Dịch giả : Nhữ Thành
Đánh máy : Mickey, TSAH, CHIEU PHU, THANH LOAN
HẠNG VŨ BẢN KỶ

1. HẠNG TỊCH, người ở đất Hạ Tương, tên tự là Vũ. Khi khởi nghĩa (209 trước Công nguyên), Tịch hai mươi bốn tuổi. Chú Tịch là Hạng Lương. Cha của Hạng Lương là Hạng yên làm tướng nước Sở, bị tướng nước Tần là Vương Tiễn giết. Họ Hạng đời đời làm tướng nước Sở, được phong ở đất Hạng cho nên lấy họ là họ Hạng. Lúc còn nhỏ, Tịch học chữ, học chẳng nên, bỏ đi học kiếm thuật, cũng chẳng nên. Hạng Lương nổi giận. Tịch nói:
- Biết chữ chỉ để đủ viết tên họ mà thôi. Kiếm chỉ đánh lại một người, không bỏ công học. Nên học cái đánh lại được vạn người!
Hạng Lương bèn dạy cho Tịch binh pháp. Tịch mừng lắm. Tịch chỉ học để biết qua ý nghĩa, chứ không chịu học cho đến nơi đến chốn.
Trước đấy, Hạng Lương phạm tội và bị bắt ở Lịch Dương. Lương nhờ quan coi ngục ở đất Kỳ là Tào Cữu viết thư cho Tư Mã hân làm quan coi ngục ở Lịch Dương, nhờ vậy mà việc này thu xếp xong (việc này để chuẩn bị cho sự biệt đãi của Tịch đối với Tư Mã Hân ở đoạn 7).
Hạng Lương có lần giết người, để tránh báo thù, Lương cùng Tịch bỏ trốn đến đất Ngô Trung. Các kẻ hiền sĩ và đại phu ở đất Ngô Trung đều thua kém Hạng Lương. Mỗi khi ở Ngô Trung có việc làm xâu hay tang lễ, Hạng Lương thường đứng ra lo liệu. Lương lén lút dùng binh pháp để tập hợp tân khách, và trai tráng ở đấy, và nhờ đó, được biết năng lực của họ.
Tần Thuỷ Hoàng đi chơi đất Côi Kê, vượt qua Chiết Giang, Lương và Tịch cùng đi xem. Tịch nói:
- Có thể cướp và thay thế hắn!
Lương bịt miệng Tịch:
- Đừng nói bậy! Bị giết cả họ bây giờ!
Nhân việc này Lương coi Tịch là kẻ khác thường. Tịch, mình cao hơn tám thước, có sức mạnh cất nổi cái vạc (Ở trước cửa miếu của vua Hạng Vũ có cái vạc nặng không ai cất nổi, chỉ có Vũ cất được), tài năng, chí khí hơn người. Các con em ở đất Ngô Trung đều sợ Tịch (Đoạn thứ nhất giới thiệu gia thế Tịch và Lương. Tiểu sử Tịch lúc còn nhỏ, nêu bật những đặc điểm khác người của Tịch về học vấn, chí khí, sức lực).
2. Tháng bảy, năm thứ nhất đời Tần Nhị Thế ( - 209), bọn Trần Thiệp khởi nghĩa ở Đại Trạch (Xem Trần Thiệp thế gia). Tháng chín năm ấy, Thái thú quận Côi Kê, tên là Thông, nói với Hạng Lương:
- Dân Giang Tây (Đây là ở phía tây sông Trường Giang) đều làm phản, nay chính là lúc trời tiêu diệt nhà Tần. Tôi nghe nói: “Ai đi trước thì làm chủ người khác; ai đi sau thì bị người khác làm chủ”. Tôi muốn xuất quân, phong ông và Hoàng Sở làm tướng.
Bấy giờ Hoàn Sở đang trốn tránh trong chốn giang hồ. Lương nói:
- Hoán Sở hiện nay đang trốn tránh, chẳng ai biết ở đâu; chỉ có Tịch biết chỗ ở của ông ta mà thôi.
Lương liền đi ra, dặn Tịch cầm kiếm đứng đợi ở ngoài. Lương lại quay vào, ngồi với thái thú. Lương nói:
- Xin cho gọi Tịch vào để giao cho y mệnh lệnh triệu Hoàn Sở về.
Thái thú nói:
- Phải!
Lương gọi Tịch vào. Lát sau, Lương đưa mắt ra hiệu cho Tịch, nói:
- Làm được rồi đấy!
Tịch liền tuốt kiếm chém đầu thái thú. Lương tay cầm đầu thái thú, mang ấn và dây buộc ấn của thái thú lên người ( Lý do của việc giết thái thú: cướp lấy ấn để dùng nó mà hiệu triệu nhân dân, trưng tập quân). Bọn môn hạ hoảng hốt, rối loạn. Tịch giết chết ngót trăm người, cả phủ đều sợ hãi, cúi đầu không dám kháng cự. Lương liền triệu tập quan lại và hào kiệt đã quen từ trước, hiểu dụ duyên cớ khởi nghĩa rồi trưng quân ở Ngô Trung và sai người thu gọi các trai tráng ở các huyện trong phủ, được tám ngàn quân tinh nhuệ (Chuẩn bị cho đoạn cuối khi nói đến “tám nghìn con em Giang Đông). Lương cất nhắc những hào kiệt ở Ngô Trung làm các chức hiệu uý, hậu, tư mã (3). Có một người không được dùng, đến nói với Lương. Lương đáp:
- Trước đây có một lễ tang, ta cắt ông làm một việc gì đấy mà ông làm không xong, vì vậy ta không dùng ông…(Ứng với câu ở đoạn 1: Hạng Lương qua việc tang lễ làm xâu biết năng lực từng người).
Mọi người đều thán phục. Lương bèn làm thái thú Côi Kê, Tích làm ti tướng (phó tướng), chiêu hàng các huyện trong quận (Đoạn thứ 2, nói cách Tịch khởi nghĩa khác thường).
3. Thiệu Binh, người Quảng Lăng, theo lệnh Trần Vương (Tức Trần Thắng – xem Trần Thiệp thế gia), đi chiêu hàng đất Quảng Lăng, nhưng chưa hạ được thành. Nghe tin Trần Vương thua chạy, quân Tần sắp đến. Bình liền vượt Trường Giang, giả làm mệnh lệnh của Trần Vương, phong Lương làm thượng trụ quốc (Chức tương đương với thừa tướng) nước Sở. Bình nói:
- Đất Giang Đông đã bình định rồi! Mau mau đem binh về hướng tây đánh quân Tần!
Hạng Lương bèn đem tám ngàn người, vượt Trường Giang đi về hướng tây. Nghe tin Trần Anh đã lấy được huyện Đông Dương, Lương liền cho sứ giả đến giảng hoà để cùng nhau đem quân đi về hướng tây.
Trần Anh nguyên là thư lại huyện Đông Dương, ngày thường ở trong huyện là người tin cẩn, được khen là bậc trung hậu đứng đắn. Những người trai tráng ở huyện Đông Dương giết quan huyện, tụ họp đến mấy nghìn người, muốn cử một người cầm đầu, nhưng không có ai xứng đáng. Họ bèn mời Trần Anh. Anh từ chối không thể làm nổi. Họ bèn ép Anh làm thủ lĩnh. Người trong huyện theo Anh đến hai vạn. Họ muốn nhân tiện lập Anh làm vương luôn, quân sĩ đầu đội mũ màu lục để cho khác với các quân khác.
