Nắng gay gắt! Nắng tháng Tám héo quăn héo quắt lá sắn, bưởi trong vượn rụng bình bịch suốt đêm. Ban ngày, tầm quá trưa nước trên cánh đồng Lưu Lạc như sôi lên, sủi tăm, những con cua con, những con cá cờ đuôi tím ngắt... nhao vào bờ leo lên gốc rạ tìm nơi tránh nắng. Một buổi chiều, đúng vào ngày thằng con đầy tháng chị Nga đội nón bồng con ra xã làm giấy khai sinh. Tôi không muốn thuật lại cái chuyện đầy sóng gió này vì có nhiều người đã viết về sự "thẳng như nòng súng, rắn như hòn đạn" của Ủy ban hành chính hồi đó rồi. Nhưng nhờ vào tấm lòng từ tâm, đầy giông bão và đau khổ của bà chủ tịch xã, mà cũng có lẽ là do tiếng khóc đanh thép và dai dẳng của thằng bé, đích thân chủ tịch xã đã viết và ký giấy khai sinh cho nó. Nó mang họ Trần, họ của anh Kỳ, tên nó được chị Nga đặt là Hận, Trần Hận! Xong xuôi cái thủ tục này, chị bế thẳng con về nhà ông Tuân. Nhìn theo cái dáng lầm lũi, nhẫn nhục của người đàn bà trẻ đang bế đứa con rẽ vào ngõ khuất, bà chủ tịch bỗng cảm thấy lòng mình chạnh đau như muối xát. Bà cầm con dấu Ủy ban hành chính hình chữ nhật lên ngắm nghía: nó cũ kỹ và trầy sứt, loang nhoang màu mực, màu nhọ đèn, thật thảm hại, nhưng nó lại có uy lực rất lớn. Nó có thể cứu một con người ra khỏi tai ương, nhưng nó cũng có thể đẩy một con người vào vòng lao lý. Và kèm theo với cái dấu ấy là chữ ký, của bà hay của một người nào đó, của bà chẳng hạn, là chính quyền, là công lý, là lợi ích... Bà chủ tịch xã chúng tôi, bỏ con dấu cùng với những thứ giấy tờ linh tinh vào cái túi xách màu đen, dắt xe ra cổng ủy ban. Bà lựa một quãng đường phẳng, nhảy lên pê-đan chiếc xe đạp nữ màu xanh phòng không. Bà cứ đạp... và không sao dứt ra khỏi hình ảnh thằng bé con cô giáo Nga, nó đỏ hon hỏn như con chó con chưa mở mắt, quờ quạng tìm vú mẹ. Tên nó là gì nhỉ? Hận, Trần Hận! Sao cô ấy lại đặt tên cho con mình như thế nhỉ? Hận gì? Ân hận hay thù hận? Bà nhìn lên bầu trời chiều nắng đã tàn, nhưng nóng oi hầm hập, tím bầm, một hai con cò trắng bay lạc lõng phía cánh đông Lưu Lạc. Rồi thế nào người ta cũng nghi ngờ và chất vấn bà rằng: vì sao mà bà chủ tịch lại chấp thuận một cách dễ dàng lời khai của chị Nga đến thế. Bà hỏi: -Cô đặt tên cho cháu là gì? Chị Nga đáp: -Thưa chị, em đặt cho cháu tên là Hận ạ! Bà chủ tịch hơi cau trán, nhưng những giọt mồ hôi li ti đã nhòe đi theo những nếp nhăn giãn ra, bà lại ôn tồn hỏi: -Tên mẹ là Nga! Họ của cô là gì nhỉ? Như tự trách mình, bà nói thêm. Chị em với nhau mà tôi không biết họ của cô. Tôi cũng là học trò của thầy Hoan! -Dạ, em là Hoàng Thị Nga! Bà chủ tịch lại hí húi viết. Còn một câu hỏi bà muốn hỏi, câu hỏi cuối cùng nhưng lại rất quan trọng, nên bà cảm thấy rất khó. Thằng bé bỗng khóc ré lên, chị Nga vỗ vào lưng nó, đung đưa hai cánh tay, ru con. Bà chủ tịch cắn quản bút, nghĩ ngợi. Chị Nga nhìn thấy trên mặt bà hằn rõ sự căng thẳng từ khóe môi. Bà thở mạnh một hơi, chùng người xuống, rồi nhìn thẳng vào mắt người công dân đầy vẻ lo âu, căng thẳng, đang ngồi trước mặt mình: -Họ của cháu cũng là họ Hoàng chứ? Chị Nga hiểu nỗi băn khoăn của bà chủ tịch và chị nhìn bà với cái nhìn đầy biết ơn: -Không, chị ạ! Họ của cháu là họ Trần! Bà chủ tịch thở nhẹ, cúi xuống định viết, lại ngẩng lên: -Trần Tuấn? Bố cháu là...? Chị Nga dù rất cảm phục và biết ơn bà chủ tịch, nhưng chị vẫn thấy cần phải bày tỏ sự khẳng khái, thậm chí còn đầy khiêu khích của mình.Chị khẽ lắc đầu, như muốn hất mấy sợi tóc mai vương trên trán, chảy lòa xòa xuống mặc dù nó đã bết mồ hôi, rồi ngẩng lên nhìn thẳng vào mắt bà chủ tịch: -Họ tên đầy đủ của cháu là Trần Hận, con của Trần Tuấn Kỳ! Bà chủ tịch không hỏi gì thêm, bà viết hết những chỗ trống cần thiết cho một tờ giấy khai sinh, rồi ký tên, đóng dấu. Bà nhìn