T ướng quân Lý Quảng là người huyện Thành Kỷ đất Lũng Tây. Tổ tiên là Lý Tín đời Tần làm tướng đuổi bắt được thái tử Đan nước Yên. Trước đấy ở Hòe Lý, sau dời đến huyện Thành Kỷ. Nhà Quảng đời đời học bắn cung.Năm thứ mười bốn đời Hiếu Văn Đế (năm 166 trước Công nguyên) người Hung Nô đem đại quân vào đánh Tiêu Quan, Quảng lấy tư cách con nhà lương thiện tòng quân đánh quân Hồ, nhờ giỏi cưỡi ngựa bắn cung, chém được nhiều đầu giặc, bắt được nhiều giặc nên được làm chức trung lang đời Hán (l). Em họ của Quảng là Lý Thái cung làm quan lang. Hai người đều được thăng từ chức trung lang lên làm võ kỵ thường thị (2), lương tám trăm hộc. Quảng thường theo nhà vua đi chơi, đã nhiều lần xung phong hãm trận bẻ được cửa quan bắt được thú dụ. Vua Hiếu Văn nói:- Tiếc thay, ngươi không gặp thời! Nếu ngươi sinh thời Cao Đế thì làm chức Vạn hộ hầu chẳng cần phải nói.Đến khi Hiếu Cảnh mới lên ngôi, Quảng làm đô úy (3) quận Lũng Tây, dời làm kỵ lang tướng. Lúc Ngô, Sở (4) đem binh nổi dậy, Quảng làm phiêu kỵ đô úy, theo thái úy là Á Phu đánh quân Ngô, quân Sở, giật được cờ, nổi danh ở gần Xương áp. Vì Lương Vương trao cho Quảng ấn (5) tướng quân, nên lúc Quảng trở về không được thưởng, đổi sang làm thái thú quận Thượng Cốc. Hàng ngày Hung Nô đến giao chiến, Công Tôn Hồn Da làm đển thuộc quốc (6) khóc tâu lên vua:- Tài năng và dũng khí của Lý Quảng, trong thiên hạ không có hai, nhưng tự phụ mình giỏi, đánh nhau nhiều lần với giặc sợ chết mất.Vua bèn đổi Quảng làm thái thú Thượng Quận. Sau đó Quảng sang làm thái thú ở các quận thuộc biên giới rồi chuyển đến Thượng Quận. Quảng đã từng làm thái thú ở Lũng Tây, Bắc Địa, Nhạn Môn, Đại Quận, Vân Trung (7) đều nổi tiếng đánh hăng.Hung Nô đem đại binh vào Thượng Quận, nhà vua sai trung quý nhân (8) theo Quảng tập dượt binh lính để đánh Hung Nô. Trung quý nhân đem mấy chục quân kỵ xông vào quân địch, thấy ba người Hung Nô, giao chiến. Ba người kia quay lại bắn trung quý nhân bị thương, giết gần hết các quân kỵ. Trung quý nhân chạy về gặp Quảng, Quảng nói:- Đó chắc là bọn săn chim điêu.Quảng bèn đem một trăm quân kỵ đuổi theo ba người. Ba người bỏ ngựa đi bộ, đi được mấy mươi dặm, Quảng sai quân kỵ của mình dàn ra hai cánh tả hữu còn Quảng thân hành bắn ba người kia, giết chết hai người, bắt sống một người thì đúng là bọn Hung Nô săn chim điêu. Sau khi đã trói y đem lên ngựa, nhìn xa thấy có mấy nghìn quân Hung Nô. Họ thấy Quảng cho là quân kỵ ra để dụ quân địch đánh, nên lên núi bày trận (9). Một trăm quân kỵ của Quảng đều cả sợ muốn ruổi chạy về. Quảng nói: - Chúng ta cách đại quân mấy mươi dặm, nay nếu một trăm quân kỵ này bỏ chạy, bọn Hung Nô đuổi theo bắn thì ta chết hết. Nếu ta ở lại, bợn Hung Nô thể nào cũng cho rằng ta ra dụ địch cho đại quân, chúng sẽ không dám đánh chúng ta.Quảng ra lệnh cho quân kỵ:- Tiến!Tiến đến cách trận địa của Hung Nô hai dặm, bèn dừng lại, ra lệnh:- Tất cả xuống ngựa cởi yên!Quân kỵ nói:- Quân giặc đã đông lại gần, nếu có việc gấp thì làm thế nào?Quảng nói:- Giặc kia