Mẹ Trần Anh bảiv>Hàn Vương tên là Thành vẫn ở đất cũ, đóng đô ở Dương Định. Tướng nước Triệu là Tư Mã Ngang đã lấy được Hà Nội và đã có nhiều lần lập công, cho nên được lập làm Ân Vương, cai trị ở đất Hà Nội, đóng đô ở Triều Ca. Hạng Vương đổi Triệu Vương tên là Yết làm Đại Vương. Thừa tướng nước Triệu là Trương Nhĩ vốn hiền lại theo Hạng Vũ vào Quan Trung cho nên được lập làm Thường Sơn Vương cai trị đất Triệu đóng đô ở Tương Quốc. Đương Dương Quân Kình Bố làm tướng nước Sở, thường lập công đầu trong quân đội, cho nên được lập làm Cửu Giang Vương, đóng đô ở Lục. Ngô Nhuế làm lệnh ở Bà Dương, thường đốc suất Bách Việt (tên chung để chỉ tất cả Việt tộc, ở dãy núi Ngũ Lĩnh, sau khi nước Việt bị nước Sở diệt. Vào cuối đời Chiến quốc có Âu Việt ở phía nam Chiết Giang, Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Quảng Đông.) để giúp chư hầu, lại theo Hạng Vũ vào Quan Trung cho nên được lập làm Hành Sơn Vương, đóng đô ở đất Trâu. Cung Ngao làm trụ quốc của Nghĩa Đế, đã đem quân đánh Nam Quân, lập được nhiều công cho nên được làm Lâm Giang Vương, đóng đô ở Giang Lăng. Hạng Vương đổi tên Yên Vương Hàn Quảng làm Liêu Đông Vương. Tướng nước Yên là Tang Đồ đã theo Sở cứu Triệu, sau đó lại theo Hạng Vũ vào Quan Trung cho nên được lập làm Yên Vương, đóng đô ở đất Kế. Hạng Vương đổi Tề Vương là Điền Thi làm Giao Đông Vương.
Tướng nước Tề là Điền Đô đã cùng Hạng Vương cứu Triệu, sau đó lại theo Hạng Vương vào Quan Trung cho nên được lập làm Tề Vương, đóng đô ở Lâm Tri. Điền An, cháu của Tề Vương Kiến bị Tần giết khi Hạng Vũ vượt qua sông cứu Triệu. Điền An đã lấy lại được mấy thành ở Tế Bắc rồi đem binh đầu hàng Hạng Vũ, cho nên được lập làm Tế Bắc Vương, đóng đô ở Bắc Dương.
Điền Vinh đã mấy lần không nghe theo Hạng Vương, lại không chịu đem binh theo quân Sở đánh Tần cho nên không được phong đất. Thành An Quân Trần Dư bỏ tướng ấn mà đi, không theo Hạng Vương vào Quan Trung, nhưng nghe nói ông ta là người hiền, có công với nước Triệu, lại nghe tin ông ta lúc bấy giờ ở Nam Bì, cho nên phong cho ba huyện ở xung quanh đấy. Tướng của Phiên Quân là Mai Quyên lập được nhiều công, cho nên được phong thập vạn hộ hầu.
Hạng Vương tự lập làm Tây Sở Bá Vương, cai trị chín quận, đóng đô ở Bành Thành.
Năm thứ nhất, tháng tư, đời nhà Hán (206) các chư hầu đều bãi binh và trở về nước mình. Hạng Vương về nước, sai người đổi Nghĩa Đế đi nơi khác, nói:
- Các vị đế vương ngày xưa nước vuông ngàn dặm đều ở thượng lưu dòng sông.
Cho nên Hạng Vương sai đổi Nghĩa Đế đi Trường Sa, ở Sâm Huyện. Hạng Vương lại giục Nghĩa Đế đi. Quần thần của Nghĩa Đế dần dần trở mặt, Hạng Vương bèn bí mật sai Hành Sơn Vương và Lâm Giang Vương giết Nghĩa Đế ở trên Trường Giang, Hàn Vương là Thành không có quận công, Hạng Vương không cho về nước, đưa về Bành Thành, lại sai người giết đi. Tang Đồ về nước mình, muốn đuổi Hàn Quản đi Liêu Đông, nhưng Quảng không nghe, Tang Đồ giết Quảng ở Vô Chung và lấy luôn đất của Quảng để làm vương.
Điền Vinh nghe tin Hạng Vũ đã đổi vua Tề là Thị đi Giao Đông, và lập tướng nước Tề là Điền Đô làm Tề Vương, liền nổi giận, không cho Tề Vương đi Giao Đông, rồi giữ lấy nước Tề làm phản, và đón đánh Điền Đô. Điền Đô bỏ chạy sang Sở. Tề Vương là Thị, sợ Hạng Vương nên bỏ trốn về nước mình là Giao Đông. Điền Vinh nổi giận, đuổi theo, giết Tề Vương ở Tức Mặc. Vinh bèn tự lập làm Tề Vương, đem quân về hướng tây, giết vua Tề Bắc là Điền An, làm vua cả Tam Tề (tức Tề, Tề Bắc và Giao Đông.)
Vinh giao ấn tướng quân cho Bành Việt, ra lệnh cho y làm phản ở đất Lương. Trần Dư ngầm sai Trương Đống, Hạ Duyệt nói với vua Tề là Điền Vinh:
- Hạng Vương làm chúa tể thiên hạ, nhưng không công bình. Ông ta cho tất cả các vua cũ làm vương ở những đất xấu, còn cho quần thần, tướng tá của ông ta làm vương ở những nơi đất tốt, đuổi chủ cũ của mình là Triệu Vương lên phía Bắc, ở đất Đại. Dư này cho là không hợp lý. Nghe tin đại vương khởi binh, lại không chịu nghe lối xử trí bất nghĩa, xin đại vương giúp binh lính cho Dư này. Tôi xin đánh Thường Sơn để phục lại Triệu Vương. Tôi xin lấy nước ấy làm rào giậu cho nước đại vương.
Tề Vương bằng lòng, liền sai quân đi đến Triệu. Trần Dư đem tất cả quân của ba huyện cùng hợp sức với Tề Vương đánh Thường Sơn, phá tan quân của Thường Sơn Vương. Trương Nhĩ bỏ chạy theo Hán, Trần Dư đón Yết, trước đấy làm Triệu Vương ở đất Đại, đưa về Triệu Vương bèn lập Trần Dư làm vương đất Đại (Đoạn 7- Hạng Vũ diệt nhà Tần, phong vương cho các tướng. Sau đó Vũ giết Nghĩa Đế và các tướng phản lại Vũ).
3. Bấy giờ Hán quay về bình định Tam Tần (Tam Tần: ba nước Ung, Tắc và Địch, ở trên đã nói, Hạng Vũ chia đất Tần làm ba phần, phong cho các tướng cũ của Tần). Hạng Vương nghe tin Hán Vương đã lấy được Quan Trung, lại đem quân về hướng đông nước Tề, nước Triệu làm phản chống lại mình, liền nổi giận, bèn phong Trịnh Xương trước kia làm huyện lệnh đất Ngô, làm Hàn Vương để chống lại Hán, sai bọn Tiêu Công Giác đánh Bành Việt. Bành Việt đánh lại bọn Tiêu Công Giáo. Hán Vương sai Trương Lương đi chiêu hàng ở Hàn, và đưa thư cho Hạng Vương, nói:
Hàn Vương không được đối xử như lời giao ước cho nên muốn lấy Quan Trung. Nay được như lời giao ước cũ thì thôi, không dám đem quân sang hướng đông (Tức là đã được làm vương ở Quan Trung (Tam Tần) như lời hứa của Sở Hoài Vương) nữa.
