Chương 49
SAU TẢO THANH HAI VĨNH RA BẮC
SANG NAM HẢI MỞ BẾN NHẬN VŨ KHÍ VỀ NAM

Sau tảo thanh, để chấn chỉnh tình hình ở Rừng Sác, Nguyễn Bình họp bộ tham mưu quyết định thành lập Phân khu Duyên Hải. Về ban chỉ huy Phân khu, Trung tướng chọ Năm Hà là người được anh em Bình Xuyên ủng hộ. Chánh ủy Hai Trí giới thiệu tay chân thân tín của mình là Hai Đại, tên chính thức là Nguyễn Đức Huy nắm chính trị viên.
Khi đã nhứt trí, chánh văn phòng Võ Bá Nhạc cho đánh máy giấy bổ nhậm gởi xuống các đương sự.
Nguyên văn như sau:
Quân đội Quốc gia Việt Nam
Ban quân sự Nam Bộ
GIẤY BỔ NHẬM
Chiếu theo thông tư số281/TS ngày 11-8-48 của ban Quân sự Bình Xuyên, thành lập Phân khu Duyên hải miền Đông.
Các ông có tên dưới đây được bổ nhậm và Ban chỉ huy của Phân khu Duyên Hải từ ngày 11-8-48:
Dương Văn Hà: Phân khu trưởng
Nguyễn Sơn Xuyên: Phân khu phó
Nguyễn Đức Huy: Chánh trị viên
Tổng hành dinh, ngày 11/8/48
Trung tướng Nguyễn Bình
Ủy viên Quân sự Nam Bộ
Nhận được quyết định này, anh em ở Rừng Sác rất phấn khởi. Tấm lòng trung thành với cách mạng của anh Năm và đông đảo anh em Bình Xuyên đã được cấp trên thấu rõ. Anh em vui lòng hưởng ứng chủ trương giải thể các Chi đội cũ để lập những đơn vị mới, điều đi các nơi trong Quân khu.
Chi đội 9 của Bảy Viễn – đa số là dân lao động vùng Phú Thọ - được sát nhập với Chi đội 7 của Hai Vĩnh để trở thành Trung đoàn 197, tức là Trung đoàn chủ lực của hai tỉnh Bà Rịa, Chợ Lớn, gọi tắt là Bà-Chợ. Liên chi 2-3 cùng một số bộ phân Chi đội 9 trở thành Trung đoàn 302 rút lên chiến khu Đ. Các chỉ huy cũng phân tán: Hai Lung về Khu 7, Năm Chảng về Chi đội 1 nay là trung đoàn 301 do Nguyễn Văn Thi nắm thay Hùynh Kỉm Trương. Ba Trứ về Lý Nhơn phối hợp với đại đội C huyện Long Thành của Lương Văn Nho, được ít lâu phụ trách đại đội pháo binh của Khu tại Đât Cuốc trong Đ. Lên bộ, khẩu “cốt che”(1) 75 ly là một gánh nặng. Phải bốn chục người khiêng lên khiêng xuống xe bò. Kỷ niệm không quên được là trận bị phục kích trên đường số 15 khi kéo “voi” qua lộ.
Hai Lung cũng có kỷ niệm nhớ đời là phục kịch hạ con “Cọp Ba Móng” từng gieo kinh hoàng trong nhiều tháng ở chiến khu Đ. Con cọp này từ Là Ngà vượt sông vô chiến khu. Nó ăn thịt người bỏ lại chiến trừong Là Ngà nên “ăn quen bén mùi”. Nó bị bắn hư mất một chân nên để lại trên cát chỉ có ba móng. Từ đó thiên hạ đặt cho nó cái tên “Ông Ba Móng”. Cùng một lúc, nó xuất hiện ở nhiều nơi: Cây Chanh, Hàng Dài, Ba Hố, Đất Cuốc, Suối Đỉa, đâu đâu dân chúng, cơ quan cũng đốn cây rào dậu kiên cố. con Cọp Ba Móng có thể nhảy qua rào cỡ hai thước cõng một con bò trên lưng chạy đi mấy cây số. Có lần Ba Trứ đi công tác cưỡi ngựa, qua một truông rừng trông thấy một chiếc áo bông đẫm máu – thêm một nạn nhân nữa của Cọp Ba Móng vừa bị vồ. Danh sách nạn nhân của Cọp Ba Móng dài sọc, ông già, con nít, thanh niên, phụ nữ đều có; bộ đội cũng góp phần xương máu, đại đội phó Xê cũng bị vồ trên đường đi công tác. Không thể để nó tác oai tác quái mãi được, anh Bùi Cát Vũ cùng một số anh em binh công xưởng nghĩ ra kế gài mìn trên thi hài nạn nhân, cuối cùng mới diệt được nó.