cho rằng chúng ta bỏ chạy. Nay chúng ta đều cởi yên tỏ rằng không chạy để cho chúng càng tin chúng ta khiêu khích.Vì thế quân Hồ không dám đánh.Có viên tướng cưỡi ngựa trắng ra chỉ huy quân sĩ. Lý Quảng lên ngựa cùng hơn mười quân kỵ, xông ra bắn chết viên tướng Hồ cưỡi ngựa trắng rồi lại trở về, vào giữa đám quân kỵ. Quảng cởi yên, ra lệnh cho quân lính đều thả ngựa mà nằm. Khi ấy trời chiều, quân Hồ vẫn lấy làm lạ không dám đánh. Lúc nửa đêm, quân Hồ cũng cho là Hán có phục binh ở bên cạnh, muốn đang đêm sang đánh họ, nên tướng Hồ rút quân đi. Sáng rõ, Lý Quảng về với đại quân của mình vì đại quân không biết Quảng đi đâu nên không theo tiếp ứng (10).2. Mãi về sau, Hiếu Cảnh mất, Vũ Đế lên ngôi. Những người xung quanh nhà vua cho Quảng là bậc danh tướng, nên Quảng được làm thái thú Thượng Quận, được cất làm vệ úy cung Vị Ương, còn Trình Bất Thức thì làm vệ úy cung Trường Lạc.Trình Bất Thức cùng Lý Quảng đều là thái thú ở ngoài biên, kiêm việc cai quản quân đồn trú. Khi ra đánh quân Hồ, quân của Quảng không chia ra bộ, ngũ (11), không bày thành thế trận; đóng đồn gần những nơi sẵn nước, sẵn cỏ, ai nấy đều cho là tiện; đêm không đánh cồng để tự vệ; trong quân doanh giảm giấy tờ, sổ sách. Quảng có khi đi xa cách quân canh gác nhưng cũng chưa hề bị hại. Trình Bất Thức thì trong quân chia ra bộ, khoe, hàng ngũ; đóng dinh, bày trận phân minh; đêm đánh cồng; các viên lại coi sổ sách quân lính rất rõ ràng. Lính không được nghỉ ngơi. Thế nhưng cũng chưa hề bị hại. Bất Thức nói:- Cách chỉ huy quân của Lý Quảng rất giản dị, nhưng nếu quân địch đột nhiên phạm vào, thì không lấy gì chống lại. Có điều quân lính họ sung sướng, thoải mái đều vui lòng chết cho tướng. Quân của ta tuy phiền nhiễu, nhưng quân địch không phạm nổi ta.Bây giờ Lý Quảng, Trình Bất Thức đều là những danh tướng ở ngoài biên quận nhà Hán. Nhưng Hung Nô sợ mưu lược của Lý Quảng, quân lính cũng phần nhiều vui lòng theo ý Quảng mà khổ sở với Trình Bất Thức.Trong thời vua Hiếu Cảnh, Trình Bất Thức hay đem lời thẳng can gián, được làm thái trung đại phu. Trình là người thanh liêm cẩn thận về mặt giấy tờ và pháp lệnh.Về sau, Hán đem thành Mã ấp dụ Thiền Vu, sai đại quân nấp ở các hang bên huyện Mã ấp còn Quảng thì làm Phiêu kỵ tướng quân dưới quyền Hộ quân tướng quân (12). Nhưng khi ấy Thiền Vu biết mưu, bỏ đi, quân Hán đến, không lập nên công cán gì.Sau đó bốn năm, Quảng từ chức vệ úy được phong làm tướng, ra ải Nhạn môn đánh Hung Nô. Quân Hung Nô nhiều quá đánh vỡ quân Quảng, bắt sống được Quảng, Thiền Vu vốn nghe tiếng Quảng giỏi, ra lệnh rằng:- Bắt Lý Quảng phải bắt sống mà nộp!Quân kỵ của Hồ bắt được Quảng. Quảng bấy giờ bị thương. Chúng đặt Quảng vào giữa hai con ngựa, ràng dây để đặt Quảng nằm. Đi hơn mười dặm, Quảng giả vờ chết, liếc coi bên cạnh có một tên Hồ cưỡi con ngựa hay. Quảng liền nhảy tót lên ngựa của tên Hồ, đẩy nó xuống, lấy cung của nó, quất ngựa dóng về phương Nam vài mươi dặm, lại tìm được đám quân còn sót của mình, nhân đem quân vào trong cửa ải. bọn quân kỵ Hung Nô bắt Quảng gồm có vài trăm cùng đuổi theo Quảng. Quảng vừa chạy vừa lấy cung của tên Hồ bắn các quân kỵ đuổi theo, vì thế được thoát.