Khi chúng tôi vừa bước chân về đến nhà thì mẹ tôi hỏi ngay: - Thế nào? Ông Xã Trưởng bảo sao? - Tôi không đến Trụ sở xã. - Sao không đến? - Không đến, vì tôi gặp mấy ông bạn ở quán cà phê Đức-Bà giữ lại ngồi chơi. Khi ở đấy ra thì muộn quá. Để mai đi vậy. Như vậy, ông Liên đã thôi việc giao dịch với ông già có lắm chó. Trên đường về, nhiều lần tôi tự hỏi, chắc là lại có mưu mẹo gì đây. Nhưng nghe câu cuối cùng ông vừa nói thì tôi yên tâm và không ngờ vực gì nữa. Vì ngày hôm sau, chúng tôi lại phải đến Trụ Sở xã, thì chắc chắn rằng ông Liên đã bỏ việc bán tôi cho ông Vỹ-Tiên. Mặc dầu ông Liên đã đe dọa tôi, nếu được lúc thuận tiện thế nào tôi cũng kể lại chuyện cho mẹ tôi nghe. Nhưng suốt cả buổi chiều ông Liên không đi đâu cả. Tối đến, tôi phải đi ngủ, tiếc không sao có dịp nói với mẹ tôi. Tôi lên giường ngủ, định tâm đến hôm sau thể nào cũng nói cho mẹ tôi hay. Nhưng sáng hôm sau, khi tôi thức dậy thì tôi không thấy mẹ tôi đâu cả. - Mẹ ơi! - Bà ấy vào làng đến chiều mới về. Tôi không hiểu sao sự vắng mặt của bà làm cho tôi lo âu ghê gớm. Hôm qua, bà không nói là hôm nay có việc phải vào làng. Sao bà không đợi chúng tôi cùng đi, vì trưa nay ông Liên sẽ đưa tôi đến chỗ Xã trưởng? Trước khi chúng tôi đi không biết bà có kịp về không? Một sự sợ hãi mơ hồ làm hồi hộp trái tim tôi. Không biết rõ cái nguy hiểm nó đang đe dọa tôi, nhưng tôi cảm thấy một tai nạn gì sắp xảy đến cho tôi. Ông Liên cứ chòng chọc nhìn tôi. Tôi phải ra vườn lánh mặt. Cái vườn đó, không to lắm, nhưng đối với nhà tôi, rất có giá trị vì chính nó nuôi chúng tôi, cung cấp cho chúng tôi, trừ lúa mì ra, gần hết các thức ăn hàng ngày, nào khoai, đậu, nào bắp cải, củ cải trắng, đỏ… Vì thế, không một tấc đất nào bỏ không. Thế mà mẹ tôi cũng dành cho tôi một mẩu đất con để trồng những cỏ, những cây, những rêu mà tôi nhặt ở ria rừng hay ở bờ giậu khi đi chăn bò, về cắm đầy đặc trong mẩu vườn của tôi. Vườn tôi không phải là một hoa viên với những lối đi rải cát, với những luống hoa xinh đẹp mà những khách qua đường phải dừng chân bên hàng giậu xén đều để ghé trông. Nhưng tôi thấy nó đẹp và quý nó vì nó là của tôi, của riêng tôi. Mùa hè trước, tôi kiếm được ít hạt giống về trồng. Tính đến mùa xuân tới thì mới nở hoa. Nhưng đó là những giống hoa sớm nên không đợi hết mùa đông nó đã lần lượt khai hoa. Tính tò mò tôi lúc này càng thấy chấn động. Cây trường thọ đã có nụ vàng. Cây đinh hương đã đâm mấy cành chi chít những điểm tim tím. Và trong đám lá dăn-gợn của cây ngọc-trâm-hoa trổ lên mấy búp như sắp nở tung ra. Tôi thích thú vô cùng. Nhưng còn một khoảng vườn mà tôi lưu tâm nhất là chỗ tôi đã trồng một thứ cây lạ, không có ở vùng này mà người ta đã cho tôi, đó là cây cúc-vu. Người ta đã bảo giống cây này có những củ như khoai tây nhưng