Hán Vương lại lấy thư của Tề và Lương làm phản đưa cho Hạng Vương và nói:
- Nước Tề muốn cùng hợp sức với nước Triệu để tiêu diệt nước Sở.
Vì vậy, Sở không có ý định đem quân về hướng tây; lại đem quân về hướng bắc để đánh Tề. Sở đòi Cửu Giang Vương Bố đem binh đi theo, Bố cáo bệnh không đến, sai tướng mang mấy ngàn quân lại. Vì vậy Hạng Vương oán Bố.
Mùa đông năm thứ hai nhà Hán (205), Hạng Vương đem quân về hướng bắc, đến Thành Dương. Điền Vinh cũng đem binh đến giao chiến. Điền Vinh đánh không lại, chạy đến Bình Nguyên. Dân Bình Nguyên giết Điền Vinh. Hạng Vũ bèn đem quân đi theo phía bắc, san phẳng và đốt thành quách nhà cửa của Tề, chôn sống tất cả quân lính của Điền Vinh đầu hàng, trói và bắt những người già cả, đàn bà con gái làm tù, lấy đất từ Tề đến Bắc Hải, tàn sát rất nhiều. Người Tề hợp nhau lại làm phản. Vì vậy, em của Điền Vinh là Điền Hoành, thu thập được mấy vạn lính Tề đã đi trốn từ trước, làm phản ở Thành Dương. Hạng Vương vì vậy phải dừng lại, đánh mấy trận, nhưng không hạ được.
Mùa xuân, Hán Vương cầm quân của năm nước chư hầu, tất cả năm mươi sáu vạn người, kéo về hướng đông để đánh Sở. Hạng Vương nghe vậy bèn sai các tướng đánh nước Tề, còn mình thì đem ba vạn tinh binh đi về hướng nam do đất Lỗ, qua thành Hồ Lăng. Tháng tư, quân Hán đều đã vào Bành Thành, thu của cải châu báu, gái đẹp, ngày nào cũng đặt tiệc rượu hội họp linh đình. Hạng Vương bèn đem quân về hướng tây, sáng sớm đi qua Tiêu huyện, đánh quân Hán, rồi kéo về hướng đông đến Bành Thành. Giữa trưa, Hạng Vũ phá tan quân Hán; quân Hán đều bỏ chạy, xô nhau nhảy xuống sông Cốc và sông Tứ. Hạng Vương giết hơn mười vạn quân Hán, quân Hán đều bỏ chạy sang hướng nam về phía núi. Quân Sở lại truy kích đến phía đông Linh Bích, trên sông Tuy Thuỷ. Quân Hán rút lui bị quân Sở đánh ráo riết, giết rất nhiều. Hơn mười vạn quân Hán đều nhảy xuống sông Tuy Thuỷ. Nước sông vì vậy không chảy được. Hạng Vương vây quân Hán ba vòng. Lúc bấy giờ, có một trận gió to thổi từ phía tây bắc, bẻ gãy cây, lật thốc mái nhà, làm bay cát đá, ban ngày tối đen. Gió thổi thẳng vào quân Sở, chạy, chết ở nước Lương. Sau khi đã sáp nhập thêm quân của Tần Gia, Lương đóng quân ở Hồ Lăng, định đi đến hướng tây.
Quân của Chương Hàm đến đất Lật, Hạng Lương sai biệt tướng (vị tướng chỉ huy một cánh quân riêng) là Chu Kê Thạch, Dư Phàn Quân đánh lại. Dư Phàn Quân chết, quân của Chu Kê Thạch thua, bỏ chạy đến Hồ Lăng. Hạng Lương đem quân vào đất Tiết, giết Kê Thạch.
Trước đây, Hạng Lương đã sai Hạng Vũ đi một đường khác đánh Tương Thành. Tương Thành cố sức giữ nên Vũ không hạ được. Đến khi hạ được thành, Vũ sai chôn sống tất cả dân trong thành, rồi trở về báo tin cho Hạng Lương. Hạng Lương nghe tin Trần Vương đã chết thật, bèn gọi các biệt tướng họp ở đất Tiết để bàn bạc. Bấy giờ Bái Công đã khởi binh ở đất Bái, cũng đến hội họp.
Phạm Tăng người đất Cư Sào, bảy mươi tuổi, xưa nay ở nhà, thích mưu kế lạ, đến nói với Hạng Lương:
- Trần Thắng thua là phải lắm. Trong sáu nước bị Tần diệt, thì nước Sở là vô tội nhất. Từ khi vua Hoài Vương vào đất Tần rồi không về nữa, người Sở vẫn còn thương xót ông ta cho đến ngày nay (Xem Khuất Nguyên liệt truyện). Vì vậy, Sở Nam Công nói, “nước Sở dù chỉ còn ba hộ, nhưng tiêu diệt nhà Tần, chính là nước Sở.”
Nay Trần Thắng khởi sự không lập con cháu vua Sở mà tự lập làm vương thì tình thế không thể lâu dài được. Bây giờ ngài khởi nghĩa ở Giang Đông, các tướng nước Sở kéo đến theo ngài như ong về tổ, là vì nhà ngài đời đời làm tướng nước Sở, họ cho rằng ngài có thể lập lại con cháu vua Sở làm vua.
Hạng Lương cho là phải, bèn tìm người cháu của Sở Hoài Vương, tên là Tâm, chăn dê cho người ta, lập làm Sở Hoài Vương để thoả lòng mong mỏi của dân chúng.
Trần Anh làm thượng trụ quốc của nước Sở, được phong năm huyện cùng đóng đô ở đất Vu Thai với Hoài Vương, Hạng Lương tự xưng là Vũ Tín Quân.
Được mấy tháng, Lương đem quân đánh thành Cang Phủ cùng với Điền Vinh và Tư Mã Long Thư nước Tề. Lương đem quân cứu Đông A, phá tan quân Tần ở Đông A. Điền Vinh liền đem quân về đuổi vua Tề là Giả. Giả chạy trốn sang nước Sở. Tướng quốc (1) của Giả là Điền Nhàn trước kia là tướng nước Tề ở lại nước Triệu, không dám về. Điền Vinh lập con của Điền Đam, tên là Thị, làm Tề Vương. Sau khi đã đánh phá quân Tần ở gần Đông A, Hạng Lương đuổi theo quân Tần. Lương mấy lần sai sứ giả giục Điền Vinh đem binh của nước Tề đến, để cùng kéo quân sang hướng tây. Điền Vinh nói:
- Nước Sở có giết Điền Giả, nước Triệu có giết Điền Giác, Điền Nhàn thì ta mới đem quân đến.
Hạng Lương nói:
- Điền Giả là vua một nước giao hiếu với ta, cùng đường phải đến đây theo ta, ta không nỡ giết.
