Trong căn phòng đã bắt đầu thiếu ánh sáng của trụ sở Tổng hội Sinh viên Huế, tôi vẫn còn cố gắng tranh luận, thuyết phục. Bên trái tôi là anh chủ nhiệm tạp chí tôi đang cộng tác thường xuyên, bên phải tôi là Hoàng Phủ Ngọc Tường, một trong những bạn học thân nhất của tôi trong những năm đầu ở Viện Đại học Sài Gòn. Bên kia đầu bàn là một người trẻ mang kính trắng, Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Huế, hai bên hiện diện đầy đủ hầu hết các đại diện cho giới trẻ của cố đô. Tôi đang cố gắng thuyết phục tất cả những người đó không nên tham gia và phát động cuộc tranh đấu mà sau này mọi người thường gọi là phong trào tranh đấu của miền Trung. Tôi không tin là cuộc tranh đấu ấy sẽ thành công: ngồi ở Sài Gòn vào một vị trí khá thuận tiện để nghiên cứu vào thời gian đó, tôi đã ước tính là những người trẻ Việt Nam, trong đó có các bạn đang ngồi kia với tôi, cộng với cả Phật giáo nữa, cũng không thể nào làm thay đổi được chính sách tại miền Nam này. Trời đã hết hẳn nắng từ lâu, phòng họp đã mờ khuôn mặt người, tôi vẫn còn cố thuyết phục. Cách mạng đâu có thể thực hiện được bằng truyền đơn, biểu ngữ và các cuộc tuần hành ngoài đường phố. Phong trào mà những người bạn tôi đang ngồi kia sắp tham gia, tôi không tin sẽ dẫn tới một thay đổi căn bản nào cho chiến tranh Việt Nam - tại Á châu, lẽ phải nằm ở đầu ngọn lưỡi lê và lưỡi lê ấy, chúng ta không có hay chưa có. Phải dành sinh lực và thiện chí cùng nhân sự để rèn lưỡi lê cần thiết đó đã ... Hình như trong không gian mờ tối của căn phòng, tôi đã trình bầy như thế. Tôi phải dùng chữ "hình như", bởi vì thời gian qua cũng đã lâu rồi kể từ ngày ấy. Vào một lúc nào đó, tôi chợt khám phá ra tôi đang độc thoại. Từ đã lâu rồi, những khoảng người ngồi quanh bàn đã câm nín. Tôi cũng im theo và trong một khắc im lặng ngắn, tôi chợt cảm thấy như có một ranh giới vô hình đã xuất hiện giữa tôi và các bạn. Ngay cả đối với Hoàng Phủ Ngọc Tường. Không còn gì để nói với nhau nữa, mỗi bên giữ vững lập trường của mình, đường ai người ấy đi. Nhưng tôi không muốn để đứt đoạn, phân cách nhau một cách vô lý như thế. Tôi không hề muốn từ giã họ như thù nghịch - bởi vì điều bất đồng ý, không hề nằm ở mục tiêu theo đuổi, mà là ở phương thức thực hiện. Có lẽ Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng cảm thấy tương tự nên đã cùng với tôi tuyên bố chấm dứt thảo luận chính trị, và kể từ giờ cho tới khi tôi rời Huế, chỉ còn chuyện văn nghệ và sinh hoạt với nhau như bạn mà thôi. Tất cả đều tán đồng và hẹn gặp lại ở Tuyệt tình cốc. Đến địa điểm hẹn gặp, ở một con đường nào của Huế, tôi bây giờ không sao nhớ lại được. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đợi sẵn và dẫn tôi đi theo một con đường nhỏ hai bên hàng rào âm u như một xứ quê. Quả xứng đáng là con đường dẫn vào Tuyệt tình cốc. Một căn nhà tranh vách đất và nền cũng bằng đất, không điện và cũng không có một dấu vết nào chứng tỏ có vết tích của cơ khí Tây phương. Vài chiếc chiếu trải trên đất, các ngọn nến thắp rải rác quanh vài đĩa bánh và các ly cà phê đen sánh, đen như mầu mắt của ba thiếu nữ duy nhất hiện diện. Hoàng Phủ Ngọc Tường giới