Đến khi về kinh thành, nhà Hán giao Quảng cho các quan xét tội. Các quan cho rằng số người và ngựa của Quảng chết và lạc mất nhiều, Quảng đã bị giặc bắt sống (14) kết án chém. Nhờ đem tiền chuộc nên được làm dân thường.Sau đó, Quảng ở nhà mấy năm. Nhà Quảng gần nhà cháu Dĩnh Âm Hầu (15) xưa. Hai người đều rút lui về ở nhà quê, trong núi Nam Sơn huyện Lam Điền, thường cùng nhau vào trong núi săn bắn. Thường đêm đem theo một người, cưỡi ngựa, uống rượu với người ta ở giữa đồng. Khi về đến đình Bá Lăng, viên úy Bá Lăng say, quát Quảng dừng lại. Người cưỡi ngựa theo Quảng nói:- Lý tướng quân hồi trước đấy mà?Viên úy nói:- Tướng quân hồi này cũng còn không được phép đi đêm nữa là tướng quân hồi trước. Y giữ Quảng ngủ lại dưới đình. Được ít lâu, Hung Nô kéo vào giết quan thái thú Liêu Tây, đánh bại Hàn tướng quân. Hàn tướng quân đổi đi Hữu Bắc Ninh. Vì thế nhà vua gọi Quảng cho làm thái thú Hữu Bắc Bình. Quảng liền xin cho viên úy Bá Lăng cùng di, khi y tới quân Quảng sai chém chết?Quảng ở Hữu Bắc Bình, Hung Nô nghe tin gọi là “viên tướng bay của Hán” lánh mặt mấy năm không dám đến. Quảng ra đi săn, thấy tảng đá ở trong cỏ, cho là con hổ, liền bắn trúng ngập hẳn mũi tên? Nhìn lại thì là tảng đá. Nhân lại bắn, nhưng không sao cắm vào đá được nữa?Quận Quảng ở, nghe nói có hổ, Quảng thường thân hành bắn hổ. Đến khi ở Hữu Bắc Bình bắn hổ, hổ vồ Quảng bị thương. Nhưng cuối cùng Quảng cũng bắn chết được hổ. Tính Quảng thanh liêm, được tiền thưởng là chia ngay cho người dưới, ăn uống chung với quân lính. Trọn đời Quảng làm chức quan ăn hai nghìn hộc lương hơn bơn mươi năm nhưng nhà không có của cải thừa, Quảng cũng không nghĩ đến chuyện gia sản.Quảng là người cao lớn, tay dài như tay vượn, khéo bắn cũng là tính trời. Con cháu của Quảng hay người khác tập bắn cũng không ai bằng Quảng.Quảng nói năng vụng, ít nói. Ở với ai thì vẽ đất làm trận, thi bắn rộng, hẹp, phạt người thua uống rượu. Cho đến lúc chết, chỉ độc tiêu khiển bằng cách bắn cung.Khi đem quân đi, đến những nơi thiếu thốn, trông thấy nước, quân lính chưa uống hết lượt thì Quảng không gần nước; quân lính chưa ăn hết lượt thì Quảng không bao giờ ăn. Quảng rộng rãi không hà khắc, vì thế quân lính đều yêu mến, vui lòng theo.Lối bắn của Quảng như sau: thấy giặc đến gấp, nhưng nếu không ở trong tầm vài mươi bước, liệu không trúng thì không bắn. Đã bắn thì địch phải chết lăn ngay dưới tiếng dây cung! Vì cách bắn ấy (16) nên khi đem quân thường bị bao vây, làm nguy khốn; khi bắn thú dữ cũng bị chúng vồ bị thương (17).3. Ít lâu sau, Thạch Kiến mất, nhà vua bèn triệu Quảng làm lang trung lệnh thay Kiến.Năm thứ sáu niên hiệu Nguyên Sóc (năm 122 trước Công nguyên), Quảng lại làm hậu tướng quân theo đại tướng quân ra Định Tương đánh Hung Nô. Các tướng phần nhiều chém được đầu giặc đủ số quy định theo công lao được phong hầu, riêng quân của Quảng là không lập được công.Sau đó bốn năm, Quảng lĩnh chức lang trung lệnh đem bốn nghìn quân kỵ ra Hữu Bắc Bình. Bác Vọng Hầu là Trương Khiên đem một vạn quân kỵ cùng đi với Quảng nhưng khác đường. Đi được độ vài trăm dặm, Tả hiền vương (18) của Hung Nô đem bốn vạn quân ky vây Quảng. Quân lính Quảng đều hoảng sợ. Quảng bèn sai con là Cảm cưỡi ngựa xông ra đánh. Cảm chỉ đem theo vài chục quân kỵ xông thẳng qua vòng quân kỵ của Hồ bao vây theo phía tả, phía hữu mà về, thưa với Quảng rằng:- Giặc Hồ dễ đối phó thôi?Quân sĩ mới yên lòng. Quảng bày trận thành vòng tròn quay ra phía ngoài. Quân Hồ đánh gấp, tên bắn như mưa, quân Hán chết quá nửa, mà tên bên Hán thì gần hết. Quảng bèn ra lệnh cho quân cứ giương cung chứ đừng bắn. Rồi Quảng thân cầm nỏ đại hoàng bắn các tỳ tướng của giặc, giết được vài người, quân Hồ càng nản. Gặp trời chiều tướng sĩ không còn máu mặt, mà Quảng ý khí vẫn như thường, đánh càng hăng. Trong quân từ đó phục Quảng là người can đảm.Hôm sau, lại ra sức đánh, rồi quân của Bác Vọng Hầu cũng đến. Quân Hung Nô bèn giải vây rút lui. Quân Hán mệt không sao đuổi được. Khi ấy, quân của Quảng mất gần hết phải bãi binh trở về. Theo phép nhà Hán, Bác Vọng Hầu dùng dằng đến sau ngày hẹn, tội đáng chém, nhưng cho chuộc tội làm dân. Còn quân của Quảng công và tội ngang nhau cũng không được thưởng.Trước đấy, Quảng cùng em họ là Lý Thái thờ vua Hiếu Văn. Đời Cảnh Đế, Thái lập nhiều công, lương thực được đến hai nghìn hộc. Đời Hiếu Vũ Đế, Thái làm tướng quốc nước Đại. Năm thứ năm niên hiệu Nguyên Sóc (năm 124 trước Công nguyên), Thái làm Khinh xa tướng quân, theo đại tướng quân đánh Hữu hiền vương, có công (19) được phong làm Lạc An Hầu. Năm Nguyên Thú thứ hai, Thái thay Công Tôn Hoằng làm thừa tướng. Thái là người vào bậc kém (20), danh tiếng kém Quảng xa. Vậy mà Quảng không được tước, phong ấp, làm quan chẳng qua đến bậc cửu khanh. Còn Thái thì được phong hầu, địa vị lên đến tam công! Ngay đến các quan lại lính tráng dưới quyền Quảng, cũng có người được phong hầu. Một hôm Quảng nói đùa với người xem thiên văn là Vương Sóc (21) rằng:- Từ khi Hán đánh Hung Nô, không lúc nào Quảng không ở trong quân ngũ. Trong các bộ, ngũ, bọn hiệu úy trở xuống tài năng không đến bậc trung nhưng nhờ quân công trong việc đánh Hồ được phong hầu có đến vài chục người. Quảng thì chẳng hề kém ai, vậy mà chẳng được lấy chút công lao gì để được phong ấp là cớ làm sao? Hay tướng tôi không đáng phong hầu? Hay đó là số mạng đấy?Sóc nói:- Tướng quân thử tự nghĩ xem, hoặc giả có điều gì còn ân hận chăng?Quảng nói:- Tôi có lần làm thái thú Lũng Tây. Người không làm phản, tôi dụ họ hàng. Họ hàng hơn tám trăm người. Tôi lừa họ giết cả trong một ngày. Tới nay chỉ có việc đó là rất ân hận mà thôi!Sóc nói:- Tai họa không gì to bằng việc giết người đã hàng. Tướng quân sở dĩ không được phong hầu là vì thế.Sau đó hai năm, đại tướng quân và Phiêu kỵ tướng quân đem đại quân đi đánh Hung Nô. Quảng mấy lần tự xin đi. Nhà vua thấy Quảng già không cho mãi sau mới