tờ giấy dang màu nâu đất, chao qua chao lại chờ mực khô, rồi đưa cho chị Nga: -Của cô đây! Rồi bà cười, nhìn thằng Hận (từ giờ phút này tên nó là Trần Hận). Xem thằng Cún cái nào... Cháu ngoan chứ? Cô có đủ sữa cho cháu bú chứ? Bà là người tế nhị thật, chỉ hỏi với những câu "tích cực". (Đáng lẽ bà có thể hỏi: Cháu ngoan không? Có đủ sữa không?). Chị Nga cầm tờ giấy khai sinh quạt cho con: -Dạ cháu cũng ngoan... Cám ơn chị... Cháu còn non bấy, chưa ăn bao nhiêu nên em cũng đủ sữa! Tất cả mọi chuyện xảy ra nhanh chóng như vậy đấy. Nhờ Trời! Cũng may cho chị Nga, nếu không gặp trực tiếp bà chủ tịch, mà là ông ủy viên ủy ban phụ trách hộ tịch có lẽ chị chưa biết sẽ phải nói năng, trình bày như thế nào? Vừa đạp xe, bà chủ tịch xã bỗng bật cười. Bố thằng Hận là Trần Tuấn Kỳ? Anh chàng Kỳ đi bộ đội ba năm thì hy sinh, từ hôm báo tử đến nay cũng đã hai năm! Có họa thằng bé con là ông Thánh Gióng! Nhưng bà mẹ Thánh cũng chỉ mang thai đến ba năm, đằng này... Để hiểu tấm lòng vị tha, cao thượng của bà chủ tịch, tôi xin thuật lại câu chuyện sau đây mà mãi về sau tôi mới được nghe kể lại. Tên bà là Nghĩa, theo một mối quan hệ họ hàng xa, tôi phải gọi bà Nghĩa bằng dì. Ông ngoại tôi và mẹ của dì Nghĩa là anh em thúc bá, con chú con bác, cùng từ Thái Bình lên "tha hương cầu thực". Có lẽ vì thế, mà tuy là họ ngoại, lại đã xa đến mấy đời, các cụ đã mất, nhưng gia đình tôi với anh em dì Nghĩa rất gắn bó, còn hơn cả bên nội của chúng tôi. Có điều, sau khi dì Nghĩa trúng cử vào chức chủ tịch xã, bố tôi, trong một buổi tối có đủ mặt cả nhà, (tất nhiên vắng mặt tôi) đã phát ra một mệnh lệnh: -Từ nay, mẹ con nhà này có đến chơi nhà cái Nghĩa thì đến, nhưng cấm không được nhờ vả, hay là làm cái gì để nó phải khó xử nhá! Chúng mày nghe rõ cả chưa? Hình như bố tôi nhằm vào một ai đó trong họ nhà tôi thì phải. Lúc ở nhà tôi có biết chồng dì Nghĩa là chú Cầu. Chú Cầu là thương binh trong một chiến dịch thời kháng Pháp, bị một vết sẹo to giống như cái lưỡi hái bên sườn trước bụng. Những lúc cao hứng và có sự vòi vĩnh của chúng tôi, chú Cầu vẫn thường kể những câu chuyện chiến đấu rất hấp dẫn rồi trật áo ra khoe cái vết sẹo xù xì rất đáng kinh hãi đó. Chú bảo: -Ở Điện Biên Phủ đấy! Một quả "tạc đạn" của quân Pháp bắn xuyên qua bụng tao ra đằng sau! Không tin à, nhìn đây... Chú xoay lưng lại, đằng sau lưng chú cũng có một vết sẹo, nhỏ hơn và nom "hiền lành" hơn! Có lần, tôi kể cho cả nhà nghe chuyện của chú Cầu, bố tôi nghe, ông chỉ tủm tỉm cười. Ông cũng có mặt ở Điên Biên Phủ năm 1954. Chú Cầu là út và là con trai duy nhất trong một gia đình khá giả, toàn chị gái. Tên chú đặt là Cầu, vì chú là đứa con cầu tự được trong cửa chùa. Chú Cầu là một trong rất ít người có học vấn cao trong làng. Tuổi thơ của chú rất sung sướng, chú bảo thế! Chú có bằng Tây học Diplome, nhưng sau khi bị thương chú về quê, lấy vợ, làm ruộng. Đáng lẽ chú có thể thoát ly làm cán bộ nhà nước, ai cũng tiếc cho chú! Chiến tranh bùng nổ một lần nữa, thanh niên trai tráng lần lượt lên đường vào Nam chiến đấu hết. Đến cả lớp thanh niên mới lớn, mười bảy, mười tám tuổi cũng ra đi. Trong làng chỉ còn lại đàn bà, trẻ con và những người già cả yếu đuối. Sức mạnh của xóm thôn bỗng hụt hẫng, tiếng chó sủa cũng bớt gay gắt, nhưng nghe trầm lắng hơn, ma quái hơn đầy đe dọa. Trên trời máy bay địch quần đảo suốt đêm ngày, mây trắng tản đi đâu hết, bầu trời chỉ còn mây đen, mây xám của khói bom, khói cháy nhà, cháy kho tàng, xăng dầu và cao su, thuốc hóa học... Hai giờ sáng, những người đàn ông già nua và thương tật cùng với những người đàn bà đảm đang, tháo vát dong trâu, vác cày bừa ra đồng, cày bừa trong ánh sao nhợt nhạt để kịp cho các bà, các chị ra cấy vào lúc bốn, năm giờ sáng. Sáng ra, cánh đồng Lưu Lạc đã vắng người, chỉ còn lác đác những ai về chậm và những đứa trẻ mò cua. Mặt trời lên cao, cánh đồng Lưu Lạc chỉ còn lại là một cánh đồng hấp hối, nặng nhọc bốc hơi lên bầu trời đẫm hơi nước và khói xám. Thỉnh thoảng những tốp máy bay F4, F105... xù xì như những bộ xương đen của loài quỷ lại ào qua, pháo phòng không ở đâu đó bắn lên lụp bụp. Khi những con quái vật hình xương xẩu bay về hướng thủ đô, bầu trời còn lại những vệt khói đen ngoằn ngoèo và những chùm khói trắng như hoa lau của đạn pháo cao xạ. Dì Nghĩa của tôi lúc bấy giờ là chủ tịch Hội phụ nữ xã, tất nhiên dì là một đảng viên. Là cán bộ nhưng dì vẫn là một nông dân, nghĩa là dì cũng dậy từ ba, bốn giờ sáng, cùng với những người đàn bà mắt nhắm mắt mở ra đồng cấy chạy... tàu bay! (Xin mở ngoặc nói thêm là khái niệm "cấy chạy" trong thời bình của làng chúng tôi từ nhiều đời chỉ dùng trong trường hợp chạy cạn, tức là cấy trước khi cạn nước, nếu không nhanh, nước cạn sẽ bị "giẽ", lúc ấy có thể chảy máu tay người cấy). Đã gọi là cấy chạy thì luôn vội vàng, hấp hoảng, dưới ánh trăng thượng tuần và ánh sao mờ ảo. Sáng ra, dì lại ăn mặc tươm tất đi lo những công việc của hội, của đàn bà, phụ nữ. Mà "gái thời loạn" bao giờ cũng có nhiều nỗi niềm, nhiều trăn trở, nhiều chuyện phải giãi bày, nhiều vấn đề phải xử lý. Những người đàn bà đang thì đang lứa đói ăn, đói ngủ, và đói... đàn ông, đã làm cho họ tàn tạ nhanh chóng. Trong những buổi làm đồng tập thể hay những lúc hội họp, giữa những người có chồng ra trận hay những cô gái đồng trinh với nhau, họ vẫn cười, vẫn nói, vẫn đùa nỡm bằng những lời thanh tao lẫn tục tĩu, bất ngờ họ nhìn nhau với cái nhìn đờ đẫn. Họ cùng bất chợt nghĩ về những niềm khát khao đơn giản, có khi tầm thường của bản năng mà ứa nước mắt. Những đêm xuân bừng bừng hoa bưởi, những đêm hè rạo rực lá ngâu, những đêm thu ngạt ngào hương trái thị và những đêm đông gió bấc lùa vào vách liếp, sột soạt lá chuối khô, họ đơn độc như người khát thèm nước giếng khơi. Dì Nghĩa nói, dì làm, dì đi... nhưng hầu như chỉ làm nén lại nỗi khát khao của họ như nén cái lò so đang nóng chảy. Dì biết thế, vì dì đã trải qua những tháng năm chú Cầu đi bộ đội. Trong khi dì Nghĩa tất tả với công việc và công tác, thì chú Cầu cũng là một đảng viên, nhưng chú chỉ làm đội trưởng một đội sản xuất. Công việc của chú là thăm đồng, thăm nước, thăm mạ mon và phân công công việc cho xã viên trong tầm quản lý của chú. Công việc không nhàn nhã nhưng cũng không vất vả. Dì Nghĩa tiếp tục tiến bộ, khóa ấy dì trúng cử vào hội đồng nhân dân, và được bầu làm chủ tịch xã. Đùng một cái, chị Xuân, vợ một anh bộ đội đang ở chiến trường, có... mang! Đây là một việc hệ trọng, một việc tày đình. Không chồng, đúng hơn là không có chồng ở nhà mà chửa! Tiếng sét loằng ngoằng, xé trời xanh đầy mây xám, đổ xuống đầu chị Xuân! Ai là thủ phạm hả Xuân? Phải chặn đứng cái thói giăng hoa, hủ hóa ấy lại! Con chó dái rửng mỡ ấy đâu? Trong khi người ta đổ máu ở mặt trận thì nó ở nhà mò vào buồng vợ người ta để làm cái trò ăn vụng. Mà cái cô Xuân ấy nữa, không chịu được thì đổ thóc vào cối mà xay, không có thóc thì xay cối không, việc gì mà phải ngứa đên thế? Con cho cái không ngoe nguẩy thì đời nào con chó đực nó vẫy đuôi? Chị Xuân cúi mặt, úp nón vào bụng đi làm! Khi đẻ được một thằng con trai, thì chị Xuân không chịu nổi sức ép dai dẳng từ mọi bề, chị đành khai ra cha của đứa bé là... chú Cầu! Trời hại rồi! Dì Nghĩa bị hai đòn quất vào đầu cùng một lúc. Cũng không biết bằng cách nào mà dì không gục xuống. Ngoài lòng ghen tuông thường tình của người đàn bà bị ném trấu vào mặt, dì còn một nỗi nhục của người cán bộ đã bao nhiêu lần đi giảng giải cho người ta bằng những