thiệu chung và vì quá đông, tôi chỉ nhớ được tên vài người như Trần Quang Long, Nguyễn Đắc Xuân ... và một người rất trẻ mặc chiếc áo ka ki, vẻ mặt trong sáng hiền lành sau làn kính trắng có cái tên rất hợp với Tuyệt tình cốc: Trịnh Công Sơn. Khi Trịnh Công Sơn bắt đầu hát, tôi chú ý nghe bởi vì Hoàng Phủ Ngọc Tường đã có lần chê tôi là "không biết Trịnh Công Sơn kể như chưa biết gì về văn nghệ miền này”. Nhưng ngay lập tức, tôi không cần phải chú ý nữa – tôi đã bị chìm ngập ngay vào trong thế giới âm thanh của Trịnh Công Sơn. Tôi vẩn vơ theo dõi những viên đá, hay một viên đá, lăn trầm bồng bềnh trong cuộc đời, tôi cầu xin mặt trời ngủ yên cho đàn bò đi vào thành phố băng qua những giáo đường tình yêu... Khi Sơn đã ngừng hát, tôi vẫn còn sững sờ vì không thể ngờ nổi ở Việt Nam lại có thể xuất hiện những bản nhạc như thế. Những âm thanh lê thê, những hình ảnh hoang tàn, rã rời, nhưng. .. tôi vẫn cảm thấy một sức mạnh tiềm tàng lẩn khuất trong từng âm thanh của bản nhạc, trong những người đang ngồi quanh dưới các ánh nến chập chờn và những bóng đèn lung linh trên vách đất. Đêm khuya, khi ra tới đường lộ, Hoàng Phủ Ngọc Tường tách ra khỏi bạn bè, hỏi riêng tôi: thực ra còn lý do chi nữa làm anh tin bọn tôi sẽ thất bại?... Và khi bắt tay từ giã Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi quyết tâm theo đuổi con đường mình cho là đúng nhất, con đường đã chọn lựa. Hoàng Phủ Ngọc Tường và tất cả những người của Tuyệt tình cốc - trừ ba người nữ - đã lao vào phong trào tranh đấu do Phật giáo phát động một thời gian sau, còn tôi, về tới Sài Gòn là lo treo ấn từ quan (một chiếc ấn bé xíu của một chức quan hữu danh vô thực) cùng các bạn lập nhóm Thái Độ để lao mình vào một cuộc phiêu lưu thực hiện "giấc mơ trăm năm của dân tộc": hoài bão thực hiện một cuộc vận động văn hoá mới tiến tới cách mạng xã hội. Và trong đêm, khi lái chiếc xe Jeep già nua đưa một trong ba thiếu nữ đã có mặt trong Tuyệt tình cốc trở về nhà qua những con đường nhỏ ngủ êm, ven một con sông rất nhỏ và rất êm đềm, tôi không thể ngờ đó là lần chót tôi gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường và rất nhiều người trẻ của thành phố cổ xưa này. Sau những tháng gay cấn dữ dội, phong trào tranh đấu của miền Trung đã thất bại. Trong thời gian này, mặc bộ quân phục bạc phếch, tôi vừa quay ronéo từng trang cho những tập Thái Độ đầu tiên, vừa cùng các bạn theo dõi cuộc đấu tranh khốc liệt. Và phong trào tan rã, Tuyệt tình cốc, chỉ còn Trịnh Công Sơn xuất hiện, mỗi ngày một nổi danh vì những bản nhạc của mình. Những bản tình ca của anh được lớp trẻ hoan nghênh dữ dội và phổ biến sâu rộng: không ngồi nơi nào không nghe thấy những âm điệu của anh. Nhưng tôi biết anh không thể ngừng ở đấy, không thể chỉ là một người làm tình ca cho thiên hạ yêu nhau. Kể cũng lạ. Sơn và tôi cùng những người đồng lứa, chúng tôi có tuổi trẻ, quá nhiều tuổi trẻ để hưởng tình yêu cùng những mật ngọt của trần gian. Nhưng chúng tôi không làm sao nếm mật mà không cảm thấy vị đắng cay. Không tìm thấy gì, nhưng không thể sống mà không có một vị trí trong cuộc đời. Trừ những người tin theo các triết thuyết