bằng lòng cho làm tiền tướng quân. Năm ấy là năm thứ tư niên hiệu Nguyên Thú (năm 118 trước Công nguyên).Quảng theo đại tướng quân là Vệ Thanh đi đánh Hung Nô. Khi đã ra ngoài ải, Thanh bắt được giặc, hỏi biết nơi Thiền Vu đóng, bèn thân hành đem tinh binh đi đánh, trái lại sai Quảng hiệp với hữu tướng quân đem quân đi đường phía Đông. Lối phía Đông hơi quanh co và xa mà trên đường đại quân đi lại thiếu cỏ và nước, nên không thể dừng lại được (22).Quảng bèn thân hành xin:- Chức tôi là tiền tướng quân. Sao nay đại tướng quân lại đổi tôi đi đường phía Đông. Vả chăng tôi từ khi kết tóc đã đánh với Hung Nô nhưng đến trận này mới được đối địch với Thiền Vu. Tôi xin đi tiên phong quyết liều chết với Thiền Vu.Đại tướng quân Vệ Thanh đã ngầm nghe lời vua căn dặn, cho Lý Quảng tuổi già, số xấu, chớ để đối địch với Thiền Vu, sợ không đạt được điều mình muốn. Đã thế bây giờ Công Tôn Ngao (23) lại vừa mất tước hầu, làm trung tướng quân, đi theo đại tướng quân. Đại tướng quân cũng muốn cùng Ngao sang đánh Thiền Vu cho nên mới đổi tiền tướng quân Quảng vào việc khác. Khi Quảng biết việc này, cố xin với đại tướng quân. Đại tướng quân không nghe, sai viên trưởng sử cầm phong thư đưa sang trướng của Quảng nói: “Mau mau đem quân bản bộ đi, theo như lệnh trong thư”. Quảng không từ giã đại tướng quân, lập tức đi ngay đến bộ, ngũ xem ý rất tức giận, đem quân họp với hữu tướng quân là Tự Cơ, kéo ra lối phía Đông. Quân Quảng không người dẫn đường có khi lạc cả lối, nên đến sau đại tướng quân. Đại tướng quân đánh nhau với Thiền Vu. Thiền Vu trốn chạy. Đại tướng quân không bắt được, trở về. Quay về phía Nam vượt qua sa mạc, gặp tiền tuông quán và hữu tướng quân. Quảng trông thấy đại tướng quân vội lui vào trong quân. Đại tướng quân sai viên trưởng sử đem rượu và lương khô cho Quảng (24) nhân hỏi Quảng và Tự Cơ về việc lạc lối - ý Thanh muốn dâng thư báo với nhà vua về việc quân phải đi đường vòng (25) - Quảng chưa kịp trình, đại tướng quân lại sai trưởng sử đòi ngay bọn dưới trướng của Quảng sang để lấy cung. Quảng nói:- Bọn hiệu úy không có tội. Lạc lối là tự ta? Ta sẽ sang cho mà lấy cung.Quảng bảo những người dưới quyền mình:- Quảng này từ khi kết tóc đánh nhau với Hung Nô, lớn, nhỏ hơn bẩy mươi trận. Nay được may mắn theo đại tướng quân đi, giáp chiến với quân của Thiền Vu, mà đại tướng quân lại bắt Quảng phải đem quân đi lối vòng xa, rồi lạc mất đường? Đó há chẳng phải tại trời sao? Vả chăng Quảng ngoài sáu mươi rồi, dù sao cũng không thể mặt mũi nào nhìn bọn thư lại lần nữa!Bèn rút dao tự đâm cổ! Tướng sĩ và toàn quân của Quảng đều khóc! Trăm họ nghe chuyện ấy, người quen hay không quen, già, trẻ, đều vì Quảng mà sa nước mắt. Còn hữu tướng quân thì giao cho các quan xét án, đáng tội chết, cho chuộc làm thường dân (26).4. Con Quảng, ba người là Đương Hộ, Tiêu và Cảm đều làm quan lang.Nhà vua đùa với Hàn Yển, Yển hơi hỗn (27). Đương Hộ đánh Yển, Yển chạy. Vì thế nhà vua cho là dũng cảm. Đương Hộ chết sớm, nên cho Tiêu làm thái thú Đại Quận. Hai