------------------
1. Dịch là tướng quốc cho khỏi lẫn với tướng quân. Tướng quân chỉ huy về chính trị, đường lối, còn tướng quân chỉ huy về quân sự. Hai chữ này viết khác nhau nhưng đều gọi là tướng, cho nên dịch là tướng quốc và tướng quân.
------------
Nước Triệu cũng không giết Điền Giác, Điền Nhàn để mua chuộc nước Tề, cho nên Tề không chịu đem quân đến giúp nước Sở. Hạng Lương sai Bái Công và Hạng Vũ đem binh đi theo đường riêng đến Thành Dương làm cỏ quân dân trong thành. Rồi tiến quân về hướng tây, đánh phá quân Tần ở phía đông thành Bộc Dương. Quân Tần rút vào thành Bộc Dương. Bái Công và Hạng Vũ bèn đánh thành Định Đào. Chưa hạ được thành, họ liền bỏ đi, cướp đất đai ở phía tây cho đến Ung Khâu, đánh quân Tần thua to, chém Lý Do (Con của Lý Tư), rồi quay lại đánh Ngoại Hoàng, nhưng chưa hạ được.
Hạng Lương đem quân từ phía tây đất Đông A, qua hướng bắc đến Định Đào, đánh tan quân Tần lần thứ hai. Bọn Hạng Vũ giết được Lý Do, cho nên Lương càng khinh thường quân Tần và tỏ ra kiêu căng.
Tống Nghĩa bèn can Hạng Lương:
- Nếu đánh thắng mà tướng kiêu căng, quân sĩ trễ nãi thì sẽ thất bại. Nay quân sĩ đã hơi trễ nãi rồi đấy! Quân Tần ngày càng tăng, tôi lo cho ngài!
Hạng Lương không nghe, bèn sai Tống Nghĩa đi sứ nước Tề. Giữa đường Nghĩa gặp sứ giả nước Tề là Cao Lăng Quân, tên là Hiển. Nghĩa hỏi:
- Ông định yết kiến Vũ Tín Quân phải không?
- Vâng.
- Tôi cho rằng Vũ Tín Quân thế nào cũng thua. Ông cứ thủng thẳng mà đi thì sẽ khỏi chết, nếu đi nhanh thì sẽ mắc tai hoạ đấy!
Tần quả nhiên đem hết quân tiếp viện cho Chương Hàm. Chương Hàm đánh quân Sở một trận tan tành ở Định Đào. Hạng Lương chết.
Bái Công,Hạng Vũ rời bỏ Ngoại Hoàng, đến đánh huyện Trần Lưu, huyện Trần Lưu giữ vững không hạ được. Bái Công, Hạng Vũ bàn với nhau:
- Bây giờ quân của Hạng Lương đã tan vỡ, sĩ tốt đều lo sợ.
Hai người bèn cùng với quân của Lữ Thần đi về hướng đông. Lữ Thần đóng quân ở phía đông Bành Thành. Hạng Vũ đóng quân ở phía tây Bành Thành, Bái Công đóng quân ở đất Đường (1).
4. Sau khi đã đánh bại quân của Hạng Lương. Chương Hàm cho rằng quân của nước Sở không đáng lo, nên vượt Hoàng Hà qua đánh nước Triệu, phá tan quân Triệu.
Lúc bấy giờ Triệu Yết làm vua, Trần Dư làm tướng quân. Trương Nhĩ làm tướng quốc, cả ba đều chạy vào thành Cự Lộc. Chương Hàm đóng quân ở phía nam thành này, xây,một con đường ống để chuyên chở thóc. Trần Dư làm tướng, đem vài vạn quân đóng ở phía bắc thành Cự Lộc (2), toán quân ấy gọi là quân Hà Bắc.
Quân Sở đã bị thua ở Định Đào, Hoài Vương lo sợ, từ Vu Thai đến Bành Thành, dồn cả quân của Hạng Vũ, Lũ Thần làm một, và thân hành cầm quân. Hoài Vương cho Lữ Thần làm tư đồ, cha của Thần là Lữ Thanh làm lệnh doãn, cho Bái Công làm thái thú Đường Quận, phong làm Vũ An Hầu, coi đạo quân Đường Quận.
--------------
1. Đoạn 3 – Lai lịch Hạng Lương từ khi khởi nghĩa đến khi thất bại. Giới thiệu những nhân vật quan trọng của cuộc khởi nghĩa: Trần Anh, Phạm Tăng, Kình Bố, Bái Công. Hạng Lương vì kiêu căng nên thất bại, quân Tần từ bại chuyển thành thắng.
2. Trước khi quân Tần bao vây, Trần Dư đã mang quân ra ngoài thành (xem Trương Nhĩ, Trần Dư liệt truyện).
------------------------------
Sứ giả nước Tề là Cao Lăng Quán tên là Hiển, bấy giờ đang ở trong quân đội nước Sở. Trước đấy, Hiển có gặp Tống Nghĩa, cho nên Hiển yết kiến vua Sở và nói:
- Tống Nghĩa nói rằng quân của Vũ Tín Quân nhất định thua, vài ngày sau; quả nhiên quân ấy bị bại. Quân chưa giao chiến mà ông ta đã thấy trước cái cơ thất bại như thế, có thể gọi ông ta là người biết binh pháp.
Hoài Vương gọi Tống Nghĩa vào cùng bàn công việc. Hoài Vương rất là đẹp lòng, bèn cho y làm thượng tướng quân, Hạng Vũ làm thừa tướng, phong Lỗ Công, Phạm Tăng làm mạt tướng để cứu nước Triệu. Các biệt tướng đều ở dưới quyền Tống Nghĩa, hiệu là Khanh Tử Quán Quân. Tống Nghĩa đi đến An Dương, ở lại bốn mươi sáu ngày không tiến quân. Hạng Vũ nói:
- Tôi nghe nói quân Tần vây Triệu Vương ở Cự Lộc, ngài nên mau mau đem quân qua sông, quân Sở đánh ở bên ngoài, quân Triệu tiếp ứng ở bên trong, thì chắc chắn phá được Tần.
- Không phải thế đâu. Phàm con mòng đốt trâu thì không thể nào giết được rận chấy (Câu này có nhiều sách giải nghĩa khác nhau. Có sách giải thích: thành Cự Lộc tuy nhỏ, quân Tần không thể lấy ngay được. Có sách giải thích: Muốn lấy được Tần thì không thể chú ý Cự Lộc. Ý sau hợp hơn. Con mòng chỉ cốt đốt trâu, không có thì giờ đâu chú ý đến bọn chấy rận trên lưng trâu, cũng như Tống Nghĩa chỉ cốt đánh Tần, không có thì giờ để ý đến việc vụn vặt như Cự Lộc). Nay Tần đánh Triệu, nếu Tần đánh thắng thì quân mệt mỏi, ta lợi dụng lúc nó kiệt quệ mà đánh, nếu Tần không thắng thì ta hợp quân kéo về hướng tây, chắc chắn cướp lấy được nước Tần. Vì vậy, không gì bằng trước tiên để cho Tần và Triệu đánh nhau. Mang áo giáp dày, cầm binh khí sắc thì Nghĩa này không bằng ông, nhưng ngồi để trù tính sách lược thì ông không bằng Nghĩa (Câu này ám chỉ Hạng Vũ).
Tống Nghĩa bèn ra lệnh trong quân:
- Ai mạnh như hổ, bướng như dê, tham như sói, cứng đầu không thể sai khiến được, đều chém tuốt!