Hạ được con Cọp Ba Móng rồi, dân chúng và cán bộ trong chiến khu Đ thở phào nhẹ nhõm. Đây là chiến công không kém trận Chi đội 10 đánh địch nhảy dù ở Tân Hòa, Mỹ Lộc những năm đầu kháng chiến.
Kỷ niệm đáng yêu nhất đời của Năm Chảng không giống kỷ niệm của các tạn tiểu tư sản trí thức. Anh rất vui mừng được học lớp văn hóa bổ túc để chuẩn bị về thành công tác. Năm Chảng không khỏi buồn cười khi nghĩ tới chuyện điều khiển cây bút máy. Nó nhỏ nhoi, nhẹ hửng mà bướng bỉnh, rắc rối gấp chục lần cây “xà búp” vừa nặng vừa dài của anh thuở giang hồ. Nhưng anh hết sức cố gắng vì anh hòan tòan đồng ý với giảng viên là kém văn hóa không làm được việc lớn…
Vài tháng sau tảo thanh, Hai Vĩnh mới bình phục. Lãnh chức vụ Trung đoàn trưởng Trung đoàn 197 không được bao lâu thì được lệnh ra Bắc trong phái đoàn quân dân chánh do đồng chí Phạm Hùng dẫn đầu. Trung ương chuẩn bị mở Đại hội Đảng vào cuối năm 49 nên đầu năm 49 phái đoàn miền Nam chuẩn bị dần. Đường Xuyên Việt dài trên hai ngàn cây số nhưng trong kháng chiến phải tính gấp đôi vì phải đi vòng, vô rừng, lên núi chưa kể phải đánh địch mà đi… Hai Vĩnh được tín nhiệm giao công tác tổ chức bảo vệ an ninh cho đoàn. Trong phái đoàn này có hai đồng chí Tám Tâm và Lưu Quý Thoái.
Không lãnh nhiệm vụ như Hai Vĩnh nhưng Tám Tâm cũng bận rộn: anh phải báo cáo về việc tảo thanh với các đồng chí Trung ương, nhất là về số tiền vàng tịch thu của Bảy Viễn. Giám đốc binh công xưởng miền Đông là Kiều Đắc Thắng đã mựơn Tám Tâm nửa triệu bạc để mua hóa chất cho binh công xưởng. Tám Tâm tới đòi trước ngày lên đường.
- Anh là cái thá gì mà tôi trả cho anh? – Kiều Đắc Thắng trừng trợn nhìn Tám Tâm – Tiền này đâu phải tiền của anh!
Tám Tâm giận xám mặt:
- Anh Hai Thắng, anh là cán bộ lãnh đạo Quân khu, sao ăn nói ngược ngạo vậy? Đồng ý là tiền không phải của tôi, nhưng chính tay tôi giao cho anh, giao tận tay anh. Và anh đã làm giấy ký nhận. Bây giờ anh trở trái làm mặt…
Kiều Đắc Thắng hung hăng chụp khẩu súng sáu. Tám Tâm nhanh tay hơn:
- Bỏ tay ra! Anh không lẹ bằng tôi đâu. Bàn tay quân phiệt của anh đã giết người ta như ngóe. Bây giờ phải có người trị anh. Năm đó anh ra Bắc, Bác đã đặt cho anh một cái tên mới: Vũ Thùy Nhân. Ý Bác muáo tù mốc cời, hôi hám cầm tay, chỉ được mặc vào khi múa xong điệu múa kỳ dị quái đản. Mười Lực rùng mình. Dĩ vãng xấu xa đó anh đã vung gươm chặt đứt từ mùa thù năm 45, nay lẽ nào anh lại quay về? Nhưng lão già râu kẽm “quan cách mạng” hàng ngày đang dòm ngó anh. Lão lăm le cây viết hai đầu “sinh, tử” trên tập giấy bìa đen. Chỉ lộn đầu bút là tiêu một mạng người.