lời cao cả, đạo đức! Thế mà, cái điều sỉ nhục ấy lại rơi vào gia đình dì, vào chính đầu dì. Cuộc chiến đấu không hề kém quyết liệt, đau thương, mất mát... so với ngoài mặt trận đã đi đến kết thúc. Đảng ủy xã đã quyết nghị để gia đình chú Cầu phải nuôi đứa bé con chị Xuân. Kể cũng lạ, tình mẫu tử không hề làm cho chị Xuân thấy đau xót hay nao núng khi chị nhẹ nhàng giao đứa con cho dì Nghĩa. Còn chú Cầu không chối bỏ đứa con và thế là chú bị bắt ra huyện rồi phải đi tù ba năm. Không phải đi tù vì không có tòa án xét xử, mà chú Cầu bị đưa đi cải tạo giam giữ theo lệnh của nhà nước, vì tội hủ hóa với vợ bộ đội, làm mất ổn định, phá hoại chính sách hậu phương quân đội. Một lệnh là ba năm, nếu cần, có thể bổ sung bằng những lệnh ba năm khác tiếp theo. Với bốn đứa con của mình, giờ đây, dì Nghĩa phải nuôi thêm một đứa con chồng còn đỏ hon hỏn. Khó khăn về cơm áo đã chất chồng, nhưng còn có thể vượt qua được, nhưng nỗi nhục nhã thì dì chỉ có thể chôn vào lòng. Đúng lúc ấy, chị Nga đem thằng Hận ra xã làm giấy khai sinh, như tôi đã kể. Tất nhiên hết khóa ấy, dì Nghĩa của tôi không còn làm chủ tịch xã, hơn thế nữa, dì từ chối mọi công tác, xin ra Đảng để làm người dân bình thường nhưng lương thiện để nuôi những đứa con, như lời dì viết trong đơn xin thôi công tác. Cuộc đời của dì Nghĩa tôi sau này rất buồn thảm. Mãi sau này, cách đây vài năm, tôi về thăm dì thì dì bị mù cả hai mắt, ở với bà mẹ chồng, tức mẹ chú Cầu, chín mươi tư tuổi cũng bị mù. Chú Cầu đã bị chết trong khi đi cải tạo, do vết thương hình lưỡi hái xuyên từ bụng sang lưng tái phát. Còn đứa con của chú Cầu với chị Xuân đã về ở với mẹ, vì anh chồng chị Xuân đã hy sinh, năm ấy nó đã hai mươi hai tuổi, nhưng không xin được đi làm nhà nước, vì lý do gì đó. Còn chị Xuân thì không vui nhưng cũng không buồn lắm, chị vẫn thường qua lại với dì Nghĩa, nhận dì Nghĩa làm chị. Khi bà cụ mẹ chú Cầu chết, chị cũng góp một con lợn và hai mươi cân gạo làm ma, và đội khăn trắng. Tôi hỏi dì Nghĩa: -Sao lúc làm giấy khai sinh cho thằng Hận, dì không hỏi cha nó là ai? Dì cười, hướng dôi mắt nhắm tịt, ứa nước ra phía cửa: -Hỏi làm gì hở anh? Đau khổ đến thế còn chưa đủ hay sao mà hành hạ nhau nữa... Chị Nga của tôi lại túi bụi với công việc nhà chồng, để thằng Hận nằm lăn lóc một mình, thỉnh thoảng ông Tuân mon men lại gần, nựng nó, âu yếm nó, nhưng chỉ làm nó khóc toáng lên mà thôi. Mỗi lần nó khóc bà Tuân ở dưới nhà ngang lại rên lên dữ dội. Rên một lúc bà khóc anh Kỳ. Tiếng khóc não nùng, đay nghiến như vặt thịt vặt da người nào đó. Thì còn người nào nữa, chị Nga chứ ai. Ông Tuân lúc đầu để yên, nhưng sau phải vào tận nơi, chỉ vào mặt vợ: -Bà làm cái gì thế? Có câm cái mồm lại không! -Ối giời ơi! Con ơi là con! Kỳ ơi là Kỳ! Con đem thân đi chết vì nước vì dân, con có biết đâu ở nhà mẹ khổ như thế này! -Bà thì khổ cái nỗi gì? Đã là cái cục nợ cho người ta còn không biết thân biết phận... -Ối ông giời ơi! Người ta đang rủa tôi. Vâng, tôi là cái nợ, thế còn ông là cái gì mà ông giương mắt lên nhìn cái con gà cỏ ấy? -Gà cỏ nào? Nó là máu mủ nhà này đấy! Cuộc đấu khẩu bất tận bằng những tiếng khóc ấy làm cả làng lắc đầu. Rồi đến một hôm, hai người con gái lấy chồng thiên hạ bảo nhau kéo về một lượt. Chị Diệu về trước chị Thông một chút. Cả hai không nể mồm ra sức nhiếc móc chị Nga, là quân ngứa nghề đồ đĩ rạc. Đã thế lại ngang nhiên đem đứa con hoang về nhà chồng. Nếu ông Tuân không dọa tự tử treo cổ lên xà nhà thì họ đã đè chị Nga ra mà gọt đầu. Kể cũng lạ, chị Nga không nói, không khóc, đến gần trưa, chị xuống nhà ngang qùy sụp xuống lẫy bà Tuân bốn lạy, lên hè cũng lạy hai bà chị chồng cũng bằng tưng ấy cái, rồi lặng lẽ bế con, đậy cái nón mê lên mặt nó, ra cổng. Ông Tuân