thơm ngon hơn. Những hứa hẹn đó đã nẩy cho tôi một ý kiến là sẽ làm cho mẹ tôi một bữa phải ngạc nhiên. Vì thế tôi không nói gì cho mẹ tôi biết. Nó có nảy mầm mọc lá, mẹ tôi sẽ tưởng là một giống hoa. Rồi đến ngày nào đó có củ, nhằm lúc mẹ tôi vắng nhà, tôi bới lên làm món súp tân kỳ - tôi chưa nấu súp bao giờ, nhưng chắc cũng dễ - và múc ra đĩa. Ai sẽ phải ngạc nhiên? – Mẹ tôi. Ai sẽ được vui sướng? – Mẹ tôi. Thế là chúng tôi có một món ăn mới thay cho món khoai thường xuyên và mẹ tôi cũng bớt đau khổ về việc bán con Hồng-Ti. Người sáng chế ra món ăn đó là tôi, là cu Minh. Như vậy tôi cũng có ích cho gia đình tôi đấy chứ. Với dự định lớn lao ấy, ai cũng hiểu rằng tôi chăm chú đến cây cúc-vu biết là dường nào. Ngày nào tôi cũng ra xem nó đã mọc đến đâu. Vì tôi nóng lòng chờ đợi nên thấy nó chẳng mọc được tí nào. Tôi quỳ xuống đất, chống hai tay cúi đầu nhìn đám cúc-vu. Bỗng có tiếng gọi tôi rất gấp. Tiếng ông Bảo-Liên. Ông ấy muốn gì tôi? Tôi vội vàng chạy về nhà. Tôi tái mặt khi thấy ông Vỹ-Tiên với đàn chó đứng trước lò sưởi. Tôi hiểu ngay Bảo-Liên muốn gì. Biết thân là không hy vọng gì Bảo-Liên thương tôi, cứu tôi, tôi liền chạy đến ông già: - Ông ơi! Ông thương con. Ông đừng bắt con đi. Rồi tôi khóc òa lên. Ông già nhẹ nhàng bảo tôi: - Nín đi. Con ơi! Đi với ta, con sẽ không khổ đâu, ta không hay đánh trẻ con. Rồi con có những học trò ta làm bạn, chúng rất vui. Con còn tiếc gì nữa? - Mẹ tôi! Mẹ tôi! Bảo-Liên kéo tay tôi và nói: - Dù sao, mày cũng không được ở cái nhà này nữa. Đi với ông già hay đi Nhà Phúc. Mày chọn đằng nào thì chọn! - Không! Tôi chỉ ở với mẹ tôi. Bảo-Liên nổi giận đùng đùng gầm thét: - À! Mày nhiễu tao có phải không? Nếu mày muốn đánh để tao đánh cho mày xem. Vỹ-Tiên can: - Thằng bé này nó nhớ mẹ nó. Không nên vì thế mà đánh nó. Nó có lòng tốt đấy. - Nếu ông nựng nó, nó lại kêu già! - Bây giờ ta thanh toán cho xong đi. Nói xong Vỹ-Tiên xỉa lên bàn 8 đồng 5 phật-lăng. Bảo-Liên vơ luôn bỏ túi. Vỹ-Tiên hỏi: - Gói đồ đâu? Bảo-Liên đưa một bọc, gói bằng chiếc mùi soa xanh thắt bốn góc, nói: - Đây. Vỹ-Tiên cởi nút mùi-soa xem: trong có hai sơ-mi và một cái quần vải của tôi. Vỹ-Tiên nói: - Không đúng như lời đã giao ước. Quần áo lành đâu? Đây ông đưa toàn đồ rách. - Không có đồ nào khác. - Nếu hỏi thằng này tất nó sẽ nói không đúng. Nhưng thôi, tôi không muốn cãi với ông vì tôi không có thì giờ. Tôi phải đi bây giờ. Đi bé con! À, tên nó là gì? - Lê-Minh. - Vậy Lê-Minh hãy cầm gói đồ, đi trước con Lãnh-Nhi. Tiến đằng trước, tiến! Tôi khóc và giơ hai tay về phía ông già, rồi về phía Bảo-Liên nhưng cả hai người đều ngoảnh mặt đi. Tôi thấy bàn tay ông già cầm cổ tay tôi kéo đi. Phải đi. Than ôi! Ngôi nhà yêu dấu, khi bước chân khỏi cửa, tưởng chừng như tôi đã để lại một miếng da, miếng