Mười Lực cố tìm một lý do để ra đi. Cố tìm thì cũng có. Vợ anh mới vừa chết trước đó, việc ma chay không đúng theo ý anh: Không có ván đóng hòm, dàn kèn của Chi đội bận rộn chuẩn bị về Quân khu, không giúp đưa linh người quá cố. Còn đứa con vắng mẹ, làm sao đây? Không lẽ ôm con đánh giặc? Thế là Mười Lực đã tìm được lý do: Về thành gửi con mồ côi cho bà ngoại. Lý do không vững lắm nhưng cũng tạm giúp người ra đi yên tâm.
Riêng Bảy Môn thì việc đi hay ở không gây ray rứt nhiều như Mười Lực. Anh tin nơi số mạng mình bao giờ cũng được một chữ nhàn. Hồi làm ở hãng đóng tàu Caric ở Thủ Thiêm, anh sống khỏe hơn các bạn đồng nghiệp, có thì giờ rảnh đọc báo “Lao động” của hai tay cách mạng Nguyễn Văn Tạo và Nguyễn Văn Nguyễn. Nhờ vậy mà sớm có ý thức chính trị. Đi kháng chiến lúc nào cũng có Mười Lực bên cạnh. Mười Lực nắm Chi đội thì Bảy Môn nắm đại đội. Bởi sự gắn bó khắn khít đó mà khi Mười Lực quyết định về thành thì Bảy Môn cũng gật theo:
Miệt Ba Giồng coi vậy mà rất gần thành phố Sài Gòn. Chỉ một con nước là tới Phú Xuân Nhà Bè. Ghe Bảy Môn đi trót lọt, nhưng ghe Mười Lực thì gặp bọn “mặt gạch” (Malgache) chặn bắt dọc đường. Anh khai con đau đưa về thành hốt thuốc. Anh bồng đưa thằng nhỏ vừa qua “thôi nôi” mấy tuần cho bọn lính xem nhưng vô hiệu.
Bọn lính được lệnh bắt tất cả những người trong Rừng Sác đi về thành. Mười Lực được giải về bộ chỉ huy. Túng thế anh phải khai thật và xin được liên lạc với Ngài Bảy Viễn càng sớm càng tốt. Thế mới biết định mệnh lá lay và số phận con người như chiếc lá giữa dòng. Mười Lực định “rửa tay gói kiếm” về nhà ở ẩn, nhưng dòng đời lại đưa đẩy về phái Bảy Viễn thêm lần nữa.
Cũng đêm ấy, còn có một người bí mật rút về thành. Người đó là Tư Huỳnh. Sau khi thuyết phục được Mười Lực và Bảy Môn theo yêu cầu của Bảy Viễn, Tư Huỳnh cũng “lui ghe”. Nhưng anh không ngờ tên “trạo” của anh chính là người của “ông già râu kẽm”. Thế nên thuyền anh cứ loay hoay mắc cạn từ khuya đến sáng để trạm kiếm soát ở các ngã ra vô thành tóm bắt giải về bộ chỉ huy.
Một tòa án quân sự đặc biệt được lập ra. Trên ghé xét xử có Năm Hà, Nguyễn Đức Huy. Trước vành móng ngựa có Tư Huỳnh và một đồng lõa: Ba Bay tức Huỳnh Văn Nên.
Theo lời khai của Tư Huỳnh thì Ba Bay biết hết tất cả nội vụ nhưng không hiểu vì lý do gì mà Ba Bay không khai báo.
Trước tòa, Ba Bay bình tĩnh khai:
- Đúng là tôi biết nội vụ nhờ một sự tình cờ. Đi qua nhà Tư Huỳnh đúng vào đêm ba người ăn nhậu và tâm sự với nhau, tôi biết ba người sẽ về thành nhưng không khai báo. Tại sao? Tôi nghĩ rằng ba người này đều là cấp bộ chỉ huy, ăn học nhiều hơn tôi, họ có lý do nào đó để hành động mà tôi không biết được. Tôi là tay giết người, đã cho đi “mò tôm” mấy chục tên Việt gian nhưng tôi kỵ nhất là cái nghề mật báo. Nó đê hèn đốn mạt, không xứng đáng với người quân tử. Tôi thà lãnh án tử hình hơn đi khai báo ba vị đàn anh mà tôi mến mộ.