Nghĩa bèn sai con là Tống Tương sang làm tướng nước Tề, thân hành tiễn y đến đất Vô Diêm, uống rượu, hội họp linh đình. Trời lạnh, mưa to, quân sĩ đều đói rét. Hạng Vũ nghĩ thầm:
- Đáng lý phải cố sức đánh Tần, thế mà lại cứ dằng dai mãi không chịu đi. Nay năm đói, dân nghèo, sĩ tốt ăn rau ăn khoai, quân không có lương thực sẵn sàng. Thế mà cứ uống rượu, hội họp linh đình, không đem binh vượt Hoàng Hà để dùng lương thực nước Triệu, cùng Triệu chung sức đánh Tần. Lại còn nói “lợi dụng khi nó kiệt quệ”! Một nước mạnh như nước Tần, đánh nước Triệu là nước mới thành lập, thì nhất định là lấy đứt rồi! Nước Triệu mất, Tần lại càng mạnh, chứ có mong gì nó kiệt quệ mà lợi dụng kia chứ? Vả chăng, quân ta vừa bị tan tác, vua ngồi không yên chiếu, vét tất cả binh lính, lương thực trong nước, giao cho một mình tướng quân, nước nhà yên hay nguy là ở trận này. Nay không thương xót sĩ tốt, lại mưu đồ việc riêng, thật không phải hạng bầy tôi trung thành với nước (Đoạn này phản lại nhận xét của Tống Nghĩa, và chứng tỏ Hạng Vũ là người dũng mãnh, yêu sĩ tốt, nhiều mưu trí và quyết đoán trong lúc hành động).
Buổi sáng, Hạng Vũ vào hầu thượng tướng quân Tống Nghĩa, Vũ bước vào trướng chặt đầu Nghĩa, liền ra lệnh trong quân:
- Tống Nghĩa mưu với Tề để phản lại nước Sở. Sở Vương ra lệnh cho Vũ giết hắn!
Bấy giờ các tướng đều sợ hãi cúi đầu không ai dám ho he. Tất cả đều nói:
- Người đầu tiên lập nước Sở là gia đình tướng quân. Nay tướng quân lại giết được đứa loạn thần.
Họ bàn nhau lập Vũ làm quyền thượng tướng quân, sai người đuổi theo con của Tống Nghĩa, đến Tề thì bắt được và giết đi. Vũ sai Hoàn Sở báo với Hoài Vương. Hoài Vương nhân đó phong Vũ làm thượng tướng quân. Đương Dương Quân và Bồ Tướng Quân đều ở dưới quyền Hạng Vũ.
Sau khi giết Khanh Tử Quán Quân, uy thế của Hạng Vũ vang dội ở nước Sở, danh tiếng nổi ở khắp các chư hầu, Vũ liền sai Đương Dương Quân, Bồ Tướng Quân cầm hai vạn quân vượt Hoàng Hà đến Cự Lộc. Vì chiến sự còn ít thắng lợi, nên Trcoi ngục ở đất Lịch Dương, hai người trước có ơn với Hạng Vương cho nên được Hạng Vương tín nhiệm. Lúc bấy giờ, Hạng Vương ở Tuy Dương, nghe tin Hải Xuân Hầu thua, liền đem quân về. Quân Hán đang vây Chung Ly Muội ở phía đông Huỳnh Dương, Hạng Vương đến, quân Hán sợ Sở chạy vào nơi hiểm trở hết. Lúc bấy giờ bên Hán quân thịnh, lương nhiều, quân của Hạng Vương mệt nhóc, lương hết. Hán sai Lục Giả nói với Hạng Vương xin Thái Công. Hạng Vương không nghe. Hán Vương bèn giao ước với Hán Vương chia giữa thiên hạ: từ Hồng Câu về tây là thuộc Hán, từ Hồng Câu về đông là thuộc Sỏ, liền cho cha và vợ Hán Vương về. Quân sĩ đều hô: “Vạn tuế!” Hán Vương bèn phong Hầu Công làm Bình Quốc Công. Hầu Công từ đó bị yên trí, không được yết kiến nữa.
Hán Vương bảo:
- Đó là kẻ biện sĩ giỏi nhất thiên hạ, ở đâu thì nước ấy sẽ nghiêng đổ, cho nên hiệu là Bình Quốc Quân (Tình hình chiến sự giữa Hán và Sở trong bốn năm).
4. Hạng Vương sau khi đã giao ước, rút quân về hướng đông. Hán Vương muốn đi về hướng tây, Trương Lương, Trần Bình nói:
- Hán đã có được hơn một nửa thiên hạ, chư hầu đều theo. Nước Sở quân sĩ mệt, lương thực hết, chính là lúc trời làm mất nước Sở. Chi bằng nhân cơ hội này mà đánh lấy. Nay tha không đánh, tức như lời người ta nói, “nuôi hổ để lại gây mối lo cho mình về sau”!
Hán Vương nghe theo.
Năm thứ năm nhà Hán (- 202), Hán Vương theo đánh Hạng Vương đến phía nam Dương Hạ, đóng quân lại đấy, hẹn với Hoài Âm Hầu Hàn Tín, Kiến Thành Hầu Bành Việt hiệp sức để đánh quân Sở. Hán Vương đến Cố Lăng, nhưng binh của Tín và Việt không đến. Quân Sở đánh quân Hán thua to. Hán Vương lại vào thành, đào hào sâu để giữ. Hán Vương bảo Trương Tử Phòng:
- Chư hầu không theo lời giao ước, làm thế nào bây giờ?
Tử Phòng nói:
- Quân Sở sắp vỡ, nhưng Tín, Việt vẫn chưa được phong đất, họ không đến là phải. Nếu nhà vua biết chia thiên hạ cho họ thì gọi họ sẽ đến ngay. Không làm được thế, đại sự chưa biết như thế nào. Nếu nhà vua có thể phong cho Hàn Tín các miền từ đất Trần sang phía đông cho đến biển; phong cho Bành Việt các miền từ phía bắc Tuy Dương cho đến Cốc Thành để cho họ tự chiến đấu, thì dễ đánh bật Sở lắm.
Hán Vương nói:
- Phải đấy!
Hán Vương bèn sai sứ giả đến nói với Hàn Tín, Bành Việt:
- Hãy chung sức đánh Sở. Nếu phá được Sở thì từ đất Trần về phía đông cho đến biển sẽ phong cho Tề Vương; từ phía bắc Tuy Dương cho đến Cốc Thành sẽ phong cho Bành tướng quốc.
Sứ giả đến, Hàn Tín, Bành Việt đều báo:
- Xin tiến quân tức thì.
Hàn Tín bèn từ Tề đến, hội với quân Lưu Giả, từ Thọ Xuân xuất phát rồi cùng kéo đi, làm cỏ Thành Phu và đến Cai Hạ. Đại Tư Mã Chu Ân phản lại Sở, lấy quân của đất Thư đến tiêu diệt đất Lục, lại điều động cả quân Cửu Giang theo Lưu Giả và Bành Việt. Tất cả đều họp ở Cai Hạ, hướng vào phía Hạng Vương.