thịt của tôi. Tôi vội nhìn chung quanh tôi, nhưng mắt tôi mờ đi vì ràn rụa nước mắt, tôi chẳng nhìn thấy ai để kêu cứu cả. Không có một ai trên đường và cũng không có người nào ở cánh đồng cỏ gần đó. Tôi cất tiếng gọi: - Mẹ ơi! Mẹ Liên ơi! Nhưng không ai trả lời. Tiếng kêu của tôi nghẹn dần. Tôi phải theo, Vỹ-Tiên không buông cổ tay tôi. Bảo-Liên nói theo: - Lên đường mạnh giỏi! Rồi ông ta vào nhà. Than ôi! Thế là hết! Vỹ-Tiên bảo tôi: - Minh! Con đi đi chứ! Và bàn tay ông ta kéo tôi đi. Lúc đó, tôi đi cạnh ông. May sao ông không bắt tôi đi nhanh và hình như ông theo bước chân tôi, đi chậm lại. Con đường chúng tôi đi dần dần lên núi và theo hình chữ chi. Mỗi một chỗ ngẹo, tôi lại nhìn thấy nhà mẹ tôi nhỏ dần, nhỏ dần đi. Nhiều lần tôi đã đi qua con đường này, tôi biết rằng chỉ còn một chỗ ngẹo nữa là còn trông thấy nhà tôi thôi. Qua chỗ này vài bước, lên tới cao nguyên thì hết; hết cả không còn gì. Trước mặt tôi phong cảnh lạ lùng, sau lưng tôi là căn nhà ở đấy, cho tới ngày nay, tôi đã sống sung sướng mà rồi đây có lẽ không bao giờ tôi lại được nhìn thấy nữa. May sao cái dốc đó khá dài. Nhưng đi mãi rồi chúng tôi cũng lên đến đầu dốc. Vỹ-Tiên vẫn nắm cổ tay tôi. Tôi nói: - Ông cho con nghỉ một chút. - Được con cứ nghỉ. Thế là lần đầu tiên ông già buông cổ tay tôi ra. Nhưng đồng thời, ông đưa mắt nhìn con Lãnh-Nhi và ra hiệu, con này hiểu ngay. Lập tức, Lãnh-Nhi bỏ đàn chó và đến ngồi chồm hổm bên tôi. Tôi hiểu là ông già đã ra lệnh cho con chó gác tôi. Nếu tôi làm một cử động gì để trốn, nó sẽ nhảy vào cắn chân tôi. Tôi tìm chỗ ngồi trên một mỏm đá đầy cỏ êm. Lãnh-Nhi theo sát tôi. Ngồi trên mỏm đá, tôi đưa mắt tìm mẹ tôi, nước mắt cứ tràn ra. Dưới chân tôi là một thung lũng mà ở đó, chúng tôi vừa đi qua, cánh rừng và cánh đồng cỏ rồi đến chỗ thấp hơn hiện lẻ loi ngôi nhà êm đềm của tuổi thơ tôi, ngôi nhà mẹ tôi. Nhà đó dễ nhận ra vì ở giữa đám cây cao, có một làn khói xanh xanh từ mái bếp tỏa lên trời và bay về phía tôi ngồi. Không rõ vì quá tưởng tượng hay vì sự thực mà làn khói đó đưa đến bên tôi một mùi quen thuộc của cành sồi, thứ củi duy nhất mà chúng tôi đã dùng trong suốt mùa đông. Tôi mường tượng như là đang ngồi cạnh bếp nhà tôi, trên chiếc ghế dài, hai chân vùi vào đống tro, gió luồn vào nóc bếp hắt khói vào mặt chúng tôi. Mặc dầu, tôi ở xa và ngồi cao, trông về nhà tôi, mọi vật đều giữ nguyên hình rất rõ, duy có phần rút nhỏ đi thôi. Trên đống phân khô, con gà mái nhà tôi, con gà cuối cùng còn lại, đang đi lại kiếm ăn, nhưng nó trông nhỏ đi nhiều. Nếu người không biết nó thì cho đó là con chim câu. Đầu nhà, tôi nhìn thấy cây táo thân cong mà tôi vẫn giả làm ngựa để cưỡi. Rồi, bên cạnh dòng suối như một giải bạc trên đám cỏ xanh, tôi nghĩ đến cái rãnh sâu mà tôi đã cố công đào, xẻ để chạy cánh cối xay, một thứ chong chóng tôi chế mất bao nhiêu thì giờ mà nó không sao quay được. Tất cả mọi vật đều ở chỗ cũ, từ cái xe một bánh của tôi, cái cày làm bằng cành cây của tôi, cái chuồng thỏ khi chúng tôi còn nuôi thỏ, cho đến cái vườn, cái vườn thân yêu của tôi, nhìn rõ mồn một. Ai sẽ xem nó nở. Những bông hoa xấu số của tôi? Ai sẽ sờ đến khóm cúc-vu của tôi? Chắc hẳn là Bảo-Liên, con người độc ác. Chỉ còn một bước nữa là tôi mất tất cả những thức thân yêu đó. Chợt trên con đường về nhà tôi, tôi nhìn xa xa thấy bóng cái mũ vải trắng. Nó biến vào trong đám cây rồi lại hiện ra. Từ chỗ tôi đến đó xa quá nên tôi chỉ nhìn thấy sắc trăng trắng của cái mũ lượn ở trong đám cành cây như một cánh bướm mùa xuân. Cũng có những lúc lòng người nhìn rõ hơn mắt, dù là những con mắt tinh nhất. Vì thế, tuy đứng xa, tôi biết ngay là mẹ tôi. Phải, chính mẹ tôi đấy. Không còn nghi ngờ gì nữa. Vỹ-Tiên chợt gọi tôi: - Minh ơi! Ta tiếp tục đi đi! - Ô! Thưa ông, con xin ông cho con… - Bảo-Liên nói không đúng. Mày không có chân. Mới đi có thế đã nhọc. Như thế thì còn làm ăn gì được. Tôi không trả lời. Tôi cứ nhìn về phía nhà tôi. Chính mẹ tôi. Chính mũ vải của bà, chính chiếc áo xanh của bà. Chính bà đó. Bà rảo bước hình như mong cho chóng về tới nhà. Về đến cổng, bà đẩy cửa vào, đi qua sân rất nhanh. Tôi liền đứng choàng dậy trên mỏm đá, không để ý đến con Lãnh-Nhi nhảy đến bên tôi. Mẹ tôi không ở trong nhà lâu, bà ra ngay và hớt hải chạy ngang chạy ngửa trong sân, hai cánh tay giơ lên thất vọng. Mẹ tôi đang tìm tôi đấy. Tự nhiên tôi cúi mình về đằng trước gào to: - Mẹ ơi! Mẹ ơi! Nhưng tiếng gọi của tôi không xuống tới chân núi, không át nổi tiếng suối rì rào. Nó tắt hẳn trong khoảng không. Vỹ-Tiên hỏi tôi: - Gì thế? Mày điên à? Không trả lời, tôi đứng trơ, hai mắt rọi sâu về phía mẹ tôi, nhưng mẹ tôi nào có biết tôi còn đang được đứng gần mẹ tôi. Bà không nghĩ ngửng đầu lên để nhìn tôi. Bà đi lại qua sân, ra hẳn ngoài đường nhìn tứ phía. Tôi lại gào to hơn nhưng cũng như lần trước, không hiệu quả gì. Bấy giờ Vỹ-Tiên nghi hoặc, cũng leo lên mỏm đá, chỗ tôi. Ông nhận ngay thấy cái mũ trăng trắng đang cử động. Ông nói một mình: - Khốn nạn cho thằng bé! Phấn khởi bởi câu nói của ông, tôi liền kêu: - Ông ơi! Ông thương con? Ông cho con về với mẹ con. Nhưng ông cầm cổ tay tôi dắt xuống và nói: - Con ơi! Chúng ta nghỉ đã lâu rồi. Bây giờ đi đi. Tôi định giật tay ông ra nhưng ông già giữ chặt quá. Ông gọi: - Lãnh-Nhi đâu! Hiệp-Nhi đâu! Tức thì hai con chó vây tôi. Hiệp-Nhi đi trước, Lãnh-Nhi đi sau. Đi được vài bước, tôi quay đầu lại. Chúng tôi đã qua đỉnh núi. Tôi không nhìn thấy thung lũng và nhà tôi nữa. Xa xa, chỉ thấy những ngọn đồi xanh lô nhô trên nền trời cao rộng. Mắt tôi nhòa trong khoảng vô tận.