người đều chết trước Quảng. Khi Đương Hộ chết có người con di phúc (28) tên là Lăng.Khi Quảng chết ở trong quân, Cảm đang theo Phiêu kỵ tướng quân.Quảng chết rồi, năm sau; Lý Thái đang làm thừa tướng mắc tội xâm lấn khu đất lăng của vua Hiếu Cảnh, bị giao thư lại xét xử. Thái cũng tự sát chẳng để cho người hỏi cung! Đất phong bị xóa!Lý Cảm làm hiệu úy theo Phiêu kỵ tướng quân đánh Tả hiền vương của quân Hồ. Cảm cố sức đánh, cướp cờ trống của Tả hiền vương, chém nhiều đầu được phong tước là Quan nội hầu, đất phong là hai trăm hộ, thay Quảng làm lang trung lệnh. Được ít lâu, Cảm oán đại tướng quân Vệ Thanh đã làm cho cha mình tự sát, bèn đánh đại tướng quân bị thương, đại tướng quân giấu kín chuyện ấy. Không bao lâu, Cảm theo vua đem quân lên đất Ung, tới cung Cam Tuyền, đi săn. Phiêu kỵ tướng quân là Khứ Bệnh thân thích của nhà Thanh (29) bèn bắn chết Cảm. Khứ Bệnh khi ấy đương được vua yêu nên vua nói dối rằng Cảm bị nai húc chết!Hơn năm sau Khứ Bệnh chết mà Cảm thì có con gái hầu thái tử được thái tử yêu. Con trai Cảm là Vũ cũng được lòng thái tử nhưng ham lợi. Họ Lý dần dần sa sút.Lý Lăng đã lớn (30), được kén làm quan coi quân canh cung Kiến Chương, coi các quân kỵ; giỏi bắn cung, yêu quân sĩ. Nhà vua nghĩ họ Lý đời đời làm tướng, bèn cho coi tám trăm quân kỵ. Có lần Lăng vào sâu đất Hung Nô hơn hai nghìn dặm, qua đất Cư Duyên, trông địa thế chẳng thấy giặc, nên trở về, được thăng làm đô úy quân kỵ, đem hơn năm nghìn người ở Sở, ở Đan Dương, dạy bắn ở Tửu Tuyền, Trương Dịch để đóng đồn phòng bị giặc Hồ.Vài năm sau, tới mùa thu năm thứ hai niên hiệu Thiên Hán (năm 99 trước Công nguyên). Nhị sư tướng quân là Lý Quảng Lợi (31) đem ba vạn quân kỵ đánh Hữu hiền vương của Hung Nô ở Kỳ Liên Sơn. Sai Lăng đem quân bộ cùng năm nghìn người thiện xạ qua phía Bắc Cư Duyên chừng hơn nghìn dặm. Ý nhà vua muốn chia sức quân Hung Nô, không để chúng tập trung vào đánh Nhị Sư.Khi Lăng đã đến ngày trở về, thì Thiền Vu đem tám vạn quân vây đánh quân của Lăng. Quân Lăng có năm nghìn người, tên bắn đã hết, lính chết quá nửa, nhưng giết hại quân Hung Nô cũng hơn vạn người. Lăng vừa rút lui vừa đánh tám ngày liền. Khi về còn cách Cư Duyên chừng hơn trăm dặm, Hung Nô chặn đứt lối đường hẻm. Quân Lăng thiếu ăn mà cứu binh không tới. Giặc đánh gấp và dụ Lăng hàng. Lăng nói:- Chả còn mặt mũi nào mà nhìn chúa thượng nữa.Bèn đầu hàng Hung Nô. Đám quân ấy mất hết. Còn thừa tan tác hơn bốn trăm trốn được về Hán.Thiền Vu đã bắt được Lăng, vốn nghe danh tiếng gia đình Lăng, đến khi đánh trận giỏi, bèn đem con gái gả cho Lăng và cho ở địa vị cao. Vua Hán nghe tin, giết mẹ và vợ con Lăng.Từ đó về sau, họ Lý mất tiếng. Những người ở Lũng Tây từng làm môn hạ họ Lý đều lấy thế làm xấu hổ (32).5. Thái sử công nói:Sách (33) dạy rằng: “Thân mình mà chính, không ra lệnh người ta cũng làm. Thân mình mà không chính, dù ra lệnh cũng không ai theo!”.