Hạng Vương đóng quân ở trong thành Cai Hạ, binh ít, lương hết! Quân Hán và quân chư hầu bổ vây mấy vòng. Đang đêm, Hạng Vương nghe quân Hán ở bốn mặt đều hát giọng Sở, Hạng Vương liền kinh hoảng nói:
- Hán đã lấy được Sở rồi sao? Sao mà người Sở đông như thế?
Đang đêm Hạng Vương thức dậy, uống rượu trong trướng. Có mỹ nhân thường đi theo tên là Ngu, có con ngựa thường cưỡi tên là Chuy, Hạng Vương đau đớn, cảm khái làm bài thơ:
Sức nhổ núi, khi trùm đời,
Ngựa Chuy chùn lại, bởi thời không may!
Ngựa sao chùn lại thế này?
Nàng Ngu, biết tính sao đây hỡi nàng?
Hạng Vương ca mấy lần, mỹ nhân hoạ theo (sau lúc hát, Ngu Cơ tự sát). Hạng Vương khóc chảy nước mắt! Tả hữu đều khóc, không ai có thể ngẩng đầu lên nhìn!
Hạng Vương bèn lên mình ngựa, tráng sĩ cưỡi ngựa ở dưới cờ hơn tám trăm người, đang đêm phá vỡ vòng vây, xông ra phía nam, phi ngựa chạy. Đến tảng sáng, quân Hán mới biết, sai kỵ tướng là Quán Anh mang năm ngàn kỵ binh đuổi theo. Hạng Vương vượt qua sông Hoài, quân kỵ theo kịp chỉ còn hơn trăm người.
Hạng Vương đến Âm Lăng lạc đường, hỏi một cụ già làm ruộng. Cụ già nói dối, bảo:
- Đi qua bên trái!
Hạng Vương rẽ qua bên trái, sa vào trong đồng lầy, cho nên quân Hán đuổi kịp. Hạng Vương lại đem quân đi về phương đông, đến Đông Thành, bấy giờ chỉ còn hai mươi tám kỵ binh. Kỵ binh Hán đuổi theo mấy ngàn. Hạng Vương tự liệu chẳng thoát được, bảo các kỵ binh:
- Ta từ đi dấy binh đến nay đã tám năm trời, mình trải qua hơn bảy mươi trận, ai chống cự thì bị đánh bại, đánh đâu thì họ phải chịu phục, chưa từng thua chạy bao giờ. Rốt cục làm bá thiên hạ. Thế mà nay phải chịu khốn khổ ở đây, đó là trời hại ta, chứ không phải tội ta đánh không giỏi. Ngày nay thế nào cũng chết, ta nguyện vì các ngươi quyết chiến, nhất định phải thắng ba lần, vì các ngươi, phá vòng vây, chém tướng, chặt cờ, để các ngươi biết rằng đấy là trời hại ta chứ không phải lỗi tại ta đánh không giỏi.
Hạng Vương bèn chia kỵ binh ra bốn đội, quay về bốn phía. Quân Hán vây Hạng Vương mấy vòng. Hạng Vương nói với các kỵ binh:
- Ta xin các ngươi giết tên tướng kia!
Hạng Vương sai phi ngựa xuống cả bốn mặt, hẹn xông qua phía đông núi rồi tập hợp làm ba nơi. Hạng Vương bèn thét lớn, phi ngựa xuống, quân Hán đều giạt ra một bên, Hạng Vương chém một viên tướng Hán. Bấy giờ Xích Tuyền Hầu làm tướng Hán đuổi theo Hạng Vương. Hạng Vương trợn mắt quát, Xích Tuyền Hầu người ngựa đều hoảng kinh, chạy lui đến mấy dặm.
Hạng Vương cùng quân kỵ tập hợp lại làm ba nơi khác nhau, quân Hán không biết Hạng Vương ở đâu, bèn chia quân làm ba và vây lại lần thứ hai. Hạng Vương bèn phi ngựa chém một viên đô uý, giết mấy trăm người hạ không có gì xảy ra.Tháng 7 Thái Thượng Hoàng mất ở cung Vị Ương.Sở Vương và Lương Vương đều đến đưa tang,Cao Tổ tha những người bị tù ở Lịch Dương, đổi tên Lịch Ấp là Tân Phong.Thánh 8,tướng quốc nước Triệu là Trần Hy làm phản ở đất Đại.Nhà vua nói:
-Hy trước kia thường làm sứ giả của ta,rất được tin cậy. Đất Đại là nơi quan trọng đối với ta,cho nên phong Hy làm hầu để làm tướng quốc và giữ đất Đại.Nay hắn lại cùng bọn Vương Hoàng dùng vũ lực cướp đất Đại.Quan lại và dân chúng đất Đại đều không có tội,ta tha tội cho họ.
 Tháng 9,nhà vua thân hành đi về hướng đông đánh Trần Hy.Khi đến Hàm Đan,nhà vua mừng rỡ nói:
-Hy không chiếm cứ Hàm Đan ở phía Nam mà lại chẹn sông Chương Thủy,ta biết rằng hắn không làm gì được!
Khi nghe nói các tướng của Hy nguyên trước là con buôn,vua nói:
-Ta đã biết phải cho chúng cái gì rồi (1)
 Bèn đút lót cho các tướng của Hy nhiều vàng.
NHiều người ra hàng.Năm thứ 11,nhà vua giết bọn Trần Hy ở Hàm Đan.Công việc chưa xong,tướng của Hy là Hầu Sưởng cầm đầu hơn vạn quân quấy nhiễu,Vương Hoàng đánh Liễu Thành,Hán sai tướng quân Quách Mông cùng tướng nước Tề đánh phá tan.Thái uý Chu Bột đi theo đường Thái Nguyên vào bình định
........................
1.Con buôn thì tham lợi.
......................
đất Đại.Khi tới Mã Ấp,Mã Ấp không hàng phục,Chu Bột tấn công và tàn phá thành này.Tướng của Hy là Triệu Lợi giữ thành Đông Viên,Cao Tổ đánh không lấy được. Đã hơn một tháng,binh sĩ của Lợi mắng nhiếc Cao Tổ,Cao Tổ nổi giận. Đến khi thành đầu hàng,Cao Tổ sai chém những người đã mắng nhiếc mình,còn những người không mắng nhiếc thì tha cho.Cao Tổ cho chia đất Triệu và miền ở bắc cho các núi lập con của mình là Hằng làm Đại Vương, đóng đô ở Tấn Vương.
Tiết,Cao Tổ thân hành đem quân đến đánh,lập người con trưởng của mình làm Hoài Nam Vương;
 Tháng mười, năm thứ 12,sau khi đánh xong quân của Kình Bố ở Hội Trụy,Kình Bố bỏ chạy.Cao Tổ sai biệt tướng đuổi theo.Cao Tổ trở về đi qua đất Bái,dừng lại ở đây, đạt rượu ở Bái Cung mời tất cả những người quen biết cũ,không kể già trẻ,cho uống tha hồ.Sai chọn những đứa trẻ ở Bái được một trăm hai mươi người,dạy cho hát;Khi uống rượu say,Cao Tổ gõ đàn trúc, đứng dậy tự làm bài ca:
Gió lớn thổi dậy chừ,mây bay ngổn ngan!