muốn đuổi theo nhưng hai bà con gái giữ ông lại. Họ cùng đứng ở giữa sân nhìn theo cái bóng chị Nga đi về phía cánh đồng cho đến khi khuất hẳn vào sau rặng tre bờ sông. Đến lúc ấy, ông Tuân đứng giữa sân ngửa mặt nhìn mặt trời chính ngọ đấm ngực đùm đụp: -Giời ơi là giời! Nó là máu mủ nhà này đấy, các người biết không? Hai bà con gái nhìn nhau, nhưng không nói gì. Mãi sau chị Diệu mới lên tiếng: -Cứ để cho nó đi! Nhà này không cần cái ngữ ấy. Hai ông bà già đã có tiền liệt sỹ của cậu Kỳ sống hết đời lo gì mà lo? -Phải đấy! Lúc này chị Thông, người con gái thứ hai, em của chị Diệu mới góp tiếng vào. Cậu Kỳ hi sinh là để lại quyền lợi cho thầy u, chứ chứa nó ở đấy ngày nó cướp mất đem cho giai. Lại còn nhà cửa vườn tược này nữa thì ai mà giữ. Chúng con lấy chồng ăn phận nhà chồng... Chị Nga cứ lùi lũi bồng con đi về phía bờ sông. Thực trong lòng chị vẫn hi vọng ông Tuân cất lên một tiếng giữ chị ở lại, dù chỉ là đãi bôi. Nhưng không, không có ai, không có gì níu chân chị ở lại, ngoài những tảng đất cày và đám gốc mía từ vụ trước còn loi thoi gập ghềnh dưới chân chị. Nơi bờ sông ấy là một khu bãi bồi gọi là Soi Vạt. Soi Vạt rộng chừng vài mẫu được người ta trồng tre bao để dòng sông Công khỏi lấn vào cánh đồng. Tre rất tốt và đặc biệt những bãi cỏ xanh mướt kéo dài suốt một triền bãi xen kẽ với những bãi cây bưởi bung. Tôi cũng không hiểu tại sao ngoài đám trẻ mục đồng chúng tôi ra, người lớn rất ít khi đặt chân đến đây, và Soi Vạt trở thành một thế giới riêng của chúng tôi, như là trong chuyện cổ tích. Vì là chuyện cổ tích nên ở đó thường hay có Bụt, có Tiên, và cả những mụ dì ghẻ ác độc và cả ma quỷ nữa, rất nhiều. Vào mùa nước nhỏ chúng tôi thường lùa trâu vào Soi Vạt và tha hồ vùng vẫy dưới dòng nước trong vắt của con sông miền Trung du. Chúng tôi say mê tìm những tổ cò lửa để lấy những cái trứng màu nâu đỏ trong những cái tổ sơ sài trong bụi dứa gai. Chán, chúng tôi lại xuống sông lật những hòn đá tìm những chú tôm ngái ngủ. Có khi bắt được một mớ, chất một đống lửa bằng cành tre gai mà nướng. Những con tôm sông chuyển dần sang màu đỏ au, thơm và ngọt. Những lúc như thế đám trẻ trâu chúng tôi, cả trai lẫn gái, nằm ngả mình trên cỏ thi nhau mơ màng. Chúng tôi có một thế giới tuổi thơ êm đềm trên cánh bãi Soi Vạt. Về sau này, khi chúng tôi lớn lên trở thành những chàng trai, cô gái bay túa đi nhiều phương nhưng dòng sông vẫn thế, vẫn êm đềm và bí hiểm như là trong một thế giới cổ tích bị lãng quên... Từ hôm ấy, Soi Vạt là nơi trú ngụ của hai mẹ con chị Nga. Những tin tức của mẹ con chị Nga bay về xóm rất nhiều chiều, nhiều luồng và đứt đoạn bởi chủ yếu là do đám trẻ con mục đồng thuộc thế hệ sau chúng tôi đem về. Rồi một ngày, ông Tuân chống gậy lần theo những rặng tre ven sông. Nhưng ông đành thất vọng trở về, bởi vì hai mẹ con chị Nga không còn ở đấy nữa. Không ai biết chị đi đâu. Mãi một thời gian sau có một nguồn tin nói rằng, vào một đêm trăng suông, những người lấn mẹt trên sông nhìn thấy bóng người, một người mẹ ôm con ngồi trên một cái mảng nứa, trôi theo con nước về mãi dưới xuôi. Thế thì đúng chị Nga rồi! Buồn quá, sự đời nước chảy bèo trôi, chỉ thương cho chị Nga của tôi, cho người thiếu phụ thời nước non loạn lạc... Từ sau ngày có tin mẹ con chị Nga đang giữa đêm khuya đưa nhau trên mảng nứa trôi theo dòng sông Công về mãi dưới xuôi xa tít mù khơi, dân làng Sơn Cốt chúng tôi được dịp rộ lên một chặp xung quanh "vụ cô giáo Nga" để rồi lại ắng xuống như dòng sông sau cơn lũ. Mỗi lần một người nào đó gặp ông Tuân chống gậy lẩn thẩn đi về phía Soi Vạt, họ lại lắc đầu đầy vẻ thương cảm. Thời gian trôi đi chậm chạp và nặng nề một cách tai ác... Một hôm như thế, ông lão Tuân đang trên đường từ bãi soi