Vì thái độ “quân tử Tàu” đó, Ba Bay lãnh án hai năm tù. Phải nói đây là bản án hết sức nhẹ bởi chánh án Năm Hà lại chính là “đại ca” của Ba Bay. Và thiêng liêng hơn nữa là hai người đã thề nguyền đồng sinh đồng tử nơi đình thần Tam Thôn Hiệp bên bờ sống Lòng Tàu…
Tội của Tư Huỳnh nặng hơn. Lãnh công tác địch vận, làm không xong lại trở vô khu kêu gọi hai cán bộ cấp tiểu đoàn và trung đoàn nhảy ra đầu Tây. Bản án tử hình đã thấy trước mắt, khi công tố viên Nguyễn Đức Huy vểnh râu kẽm ra buộc tội. Tư Huỳnh lạnh lùng nói:
- Tội tôi làm, tôi xin chịu. cho tôi xin tự xử…
Nguyễn Đức Huy lắc đầu:
- Không được! Đã có đội hành quyết.
Tư Huỳnh lớn tiếng:
- Các anh biết rõ Tư Huỳnh quá mà! Khi lâm trận, Tư Huỳnh đứng thẳng lưng chỉ huy. Tư Huỳnh không bao giờ tránh đạn mà trái lại, đạn né Tư Huỳnh. Bây giờ trước khi chết, Tư Huỳnh xin anh Năm cho một đặc ân cuối cùng: cho tôi tự xử. Lúc sống mình là anh hùng hảo hơn thì lúc chết, mình cũng phải anh hùng hảo hớn.
Năm Hà chưa biết tính sao, Nguyễn Đức Huy đã ra lệnh thì hành bản án.
Tòa án tổ chức tại Hàng Điều, Bàu Bông, điều mọc như rừng trên vùng cát trắng nóng bỏng dưới ánh mặt trời. Thiên hạ rủ nhau đi xem vụ xử rất đông.
Trong một lúc, ta mất ba chiên sĩ Bình Xuyên cấp đại đội và chi đội. Ba tổn thất lớn lao này đều do một người gây nên: Nguyễn Đức Huy. Nhưng cả ba vụ đều năm trong bóng tôi nên chẳng ai biết mà kết tội lão già râu kẽm. Điều trớ trêu là chính kẻ đẩy nạn nhân vào con đường tội lỗi lại ngang nhiên ngồi ghế công tố viên lớn tiếng buộc tội này kia. Nhưng, dù ý đồ thâm độc đến đâu, thủ đoạn gian xảo cỡ nào, kẻ gian không tài nào che giấu trọn vẹn. Lão râu kẽm bị một người bí mật dòm ngó: Tám Tâm. Sau tảo thanh, Tám Tâm nhận thấy Nguyễn Đức Huy có nhiều thay đổi. Trước nhất, hắn sửa soạn “dung nhan mùa hạ” cạo gọt săc lẻm. Thì ra hắn bí mật “hốt ổ” Bảy Viễn để lại. Đám gái đẹp của Bảy Viễn được chuyển về công tác tại văn phòng Bí thư phân khu Duyên Hải. Nhưng chuyện gái chưa phải là điều lơn nhất. Tám Tâm nghi hắn hơn trong vấn để tiền bạc. Tất cả quĩ đen, quĩ trắng của Bảy Viễn, Tám Tâm sau khi tịch thu đều giao nạp cho bí thư Nguyễn Đức Huy. Để chắc ý, anh xin Huy tờ biên nhận, vì số tịch thu rất to: 15 ký vàng, 2,5 đông tiền Đông Dương…
Huy cười:
- Anh không tin Đảng sao?
- Tin chớ - Tám Tâm vội trả lời.
- Tin sao bắt Đảng phải làm biên nhận? - Xin lỗi! Đồng chí không phải là Đảng – Nhận thấy mình làm căng quá chỉ có hại, Tám Tâm đấu dịu – Tôi rất tin anh, nhưng người khác lại không tin tôi. Nên tôi cần phải có biên nhận để trình khi Đảng xét hỏi về vụ tảo thanh.
Nguyễn Đức Huy cũng cười theo:
- Tôi thử đồng chí đó thôi. Để tôi làm biên nhận cho đồng chí.
Tám Tâm chỉ thủ tờ biên nhận về phần mình. Còn số tiền và vàng kia, anh không biết lão già râu kẽm sử dụng như thế nào?
Bảy Rô cũng đã một lần “đụng tóe lửa” với quan cách mạng lão già râu kẽm. Lúc đó Bảy Rô là Ủy biên ban sản xuất Tình đội Bà Chợ (1), có nhiệm vụ thu xuất kho gạo cho tỉnh. Nhằm lúc địch phong tỏa kinh tế, cắt đức liên lạc tiếp tế, một hột gạo quý như một giọt máu, lão già râu kẽm căn dặn Bảy Rô: “Phải có chữ ký của tôi mới được xuất kho, nghe chưa?”.