Uy vang bốn biển chừ,về quê hương,
Làm sao có được kẻ sĩ mạnh chừ giữ bốn phương
 Sai bọn con trẻ tập hát bài ấy.Cao Tổ bèn đứng dậy múa,lòng cảm khái buồn bải,khóc và nói với những người phụ huynh đất Bái:
-Kẻ đi xa nhớ làng cũ.Ta tuy đóng đô ở Quan Trung nhưng sau khi trăm tuổi hồn phách của ta vẫn còn thích đất Bái.Ta xuất thân là Bái Công nhờ giết kẻ bạo nghịch mà có được thiên hạ.Ta lấy đất Bái làm đất riêng,dân ở đấy đời đời không phải đóng thuế;
 Các phụ huynh,các bà mẹ và những người quen cũ ở đất Bái uống rượu vui chơi cả ngày rất là vui vẻ,kể lại chuyện cũ mà cười.Vui chơi hơn mười ngày.Cao Tổ muốn ra đi,phụ huynh đất Bái cố tình giữ lại,Cao Tổ nói:
-Quân của ta đông,các ông không thể nào cung cấp cho họ được.
 Bèn ra đi.Dân Bái bỏ huyện trống t1ât cả dồn về phía tây thành,hiến lễ vật.Cao Tổ lại dừng lại,dựng trướng lên uống rượu ba ngày.Phụ huynh đất Bái đều đập đầu lạy,nói:
-Đất Bái may mắn được miễn thuế,nhưng đất phong vẫn chưa được,xin bệ hạ thương đến nó.
 Cao Tổ nói:
-Đất Phong chính là nơi ta sinh trưởng,làm sao lại quên được;nhưng chỉ vì Ung Xỉ ngày xưa làm phản ta theo Ngụy...
Phụ hưynh đất Bái cố nài xin.Cao Tổ bèn tha thuế cho cả đất Phong và đất Bái.sau đó nhà vua cho Bái Hầu Lưu Tỵ làm Ngô Vương.
 Biết tướng Hàn đánh quân Kình Bố ở phía nam và phía Bắc Thao Thủy,phá tan quân quân Kình Bố, đuổi theo và chém Kình Bố ở Phiên Dương.Phàn Khoái cầm riêng một cánh quân bình định đất Đại,chém Trần HY ở Dương Thành.
Tháng  11, Cao Tổ đem quân về trở về Trường An sau khi đã đánh Kình Bố.
 Tháng 12,Co Tổ nói:
-Tần Thủy Hoàng,Sở Ẩn Vương nước Sở là Trần Thiệp,An Ly Vương nước Ngụy,Dẫn Vương nước Tề, Điệu Tương Vương nước Triệu đều chết mà không có con cháu,ta cho họ mỗi người được mười nhà để giữ phần mộ.Ta cho Tần Hoàng Đế hai mươi nhà,Ngụy công tử Vô Kỵ (1) năm nhà.
 Nhà vua tha cho quan lại và dân chúng đất Đại đã bị Trần Hy và Triệu Lợi cưỡng ép theo họ.Viên hàng tướng của Trần Hy nói rằng khi Trần Hy làm phản thì Yên Vương Lư Quán sai người đến nhà Hy cùng bàn mưu.Nhà vua sai Tích Vương Hầu đến đón Quán;Quán cáo bệnh.Tích Dương Hầu quay về báo lại rằng việc Quán làm phản đã có manh mối.Tháng 2,Cao Tổ sai Phàn Khoái,Chu Bột cầm quân đánh Yên Vương Lư Quán,tha cho quan lại và dân chúng ở Yên đã theo kẻ làm phản và lập hoàng tử Kiến làm Yên Vương.Khi đánh Kình Bố,Cao Tổ bị một mũi tên lạc,trên đường về bị bệnh.Bệnh nặng,Lữ Hầu mời thầy thuốc giỏi đến.Thầy thuốc vào yết kiến.Cao Tổ hỏi thầy thuốc,thầy thuốn nói:
-Bệnh này có thể chửa được.
Cao Tổ bèn mắng (2) thầy thuốc:
-Ta xuất thân áo vải,tay cầm ba thước kiếm lấy được thiên hạ, đó chẳng phải mệnh trời hay sao?
.....................
1.Tức là Tín Lãng Quân,xem Ngụy công tử liệt truyện.
2.Chữ “bèn”chứng tỏ một mánh khoé để đề cao.
.....................
Mệnh đã ở trời thì dù có tài giỏi như Biển Thước (1) cũng làm được gì!
Bèn không cho chữa bệnh,thưởng 50 cân vàng rồi cho về. Ít lâu sau Lữ Hậu nói:
-Nếu bệ hạ trăm tuổi rồi và tướng quốc Tiêu Hà cũng mất thì lấy ai thay?
 Nhà vua nói:
-Tào Tham có thể làm được.
-Sao đó đến ai?
-Vương Lăng có thể được,nhưng Vương Lăng hơi gàn.Trần Bình có thể giúp ông ta.Trần BÌnh thì trí khôn có thừa,nhưng khó mà làm một mình.Chu Bột là người trung hậu, ít văn hoá nhưng người làm họ Lưu được an chính là Chu Bột đấy (2),có thể cho ông ta là thái úy.
 Thái Hậu lại hỏi:
-Sau đó đến ai?
 Nhà vua nói:
-Sau đó thì ngươi cũng không biết được(3).
 Lư Quán cùng mấy ngàn quân kỵ đợi ở biên giới chờ cho nhà vua thôi bệnh để vào tạ tội.Tháng tư ngày giáp thin,Cao Tổ mất ở cung Trường Lạc.Mất đã bốn ngày rồi mà không báo tang.Lữ Hậu bàn mưu với Thẩm Tự Cơ (4):
-Các tướng và nhà vua trước đều là thường dân nay họ phải quay mặt về hướng bắc xưng là bầy tôi nên vẫn thường bực bộ.Nay gặp nhà vua còn nhỏ,nếu không giết hết tất cả  đi thì thiên hạ không an.
.......................
1.Thầy thuốc nổi tiếng:Nhất thời chiến quốc.
2.Nhận xét rất tinh:Quả nhiên sau Lữ Hậu tìm cách giết họ Lưu đưa họ Lữ lên thì chính Chu Bột đã tiêu diệt họ Lữ và giữ cho nhà Hán vẫn còn.Xem Trần thừa tướng thế gia.
3. Ý noí sau đó thì Lữ Hậu cũng chết rồi.
4.Người hầu hạ và đồng thời cũng là tính nhân của Lữ Hậu.
.....................
Có người nghe điều ấy nói với Lịch tướng quân,Lịch tướng quân đến yết kiến Thẩm Tự Cơ nói:
-Tôi nghe nói nhà vua đã mất bốn ngày rồi vẫn không báo tang lại còn muốn giết các tướng,như vậy thì thiên hạ nguy mất! Trần Bình và Quán Anh cầm 10 vạn quân giữ Huỳnh Dương,Phàn Khoái và Chu Bột cầm 20 vạn quân,bình định đất Yên, đất Đại.Nếu họ nghe nhà vua,các tướng đều bị giết thì thế noà họ cũng đem quân liên kết với nhau quay về đánh Quan Trung, ở trong các quan đại thần làm phản, ở ngoài chư hầu làm phản,việc diệt vong có thể nhón gót mà chờ (1) vậy.
 Thẩm Tự Cơ vào nói với Lữ Hậu,bèn báo tang,ngày đinh mùi, đại xá thiên hạ.Lữ Quán nghe Cao Tổ đã chết bèn bỏ trốn vào Hung Nô.