về làng, anh Định Khiểng, người giao thông xã, chuyên lấy thư từ, báo chí và các loại công văn của xã bằng chiếc xe đạp Phượng Hoàng tồng tộc tới. Nhìn thấy ông lão Tuân, anh Định rà phanh xe lại dừng ngay trước mặt ông lão: -Chào cụ! Cụ đi đâu về mà nắng nôi thế này, nón áo chả có? Ông lão từ từ ngẩng lên và từ từ cất giọng: -Ừ! Thế ông là ai...? Anh giao thông cười: -Con đây mà cụ! Định giao thông đây... Nhận ra người quen, ông lão chững lại một giây, rồi thều thào: -Tôi có thư à? Hay là lại giấy báo tử?... -Khổ quá! Làm gì có giấy báo tử nữa... Hoà bình từ mấy năm nay rồi! Các anh bộ đội ai còn sống thì đã về làng cả rồi! -Ừ nhỉ! Ông lão Tuân cười nhợt nhạt, nhe hàm lợi khô, nhăn nhúm. -Con có tin này cho cụ đây. Rồi giữa đường vắng, anh giao thông xã vẫn ghé sát vào tai ông lão, giọng thì thào, như sợ có ai nghe thấy. Con biết chỗ mẹ con cô giáo Nga ở rồi! -Thế à? Ông lão giật mình, nói to lên bằng giọng reo mừng như quát. Anh thấy mẹ con cô ấy ở đâu? Họ có khỏe mạnh không? -Cụ ơi, nho nhỏ thôi, không có các bà con gái cụ mà biết lại chửi cháu là đồ hóng hớt. Cháu không nhìn thấy, nhưng anh bạn bưu chính huyện thấy và tả lại thì con nghĩ đúng là mẹ con cô giáo Nga, chứ còn ai?... Ông lão vịn một tay vào ghi đông xe đạp của anh giao thông: -Anh chỉ chỗ cho tôi mới! -Nhưng mà xa lắm, không phải ở tỉnh ta đâu! -Xa là ở đâu? -Bên Phú Thọ kia! Ông lão chống cái gậy tre vào cằm, nghĩ ngợi: -Phú Thọ à? Tôi biết. Hồi năm đi dân công lên Điện Biên tôi cũng đã đi đường ấy... Thế anh bạn của anh thấy cô Nga nhà tôi làm công việc gì? Anh giao thông tỏ ra ái ngại: -Con cũng không hỏi... -Bây giờ anh ta ở đâu? Cho tôi gặp một cái được không? -Vâng! Để hôm nào con mời anh ta vào nhà chơi, rồi con bảo cụ. Thôi, bây giờ con phải đem công văn vào ủy ban xã kẻo muộn. Mà này, cụ nhớ giữ kín chuyện này hộ con nhá! Ông lão Tuân gật đầu hai ba cái rồi nhìn theo anh giao thông thọt chân đang dướn mình "nhảy-bê-đan" trên chiếc xe đạp tróc sơn đèo đằng sau lũng lẵng hai cái túi bạt lòi cả ra những tờ báo còn mới mùi mực in... Ông lão Tuân bỗng thấy trong ruột gan bắt đầu có cái gì đó bào xé, nếu như trước đây nó chỉ âm ỉ sôi réo, thì bây giờ nó thật sự bào xé. Ông không thẫn thờ mà cảm thấy có ai đang đợi mình ở đâu đó. Ở đâu thì ông không biết, có thể là ở nhà, mà cũng có khi là ở một nơi nào đó xa thẳm. Hình như ông sợ chết! Nếu cách đây vài phút đồng hồ trước khi gặp Định Khiểng, ông chả còn thiết sống, ông coi lần ra với Soi Vạt này là lần cuối cùng, để rồi vĩnh viễn nằm lại trên chiếc chõng tre, chờ người ta gói ông vào tấm vải liệm. Ông sẽ ra đi mà trong lòng không thể thanh thản, nhưng còn cách nào khác đâu? Người già như ông làm sao lột da sống lại để trả các món nợ nhân gian! Nhưng không! Định Khiểng với cái chân thọt nhảy nhoay nhoáy trên chiếc bút chì pê-đan đã đem lại cho ông một tia hy vọng mới! Hy vọng gì và làm thế nào để thực hiện nó thì ông chưa biết, nhưng ông biết chắc chắn là thế nào ông cũng phải gặp được mẹ con chị Nga của tôi. Đó là món nợ đời của ông. Ông nợ ai? Nợ anh Kỳ? Nợ chị Nga hay nợ thằng Hận? Tất cả, tất cả đã giằng xé ông trên con đường làng khấp khểnh toàn dấu chân trâu truyền nhau để lại. Vào nhà, ông lão cẩn thận dựa cây gậy vào góc cột rồi ngồi vật xuống chiếc tràng kỷ long mộng. Nghe tiếng động, bà lão dưới nhà ngang bắt đầu rên to dần. Cả con lợn trong chuồng, cũng như một phản ứng dây chuyền, nghe tiếng rên của bà lão, nó hực lên một tiếng rồi bắt đầu rít. Cùng với sự nổi loạn đồng loạt ấy, bầy gà đang bới ngoài gốc rơm cũng táo tác, nhảy tứ tung vào trong sân, lên bệ nước. Ông lão Tuân đang rối ruột, càng thêm bực bội. Ông muốn làm một cái gì đó cho tan hoang cái cơ ngơi này đi, để khỏi