Đó phải chăng là chuyện Lý tướng quân! (34). Tôi xem Lý tướng quân chất phác như người nhà quê, miệng nói chẳng nên lời. Đến khi chết trong thiên hạ quen hay không quen, đều hết sức thương xót. Đó là vì lòng trung thực của ông làm cho tướng sĩ tin yêu. Tục ngữ có câu: “Đào mận không nói, dưới gốc tự nhiên thành đường!”. Câu ấy tuy nói việc nhỏ, có thể hiểu ra lẽ lớn vậy...(35).............................................................(1). Chức quan nhỏ lương 600 thạch lo việc canh phòng trong cung cấm.(2). Chức quan đi theo nhà vua để hộ vệ.(3). Chức quan lương 2000 thạch cai quản binh sĩ một quận.(4). Ngô và Sở làm phản.(5). Quảng là người tướng Hán vì có công khi đánh trận ở Lương nên Lương Hiếu Vương trao cho ấn tướng quân và thế là vi phạm pháp lệnh của Hán.(6). Công Tôn là họ Hồn Da là tên, điển thuộc quốc là chức quan ngoại giao trông coi các bộ lạc đã đầu hàng nhà Hán.(7). Giải thích câu: ở các quận biên giới. Những quận này đều ở biên giới.(8). Trung quý nhân chức hoạn quan không rõ tên họ.(9). Để phòng việc bất trắc.(10). Đoạn I: Những chiến công của Lý Quảng khi còn trẻ.(11). Các đơn vị từ lớn đến nhỏ.(12). Năm 133 Nhiếp Nhất bày mưu cho Vũ Đế. Nhất trốn sang Hung Nô nói với Thiền Vu: “Tôi có thể khiến quan huyện, mã ấp, đem cả thành đầu hàng”. Vua Hung Nô đem mười vạn quân vào biên giới.(13). Lúc bấy giờ Hàn An Quốc làm Hộ quốc tướng quân chỉ huy Quảng.(14). Cách xét xử lạ đời.(15). Dĩnh Âm Hầu là Quán Anh.(16). Vì bắn ít.(17). Đoạn 2: Miêu tả tỉ mỉ tính cách, lối sống và cái tài bắn cung của Quảng.(18). Chức quan thống lĩnh quân đội Hung Nô.(19). Nguyên văn “trúng suất” tức là giết đủ số thủ cấp theo quy định. Đời Vũ Đế không có quân công thì không được phong hầu.(20). Nguyên văn “tại hạ trung” ở bậc hạ trung. Người chia theo giá trị làm 9 hạng từ thượng thượng đến hạ hạ. Hạ trung là ở bậc 8.(21). Vương Sóc làm chức vọng khí, xem thiên văn để đoán việc hay dở. Tư Mã Thiên có nói đến Sóc trong Thiên quan thư.(22). Đáng lý chức tiền tướng quân thì phải đi trước dẫn đường cho đại quân. Đường đại quân gần lại thiếu cỏ và nước nên bắt buộc phải đi nhanh và thế nào cũng đến trước.(28). Công Tôn Ngao trước là bạn Vệ Thanh. Vệ Thanh gặp nạn nhờ Ngao cứu cho khỏi chết. Sau có Công được phong hầu lại vì tội sợ Hung Nô bị xử trảm, chuộc làm thường dân.(24). Câu có vẻ thừa nhưng tỏ rõ Vệ Thanh không muốn giết Quảng.(25). Vệ Thanh và Lý Quảng đều có quân doanh. Trưởng sử lo việc giấy tờ trong quân doanh của đại tướng quân, hiệu úy lo việc giấy tờ trong quân doanh của Quảng.(26). Đoạn 8: Quảng suốt đời không đạt được ý muốn, cuối cùng phải tự sát.(27 ). Hàn Yển là con cháu Hàn Vương Tín, sủng thần của nhà vua.(28). Mồ côi cha khi chưa ra đời.(29). Hoắc Khứ Bệnh gọi Vệ Thanh là cậu.(30). Nguyên văn: ký tráng. Ngày xưa ba mươi tuổi gọi là tráng.(31). Lý Quảng Lợi là sủng thần của Vũ Đế. Nguyên văn Kỳ liên Thiên Sơn. Người Hồ gọi trời là kỳ liên, ở đây tức là Kỳ Liên Sơn hay Thiên Sơn.(32). Đoạn 4: Con cháu Lý Quảng.(33). Luận ngữ, thiên “Tử Lộ”.(34). Ý nói Lý Quảng chỉ huy quân sĩ, quân sĩ vui vẻ theo.(35). Đoạn 5: Tán dương Lý Quảng.
o0o