dán chặt vào cuốn chỉ thị chiến thuật trước mặt mình. Hắn ta vuốt phẳng cái cà-vạt đỏ nằm phía trên thân thể nhão nhoẹt và chà mũi.
Seagraves đưa mắt nhìn ra cửa sổ. Được thôi, đến lúc rồi, phòng trường hợp ai đó đang nghe trộm. Ngày nay không có nơi nào vắng những đôi tai tọc mạch, nhất là ở điện Capitol. “Gió đang tràn vào, tôi đọc báo thấy thế. Có lẽ trời sẽ mưa chút ít, mà cũng có thể là không mưa”.
“Tôi lại nghe là có thể có bão”.
Seagraves hoạt bát hơn khi đề cập đến vấn đề này. Một cơn bão luôn thu hút sự chú ý của hắn. Chủ tịch Hạ viện Bob Bradley đã từng là một cơn bão đấy thôi. Giờ ông ta đang nằm dưới ba tấc đất ở quê hương Kansas của mình với một bó hoa héo rũ trên bia mộ.
Seagraves cười, “Anh biết họ nói sao về thời tiết đấy: mọi người bàn tán về thời tiết, nhưng chẳng ai làm được gì với thời tiết cả”.
Trent cũng cười lớn, “Ở đây mọi việc có vẻ rất yên ổn. Chúng ta luôn cảm kích sự hợp tác của Cơ quan Tình báo Trung ương”.
“Anh không biết à? Chữ ‘C’ tượng trưng cho sự hợp tác”.
“Chúng ta vẫn dự tiệc buổi chứng nhận vào thứ Sáu hả?”, Trent hỏi, ý muốn nói đến phó giám đốc mật vụ của CIA.
“Vâng. Và phía sau những cánh cửa đóng kín chúng ta có thể rất thật thà nữa là”.
Ông khéo léo vươn người ra khỏi cái nắm tay của bà, nhưng bà vẫn không buông ra, “Dạ, tôi phải xem lại lịch làm việc. Tôi sẽ báo cho bà biết khi bà đến thư viện lần tới, bà cứ hẹn ngày nào cụ thể, tôi sẽ sắp xếp!”
Giọng bà mời gọi, “Caleb à, lúc nào mà tôi chẳng rảnh”. Bà chớp chớp đôi lông mi giả về phía Caleb.
“Điều đó thật tuyệt”, ông lại cố vặn tay mình ra khỏi tay bà lão, nhưng bà vẫn nắm chặt.
“Vậy bây giờ mình hẹn ngày luôn nhé”, giọng bà ta nhẹ nhàng.
Trong lúc khó xử, ông nhìn về phía cụ ông Janklow, lúc này cũng bắt đầu quan sát họ. Chính ông ấy và bà cụ Jewell này cũng đang giành giật thời gian của Caleb giống như hai con sói đang dành miếng thịt bò béo bở. Đáng lý giờ này ông phải đến bên cạnh trò chuyện với ông cụ, nếu không muốn ông ấy phàn nàn hàng tuần về điều đó. Và cũng chính vì điều đó, Caleb chợt nảy ra một ý.
“Bà Jewell này, tôi tin rằng, nếu bà hỏi ông Norman, có khi ông ấy cũng thích đàm đạo về quyển sách mới của Beadle lắm đấy. Chắc giờ ông ấy cũng đã hối hận về việc chỉ trích lúc trước lắm rồi”.
Bà ta lập tức buông tay ông ra, giọng gắt gỏng, “Tôi chẳng có thời gian nói chuyện với bọn người nguyên thủy mọi rợ đó”, rồi mở túi xách cho ông kiểm tra trước khi rời phòng.
Caleb mỉm cười nhẹ nhõm, xoa tay và dành chút thời gian còn lại với Janklow, thầm cảm ơn ông ta vì đã giúp tạo điều kiện rời khỏi bà cụ. Sau đó ông quay lại bàn làm việc.
Tuy vậy, đầu óc ông vẫn lan man nghĩ ngợi đến những chuyện đã xảy ra, từ quyển sách Thánh ca bí mật, cái chết của Jonathan, cái chết của Chủ tịch Hạ viện, “Bob” Bradley, và cuối cùng là Cornelius, tên tài phiệt giàu có, mà rõ ràng gã ám sát chính người hàng xóm của mình.
Và cuối cùng ý nghĩ của ông đã quay trở lại với bản thân, trở thành thủ thư chỉ vì ông ghét áp lực, nhưng biết đâu ông lại thích hợp làm cho CIA hơn chăng, nhất là những lúc rảnh trong giờ làm việc chẳng hạn.
Chú thích

1.Quỹ hưu trí 401(k) là một hình thức bù đắp công lao của người lao động khi chủ hãng mở một quỹ hưu mang tên người lao động và đều đặn bỏ vào quỹ một phần lương chưa đóng thuế của người này. Với chương trình trợ giúp hưu trí 401 (k), người công nhân không phải đóng thuế tạm thu trên phần lương bỏ vào quỹ vì số tiền này không ghi trên bảng lương, nhưng họ phải đóng thuế An Sinh Xã Hội (FICA) và Y Tế trên nguồn lợi tức trích bỏ vào quỹ hưu 401(k).
2.Aldrich Ames: Điệp viên làm việc cho cả CIA và KGB (Uỷ ban An ninh Quốc gia Nga). (Bị bắt ngày 21/2/1994).
3.Francis Scott Key Fitzgerald (24 tháng 9 năm 1896 - 21 tháng 12 năm 1940) là một nhà văn Mỹ, nổi tiếng với các tác phẩm về "Thời đại nhạc Jazz"