nhìn thấy nó, để khỏi phải lo lắng cho nó... Ông vê điếu thuốc lào, châm đóm nhưng không hút ngay, que đóm cháy leo lên gần ngón tay, đến khi nó xém vào da thịt, ông lão thả nó xuống nền đất, ngọn lửa còn leo lét cháy một lúc nữa mới chịu tắt. Nhìn ngọn lửa bùng lên dưới chân mình trước khi tắt ngấm, vươn lên một sợi khói mảnh ngoằn ngoèo, ông lão bật cười. Ông đang có một dự tính, và châm que đóm khác. Điếu thuốc làm ông đê mê chừng vài giây, vài giây đồng hồ thoát khỏi căn nhà và những ý nghĩ. Có tiếng động mạnh ngoài hiên, ông lão không buồn ngó ra cũng biết là ai. Đó là con Thảo, đứa cháu ngoại con gái đầu lòng của chị Diệu. Nó là một con bé mười ba tuổi, chưa trổ mã, người cao ngẳng, xanh xao. Từ ngày mẹ con chị Nga bỏ đi, chị Diệu bàn với cha mẹ: -Thôi thế cũng là xong, là gọn, thày u khỏi phải bận tâm. Con thử về bàn với nhà, rồi chúng con sẽ cho cháu Thảo sang ở với ông bà. Trước là để cho có người ruột thịt, sau là để nó đỡ đần, cơm nước, thuốc thang cho bà... Ông lão Tuân không buồn đáp, ông đang đau lòng, còn bà lão thì khóc nức nở: -Ối Giời ơi là Giời! Có con trai mà không được nhờ, phải nhờ đến con gái với cháu ngoại! Giời bảo tôi thế có đau không? -Cháu nào chả là cháu, bà cứ nói thế, chả trách! Chị Diệu gắt lên với mẹ. Giá kể thằng Thu nó lớn thì con cho nó sang, sau này nó sẽ là người trông nom hương khói cho ông bà. Tội cái, nó hãy còn bé, chả biết việc gì vào với việc gì... Nghe đến đây, ông lão Tuân thấy trong ruột gan nóng ran, như thể ai vừa châm cái đóm vào: -Thôi được rồi, không phải bàn bạc gì nữa, chị muốn thế nào thì cứ thế là làm... Nhưng mà cũng phải bảo chồng chị sang đây, cho tôi nói chuyện. Đấy, dinh cơ vợ chồng tôi và thằng Kỳ làm ra đấy, liệu mà trông nom. Còn thì hưởng, chả còn thì thôi, tôi nhắm mắt xuống đất, thì còn thiết cái gì. Nhưng cơ mà các chị cũng ác đức lắm... Chị Diệu tỏ ra đã hiểu câu nói xa gần của bố, chị rời khỏi cái ghế đẩu sang ngồi đối diện trước ông bố trên cái tràng kỷ: -Sao thày lại nói thế? Sao thày bảo con ác đức? Thế dễ thường cứ để cho mẹ con cô ấy ở đây là mát mặt lắm đấy chắc? Thày u già thì cũng phải chết, nhưng cơ mà còn chúng con, còn các cháu, cất mặt vào đâu được? -Cất vào đâu ấy à? Việc gì đến các chị? Có mà các chị tiếc cái nhà này, tiếc cái mảnh vườn này... Tôi nói thật cho các chị biết... Chỉ một tí nữa thôi là ông lão nói ra cái sự thật chết người, mà chỉ một mình ông cất giữ. Ông kịp giữ lại trong lòng. Nhưng ông sẽ giữ được bao lâu? Không! Nhất định ông phải nói ra, nhưng nói vào lúc nào và nói với ai, chứ không phải với những bà con gái tham lam, hãnh tiến và mưu mô giả dối này! Chị Diệu khóc tấm tức, khóc nức nở: -Sao thày lại nỡ nói thế! Chúng con chỉ muốn cho cha mẹ khỏi khổ! Chúng con có sung sướng gì khi cha mẹ đơn độc? Nếu cậu Kỳ còn sống thì thử cho chúng con cũng đã dám nhận nào... -A, ra cái con này hỗn láo! Mày dám thách thức ông, thách thức bố mày à? Thằng Kỳ nó không chết thì ai còn nói làm gì? Nó còn sống mà về đây thì cho ăn vàng chúng mày cũng không dám ho he... Thực tình, chị Diệu không phải là người xấu, ít nhất là trong trường hợp này. Cái lý của chị, cái tình của chị không thể chê trách, bắt bẻ chị được. Có điiều, ông lão Tuân đã giận quá, mất khôn. Trong lòng ông đang dào lên nỗi nhớ thương chị Nga và thằng con trai của chị, thằng Hận! Thế là niềm hy vọng, không, niềm tin, không, báu vật của ông đã vuột mất. Vuột ngay trước mắt ông, nhưng ông đã không giữ nổi, đau đớn hơn nữa là ông không dám giữ. Lúc đó ông là một người đàn ông, tồi tệ, một người cha hèn mạt. Rồi đây, ông sẽ ăn nói thế nào với tổ tông, cụ kị? Ừ, thì cứ cho là việc làm của ông với chị Nga là tồi bại đi! Thì đã sao? Ông đâu phải là con quỷ dâm dục, ông