nhập cảng đóng hộp từ phương Tây và những người buông thả vào trong siêu hình Ấn Độ, không ai có thể sống hàm hồ. Mỗi người đều ước mơ: Ước gì ta được là ta, hay làm sao khi thức dậy, tôi tìm thấy tôi. Trong cuộc hành trình đi tìm chính ta, chính tôi, chính mình này, những người trẻ trung vung tay xé rách các tấm màn để biết rằng mình không phải là tây con, là phó-hoa-kỳ. Cuộc hành trình phải tiếp tục, và lần này, đi lại từ đầu: đi tìm quê hương. Những mốc dấu đầu tiên thực thảm hại: Người nô lệ da vàng ngủ quên trong căn nhà nhỏ Đèn thắp thì mờ, ngủ quên đã bao năm, Ngủ quên đã bao năm, Ngủ quên không thấy quê hương. (Đi tìm quê hương) Khám phá đầu tiên ấy thực là buồn. Nhưng những người trẻ chấp nhận: chúng ta là nô lệ, chúng ta chưa là người tự do, chúng ta là người nô lệ, không phải nô lệ da trắng, mà là nô lệ da vàng. Mầu da vàng là mầu da chúng ta, là thân phận chúng ta ở cõi đời này, chúng ta chấp nhận và hãnh diện. Và người nữ chúng ta yêu, người nữ thần tượng, không phải là những người "tóc vàng sợi nhỏ", những Birgitte Bardot, Sharon Tate, Raquel Welch, mà là người con gái Việt Nam: Người con gái Việt Nam da vàng Yêu quê hương như yêu đồng lúa chín Người con gái Việt Nam da vàng Yêu quê hương nước mắt lưng dòng... Em chưa biết quê hương thanh bình Em chưa thấy xưa kia Việt Nam Em chưa hát ca dao một lần Em chỉ có con tim căm hờn Người con gái một hôm qua làng Đi trong đêm, đêm vang ầm tiếng súng Người con gái chợt ôm tim mình Trên da thơm và máu loang dần Người con gái Việt Nam da vàng Mang giấc mơ quê hương lìa kiếp sống... (Người con gái Việt Nam, Ca khúc da vàng) Đã tìm thấy người nữ của mình, người con gái Việt Nam da vàng, tất nhiên cuộc hành trình phải tiếp tục, ổn cố vững vàng hơn. Người nô lệ da vàng bước đi bước đi Đi về đầu non Người nô lệ da vàng bước đi Đi về biển xanh Đi khâu vá non sông Việt Nam 20 năm liền thịt xương. Phơi trên đôi miền Đi cho thấy quê hương Đi cho thấy quê hương Đi cho thấy quê hương... (Đi tìm quê hương) Và tới cuối chặng đường thứ nhất của cuộc hành trình, những người trẻ thấy mình là người Việt Nam, mầu da vàng, với tất cả những khốn khổ cũng như oai hùng của dòng giống. Nhìn sang bên kia, cũng thấy cùng, mầu da, cùng Việt Nam. Đã gọi là di sản, thì được nhà cao cửa rộng, ruộng cả ao liền, xã hội thanh bình cả nước hoa đăng... càng tốt. Còn nếu không, gia tài là của mẹ, thì dù có là ruộng đồng khô khát, nhà cháy từng hàng, một rừng xương khô, một núi đầy mồ... cũng xin giơ hai tay mà đón nhận. Không phải nhận để rồi mà khóc than thương cho phận mình. Nhận đây là để làm cho khá hơn, trồng cây trên núi, trồng lại lúa trên vùng khai hoang - dù rằng muốn làm thế có phải làm từ đầu là dạy dỗ lại nhau từ đầu: Dạy cho con tiếng nói thật thà Mẹ mong con chớ quên mầu da Con chớ quên màu da nước Việt xưa Mẹ trông con mau bước về nhà Mẹ mong con lũ con đường xa Ôi lũ con cùng cha Quên hận thù. (Gia tài của mẹ - đoạn kết) Bắt đầu từ chặng này cuộc hành trình, những người trẻ đó chỉ còn có thể lên tiếng tuyên bố: như trong phần chót của bài ca trên: Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam Ngày gió lớn tôi đi môi gọi thầm Gọi tên anh, tên Việt Nam Gần nhau trong tiếng nói da vàng Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam Ngày mới lớn tai nghe quen đạn mìn Thừa đôi tay, dư làn môi Từ nay tôi quên hết tiếng người. Đó là một lời tuyên ngôn dịu dàng nhất và cũng minh bạch nhất: Tôi muốn yêu anh yêu Việt Nam chứ không phải: "Tôi muốn yêu anh nước bạn đồng minh Hoa Kỳ, Liên Xô, Trung Quốc". Tôi được nghe bài ca trên khi phụ trách huấn luyện quân sự cho sinh viên Văn khoa Sài Gòn. Suốt nhiều buổi trưa, tôi ngồi trong một quán cà phê gần trường, nghe đi nghe lại bản nhạc xót xa buồn thảm, đầy chết chóc đau thương ấy, tôi biết Trịnh Công Sơn đang đi vào tuyệt lộ dẫn tới lao tù. Ở miền Nam có một thành phần rất sợ hoà bình - bất cứ hoà bình kiểu gì và bất kể từ đâu tới! Lý do bởi vì quyền lợi và danh vọng hiện tại của họ xây dựng trên căn bản là trục lợi chiến tranh, đấu thầu cuộc chiến. Kêu gọi tình tự dân tộc tới hoà bình, kể như lay động tới nền tảng quyền lợi của họ rồi. Chính thành phần này từ đã bao năm hô hào chiến đấu chiến tranh bằng mồm (hô hào mọi người thôi, còn thân họ thì không bao giờ dám đưa ra gần nơi lửa đạn, và con cái họ đều được trốn nghĩa vụ hợp pháp để du học bên Mỹ, bên Âu, Nga), chính những người này bao giờ cũng muốn chính quyền bắt bỏ tù, cho đi hải đảo bất cứ ai muốn khơi dậy, đề cao tình tự làm người Việt Nam ... Và tất nhiên là Trịnh Công Sơn không thoát được số phận của mình. Các biện pháp nặng nhẹ đủ loại đã được đưa ra áp dụng cho con người hiền lành dễ thương nhất của Tuyệt tình cốc, nhưng không đưa được anh tới lao tù đầy ải: quá nhiều người Việt đã lên đường vào cuộc hành trình làm người Việt Nam, và không ai nỡ để con người thư sinh giản dị, tối ôm đàn đi hát, khuya về ngủ trên ghế bố của căn nhà gỗ Hội họa sĩ trẻ trên thềm Khám Lớn xưa, phải chịu đọa đày hay thủ tiêu từ từ trong chuồng cọp. Vẫn được tự do dù là thứ tự do hạn chế, anh vẫn làm nhạc: cuộc hành trình vẫn tiếp tục. Lần cuối cùng gặp nhau trước khi Trịnh Công Sơn trở về Huế, trong căn gác xép mưa dột đầy một góc, ngồi trên chiếu rách, anh có hỏi tôi: khi đất nước thanh bình, bạn bè hai bên trở về, sẽ ra sao nhỉ? Tôi không thể trả lời câu hỏi ấy, nhưng tôi biết khi thanh bình, tôi sẽ làm gì. Tôi sẽ ra Huế, kiếm Trịnh Công Sơn, và sẽ rủ anh làm như trong một bản nhạc anh đặt tên Tôi sẽ đi thăm. Khi đất nước tôi thanh bình, tôi sẽ đi thăm Tôi sẽ đi thăm một phố đầy hầm, Đi thăm một con đường nhiều hố. Khi đất nước tôi thanh bình Tôi sẽ đi thăm cầu gẫy vì mìn, Đi thăm hầm chông và mã tấu Khi đất nước tôi không còn giết nhau Trẻ con đi hát đồng dao ngoài đường Khi đất nước tôi thanh bình Tôi sẽ đi không ngừng, Sài Gòn ra Trung, Hà Nội vô Nam Tôi đi chung cuộc mừng và mong sẽ quên Chuyện non nước mình “Đi chung cuộc mừng và quên chuyện non nước mình...” Tới đây có lẽ mới là tận cùng của cuộc hành trình người Việt Nam, và có lẽ cũng tới đây Sơn và tôi mới hy vọng sẽ chỉ còn một việc là: làm tình ca và viết chuyện tình rất viễn mơ. Dĩ nhiên là với điều kiện lúc đó phải quên được: Khi đất nước tôi không còn chiến tranh Bạn bè mấy đứa vừa xanh nấm mồ...