 Lễ chôn cất vào ngày bính dần,ngày kỷ tỵ lập thái tử làm vua,vua đến miếu Thái Thượng Hoàng.Quần thần đều nói:
-Cao Tổ xuất thân hàn vi,dẹp đời loạn làm cho nó trở lại đường ngay,bình định thiên hạ,lamé thái tổ nhà Hán,công lao hết sức lớn.
 Nên dâng tôn hiệu là Cao Hoàng Đế (2).Thái tử nối nghiệp,hiệu là hoàng đế tức Hiếu Huệ Đế.
.........................
1.Cũng như nói đến ngay tức khắc.
2.Theo pháp chế đời xưa,khi vua chết,quần thần hợp lại căn cứ vào hành trạng,công lao hay tội lỗi của vua mà đặt cho một tên gọi là thụy hay hiệu bụt.Có người được tên đẹp như Lưu Bang nhưng cũng có người được tên xấu như Kiệt Trụ v.v...
.......................
 Nhà vua sai các quận,các nước và chư hầu đều lập miếu thờ Cao Tổ,mỗi năm tế thờ theo thời tiết. Đến khi Huệ Đế làm vua được năm năm,nhà vua nghĩ đến việc Cao Tổ buồn vui ở Bái Cung nên lấy Bái Cung làm miếu thứ hai thờ Cao Tổ.120 người trước đây Cao Tổ dạy hát đều sai chơi nhạc,về sau thiếu người thì điền vào cho đủ số.
 Cao Tổ có tám người con trai:người con đầu con người vợ thứ tên là Phi làm Điệu Huệ Vương ở nước Tề.Người con thứ hai tên là Hiếu Huệ là con của Lữ Hậu.Người con thứ ba làm Như Ý là Triệu Ẩn Vương con của Thích phu nhân,người con thứ tư là Hằng làm Đại Vương,sau đó làm Hiếu Văn Đế,con của Bạc Thái Hậu.Người con thứ năm là Khôi làm Lương Vương,trong thời Lữ Thái Hậu bị dời đi làm Triệu Cung Vương.Người con thứ sáu là Hoài Dương Vương tên là Hữu,thời Thái Hậu bị dời đi làm Triệu U Vương.Người con thứ bảy là Trường bị làm Lệ Vương ở Hoài Nam,người con thứ tám là Kiến lmà Yên Vương.
Thái Sử Công nói:
-Chính trị nhà Hạ trung thực.Khi sự trung thực kém đi thì bọn tiểu nhân mất lễ,cho nên nhà Ân kế tiếp theo dùng chữ “kính” để cai trị.Sự kính cẩn sau đó kém đi,bọn tiểu nhân lại theo ma quỷ, cho nên nhà Chu kế tiếp theo dùng “văn” để cai trị.Sau đó văn kém đi,kẻ tiểu nhân biến thành xảo trá.Vì vậy cho nên để bổ cứu sự xảo trá không gì bằng dùng chữ “trung thực”. Đạo tam vương xoay vận hết rồi lại quay lạ.Trong thời Chu,Tần có thể nói cái văn bị hư hỏng đi.Chính trị của Tần không thay đổi điều đó lại dùng hình phạt khốc liệt há chẳng sai lầm sao!cho nên khi nhà Hán nổi lên,sau khi tiếp thu tình trạng hư hỏng thì dễ thay đổ nó,khiến người ta có được nguyên lý của trời vậy(1).Cao Tổ tiếp triều thần,vào tháng 10,xe diềm bằng vải màu vàng,cờ đạo cấm ở bên trái,chôn ở Trường Lăng.
.........................
1. Đây là tác giả trình bày quan điểm của mình về chính trị.Tác giả quan niệm sự vật biến đổi theo vòng tròn tức là có thay đổi mà không có tiến hoá.Quan điểm ấy là then chốt của Kinh Dịch.Nhà Hạ,lấy việc trung thực làm then chốt cho việc cai trị dân,nhưng trung thực quá thì thành ra thô lỗ, để khắc phục sai lầm ấy,nhà Ân nêu lên nguyên tắc “kính”,lấy kính làm then chốt.NHưng một khi thiên lệch thì kính biến thành sợ,do đó nhà Ân,về sau chỉ nói đến quỷ thần,thờ cúng.Nhà Chu dùng “văn” (lễ nghi hình thức) để bổ cứu,nhưng khi thiên lệch sẽ thành gian xảo như trong thời Xuân Thu,Chiến Quốc. Đáng lý Tần lên phải bổ cứu văn bằng trung thực lại bổ cứu bằng pháp luật tức là không đi theo vòng tròn.Do đó mà thất bại. Đối với các tác giả cũng như đối với các tư tưởng gia Trung Quốc trước kia nói chung cái đạo rong chính trị là biểu hiện cho cái đạo trong trời đất.
 

Truyện Sử Ký Tư Mã Thiên ---~~~cungtacgia~~~--- !!!1892_7.htm!!!nClick="noidung1('tuaid=1892&chuongid=20">TRUYỆN TRANG TỬ THÂN BẤT HẠI , HÀN PHI LIỆT TRUYỆN TƯ MÃ NHƯƠNG THƯ LIỆT TRUYỆN NGŨ TỬ TƯ LIỆT TRUYỆN HẠNG VŨ BẢN KỶ HẠNG VŨ BẢN KỶ (tiếp theo) CAO TỔ BẢN KỶ CAO TỔ BẢN KỶ (tiếp theo) LỮ HẬU BẢN KỶ BÌNH CHUẨN (1) THƯ KHỔNG TỬ THẾ GIA KHỔNG TỬ THẾ GIA (tiếp theo) VIỆT VƯƠNG CÂU TIỄN THẾ GIA TRẦN THIỆP THẾ GIA LƯU HẦU THẾ GIA TRẦN THỪA TƯỚNG THẾ GIA TÔN TỬ , NGÔ KHỞI LIỆT TRUYỆN TRUYỆN LÃO TỬ TRUYỆN TRANG TỬ THÂN BẤT HẠI , HÀN PHI LIỆT TRUYỆN TƯ MÃ NHƯƠNG THƯ LIỆT TRUYỆN NGŨ TỬ TƯ LIỆT TRUYỆN THƯƠNG QUÂN LIỆT TRUYỆN Truyện Tô Tần Truyện Trương Nghi Mạnh Tử, Tuấn Khanh liệt truyện Bình Nguyên Quân, Ngu Khanh liệt truyện Ngụy Công Tử Liệt Truyện Phạm Thư, Thái Trạch Liệt Truyện Nhạc Nghị Liệt Truyện Liêm Pha, Lạn Tương Như Liệt Truyện Điền Đan Liệt Truyện Khuất Nguyên liệt truyện Truyện Lã Bất Vi Thích khách liệt truyện Lý Tư liệt truyện Trương Nhĩ, Trần Dư liệt truyện Kình Bố liệt truyện Hoài Âm Hầu Liệt Truyện Lịch Sinh, Lục Giả Liệt Truyện Quý Bố, Loan Bố Liệt Truyện Trương Thích Chi, Phùng Đường liệt truyện Ngụy Kỳ, Vũ An Hầu liệt truyện Lý Tướng Quân liệt truyện Nam Việt Úy Đà liệt truyện Cấp Ảm liệt truyện Du Hiệp Liệt Truyện Hoạt Kê Liệt Truyện