chỉ làm một việc là gìn giữ cái dòng họ của ông mà thôi... Ngay lúc này đây mà xảy ra cái chuyện hai bà con gái của ông xa xả đuổi mẹ con chị Nga, thì ông đã... Cuối cùng thì ông cũng chấp nhận đề nghị của bà con gái là để đứa cháu ngoại, con chị Diệu sang ở với ông bà. Con bé tuy khờ khạo, nhưng được cái ngoan hiền, không dám cãi ông bà. Nhất là bà. Bà cụ Tuân sau nỗi đau mất con, bệnh tình của bà càng trầm trọng. Người đàn bà quê tôi thường không mấy người chịu ngồi nhà chịu cảnh tôi mọi để chồng nuôi. Bà lão Tuân vốn là một tay đi rừng, luồn măng, hái củi cừ khôi. Bằng ấy năm, khi bà chưa bị cái bệnh tê thấp đánh ngã gục, bà đã chèo chống cái gia đình vốn rất đa đoan, đáo để. Ấy thế mà khi bệnh tật, lao lực đánh bà ngã gục xuống, như là một trận hỏa hoạn, mọi cái đã tiêu tan... Cho nên bà đau đớn lắm. Đau thì bà phải kêu! Thực tình bà thương con dâu lắm. Đời người đàn bà làm dâu có chồng bên cạnh đã khổ, đằng này mới cưới nhau được hai tháng thì chồng đi biền biệt vào nơi hòn tên mũi đạn, chẳng có ngày về. Thế rồi, bây giờ, chồng chẳng còn, con cũng không có, ở lại nuôi hai cái nắm xương ư? Thì nó phải phá ra, nó phải đi thôi! Nhưng, như thế thì oan uổng cho con bà, cho thằng Kỳ quá! Nó chết có nhắm được mắt không? Hả Giời! Con bé Thảo lướt qua vách dừng, nó biết ông lão Tuân đã về, nhưng nó không có thói quen chào ông, mà chỉ lướt qua, đánh động để ông nó biết. Ông lão Tuân, sau phút say xiêu vẹo của điếu thuốc lào, gọi vọng ra ngoài sân: -Thảo ơi! Lên đây ông bảo!... Con bé rón rén vào nhà, ông lão e hèm mấy cái rồi hỏi nó: -Bà ăn cơm chưa? -Bà cháu ăn rồi ông ạ! Ông ăn cơm để cháu dọn lên... Ông lão nhìn ra ngoai sân, cái cần kéo nước ngất nghểu trên miệng giếng, làm ông phân tán ý nghĩ, suýt thì ông quên mất cái ý định nói với nó lúc đầu. Ông "sùy" một tiếng đuổi con ngan đang lễ mễ trong sân giếng, thỉnh thoảng lại "phẹt" một bãi. Con bé Thảo thấy thế toan chạy ra, ông gọi lại: -Đứng đấy ông bảo. Ông chưa muốn ăn cơm đâu, cứ để đấy cho ông. Bây giờ cháu về bên nhà bảo mẹ chiều qua ông nói cái này nhé! -Mẹ cháu đi họp ngoài huyện ông ạ! Không biết đã về chưa... -Ừ, cháu cứ về xem, nêu có mẹ mày ở nhà thì bảo sang ngay. Còn không thì bảo ông nhắn... Con bé Thảo vào buồng, lúc sau vó đi ra với cái áo mới và cái nón trắng của chị Nga để lại. Nó lễ phép: -Ông ơi cháu về! Ông lão Tuân, chỉ tay vào buồng: -Lấy xe đạp mà đi cho nhanh con ạ! Khuôn mặt con bé Thảo chợt ửng lên. Nó sung sướng! Từ hôm nó sang ở với ông bà, nó nhớ nhà, thỉnh thoảng lại ra đống rơm nhìn ang bên kia sông, rớm nước mắt. Nhưng nó không để cho ông bà thấy, bố mẹ nó đã dặn là phải ở với ông bà, sau này ông bà sẽ lo cho... Lo cho cái gì thì nó chưa quan tâm, vì nó chưa hiểu. Nhưng cái xe đạp thì nó thích lắm. Đấy là chiếc xe đạp của chị Nga để lại, chiếc xe đạp Thống Nhất màu xanh nước biển, mà không chỉ con bé Thảo mà rất nhiều người mơ ước. Nó ao ước được leo lên chiếc xe đạp ấy lắm! Nó cũng biết đó là xe của "mợ Nga", mà mợ Nga thì đã đi rồi. Nó ở đây thì nó sẽ được đi thôi, con bé tin như thế. Nhưng chưa bao giờ nó được ngồi lên cái xe ấy, mà nó thì không dám hỏi. Thỉnh thoảng ông nó cũng lấy ra lau chùi chiếc xe bóng loáng, rồi ông đạp thử mấy vòng quanh sân, ra cổng rồi lại vào nhà, cất đi. Bây giờ thấy ông bảo thế, nó sung sướng đến nóng cả mặt. Chắc phải là việc gì quan trọng lắm, khẩn thiết lắm, ông mới cho nó lấy xe đi chứ! Xe của mẹ, dù mẹ là cán bộ xã, được phân phối nhưng cũng chưa là "cái đinh gì" so với cái xe nó sắp đi đây. Mẹ nó mà thấy cũng phải ghen lên chứ đừng nói gì mấy đứa em! Con bé Thảo cẩn thận nhắc cái xe từ trong buồng ra, nó dẫn ra hết sân rồi mới bước lên pê-đan. Tiếng líp tách-tách ròn tai lăn ra cổng...