Ngày kia có hai đại đội C2 và C3 từ khu Đông về đánh tàu tại sông Thị Vải. Đi đường mệt mỏi, đói bụng, liên lạc tới Bảy Rô xin xuất kho lấy gạo nấu ắn.
Bảy Rô hỏi:
- Phiếu lãnh gạo đâu?
- Tụi tôi ở khu Đông được lịnh về cấp tốc, không kịp chờ phiếu…
Bảy Rô lắc đầu:
- Không có phiếu thì tôi không dám xuất kho. Ông già râu kẽm đã dặn kỹ.
Anh liện lạc kêu lên:
- Nhưng anh không thể bỏ đói tụi tôi, những người đang đánh giặc…
Bảy Rô phân vân: xuất kho thì thế nào cũng bị lão già râu kẽm cự. Mà không xuất kho thì để bộ đội đói sao đành. Giữa hai cái phải chọn một. Anh nghe theo tiếng gọi của lẽ phải, xuất sáu chục ký gạo. Khi vô sổ, Bảy Rô lại lo: không có chứng từ hợp lệ, không có chữ ký của Hai Đại sẽ rắc rối đây!
Đúng vào lúc anh tưởng tượng vẻ mặt cau có, đôi mắt trợn trừng, hàm râu kẽm vểnh lên thì súng ngoài sông cái nổ như bắp rang sau tiếng gầm rung rinh đất của thủy lôi. Hai đại đội mà anh vừa cho ăn đang săn tàu giặc. Mọi người hồi hộp lắng nghe tiếng súng nổ, đoán chừng diễn tiến ngoài sông cái.
Chừng im tiếng súng, liên lạc về cho hay thủy lôi nổ chìm một chiếc lồng cu. Bảy Rô mừng “hết lớn”. Nếu không “thí mạng cùi” mở kho tiếp tế cho bộ đội thì làm sao có được chiến công này!…
Ngày hôm sau, lão già râu kẽm xét sổ, đập bàn vểnh râu cự Bảy Rô:
- Ai cho phép đồng chí xuất sáu chục ký gạo này? Tôi đã căn dặn phải có chữ ký của tôi mới được phép xuất kho kia mà?
Bảy Rô đã chuẩn bị trước nên trả lời trôi chảy:
- Lúc nào tôi cũng nhớ lệnh của cấp trên: phải có chữ ký của đồng chí mới xuất kho. Nhưng đây là trường hợp đặc biệt. Bộ đội từ khu Đông về đang đói. Sẵn kho ở gần, họ tấp vô.
Lão già râu kẽm cắt ngang:
- Đồng chí cho họ vay vô nguyên tắc như vậy sao? Làm việc gì cũng phải có nguyên tắc chớ!
Bảy Rô cãi lại:
- Sao lại vô nguyên tắc? Bộ đội đói thì mình phải cho ăn. Huống chi đây là bộ đội đang nằm kích tàu. Tôi xuất kho cho là đúng lắm chớ… Chợt thấy mình lên giọng với chính ủy Phân khu Duyên Hải, Bảy Rô dịu giọng:
- Nhờ ăn no mà chiều hôm qua, bộ đội mình giựt mìn đánh chìm một tàu lồng cu đó đồng chí. Có ai báo cáo với đồng chí chưa?
Nét mặt lão già râu kẽm giãn ra, tươi tỉnh:
- Có. Tôi đã được báo cáo.
Ông ta trả quyển sổ thu xuất kho cho Bảy Rô:
- Đông chí làm đúng.
Bảy Rô nhận sổ, đi như bay về kho, bụng nghĩ thầm: “rất may là bộ đội đánh thắng. Nếu đánh thua thì chưa chắc đã yên thân với cha già râu kẽm này”.
Từ cuộc đung độ này, Bảy Rô càng thêm tin tưởng nơi lẽ phải. “Không có nguyên tắc nào cao hơn lẽ phải”.
Cũng nhờ dám giỡn mặt với lão già râu kẽm mà Bảy Rô được cảm tình với anh em binh sĩ. Dù chỉ là một người giữ nhiệm vụ nhỏ, anh được mọi người mến và tặng cho anh danh hiệu “anh Bảy chịu chơi”.
Chú thích:
(1) Bà-Chợ là hai tỉnh Bà Rịa – Chợ Lơn sát nhập năm 1949-1950