lex Ford và một nhóm lính đặc vụ đến ngay sau đó ít phút. Kinh ngạc thay, Albert Trent vẫn còn sống, dù bị thương nặng. Tập tài liệu dầy cộp nhét vào túi phần nào đã giúp hắn tránh được lực của viên đạn. Hắn được khiêng vào xe cứu thương còn Chameber kể lại chi tiết cho cảnh sát những gì đã làm. Khi cảnh sát dẫn hắn đi, hắn còn quay với lại và nói với Caleb, “Nhớ giữ quyển Thánh ca cẩn thận nhé!” Câu trả lời của Caleb làm mọi người ngạc nhiên, nhất là chính bản thân ông, “Đó chỉ là một quyển sách quỷ quái, Monty hay Vincent hay anh là kiểu người gì tôi cũng không quan tâm, nhưng tôi muốn Jonathan sống lại hơn là ngồi lật mấy trang sách cũ xì này”. Ông cầm quyển sách Thánh ca rồi ném thẳng vào hộp. Điều tra mở rộng dần chứng minh suy luận của Stone và mọi người là đúng. Bradley bị giết hại vì đã ép buộc Trent phải rời khỏi Ủy ban Tình báo, và điều đó đồng nghĩa với việc làm gián đoạn mối quan hệ làm ăn giữa hắn và Seagraves. Behan bị giết vì gã phát giác ra Jonathan bị sát hại do sử dụng khí cacbonnic đánh cắp trong công ty của gã. Từ những chuyện Chambers thuật lại, thì một số những tay thuộc hạ của Trent, làm việc tại Công ty Cứu hỏa, đã lẻn vào phòng đọc, gắn máy camera vào khoang thông gió, trong lúc giả vờ như đang chỉnh lại miệng ống gas ở đó. Annabelle và Caleb không tìm ra được chuyện này vì bọn chúng hành động vào ngày thứ bảy, khi phòng đọc đóng cửa và máy camera không được bật lên. Tuy vậy, họ đã tìm ra được một vài manh mối quan trọng: đó là cách bà lão Jewell khéo léo sử dụng tay tráo mắt kính và đó cũng là phần nào dẫn đến việc điều tra ra sự thật. Có một người đàn ông tình cờ chứng kiến sự việc khi đứng gần tầng hầm nơi cất giữ những xilanh khí Halon, cũng là nơi DeHaven bị ám sát, nhưng sau đó, gã kém may mắn này đã bị kết liễu trước khi gã kịp nói với người khác về những chuyện đã xảy ra. Chambers cũng tự nhận đã đột nhập vào phòng sách sau đó và tháo máy camera đi. Milton trao những chữ mật mã cho đại diện NSA, và họ giải mã chúng, đoạn mã được tiến hành dựa trên một cách viết mật mã từ hàng thế kỷ trước và dễ dàng bị tháo gỡ bởi kỹ thuật giải mã tinh vi trên máy tính hiện đại, nhưng rõ ràng Seagraves đã khéo léo cài những tay gián điệp mà không ai ngờ tới như Monty Chambers, Norman Janklow và cả bà lão Jewell English. Văn bản viết thành mật mã hiện đại đều được điện tử hóa, đòi hỏi từ khóa gồm nhiều dãy số để bảo vệ thông tin khỏi sự tấn công ồ ạt và mạnh mẽ của máy vi tính, và rõ ràng không thể sao chép lại trong một quyển sách cũ. Trent đã dần hồi phục vết thương và đang bận rộn phân bua, nhất là khi hắn biết chính phủ có thể áp dụng hình phạt cao nhất đối với hắn là tử hình, trong đó thông tin có liên quan là Seagraves cầm đầu tổ chức gián điệp. Và khi biết chuyện có liên quan đến Seagraves, FBI đã mở rộng điều tra đến tất cả những người có mối quan hệ cho dù là không thân thiết với hắn, việc bắt bớ sẽ không tránh khỏi. FBI cũng lục soát nhà của Seagraves và tìm thấy “bộ sưu tập” của hắn. Tuy ban đầu họ không biết những thứ đồ để trong phòng có ý nghĩa gì, nhưng cuối cùng họ phát giác ra rằng việc đó không đơn giản tí nào, vì nhiều thứ có liên quan đến các nạn nhân đã bị Seagraves sát hại khi hắn từng làm cho CIA. Cuối cùng Stone cũng có cuộc gặp gỡ với Ford, thành viên FBI và cả hai tay thám tử của D.C. đã chạm trán với Caleb ở thư viện. Một tay FBI nói, “Chúng tôi biết đến sự tồn tại của một tổ chức gián điệp ngay trong thành phố này, nhưng chúng tôi không tìm được cách truy ra ngọn nguồn của chúng, và càng không thể ngờ Thư viện Quốc hội lại có dính líu”. Stone tự hào, “Chúng tôi có một con át chủ bài mà các anh không có”. Tay đặc vụ ngạc nhiên, “Đó là gì?” Alex Ford đỡ lời, “Một người thủ thư đầy kinh nghiệm tên là Caleb Shaw”. Tay thám tử D.C nheo mắt vui vẻ, “Đúng rồi, anh Shaw? Anh ta có vẻ hơi căng thẳng”. Stone tiếp, “Nói thẳng ra là việc thiếu tự tin cá nhân của anh ta vẫn luôn được xem nhẹ so với...” Tay thám tử chen ngang, “Sự may mắn ngẫu nhiên sao?” “Không, đó là cách để ý sự việc đến từng chi tiết”. Họ cám ơn Stone đã cung cấp thông tin và rồi mời người khác vào thẩm vấn. Một trong số tay FBI kết luận, “Nếu có cần gì giúp đỡ cứ gọi cho chúng tôi”, rồi đưa cho Stone danh thiếp với số điện thoại trên đó. Stone bỏ danh thiếp vào túi và nghĩ bụng, mình mong rằng không bao giờ cần đến mức kinh khủng như vậy. Sau khi mọi thứ có vẻ lắng dịu xuống, họ lại tụ họp ở nhà của Stone và Caleb đưa cho Annabelle xem quyển sách Thánh ca và muốn cô ta nói lên sự thật. Annabelle hít một hơi dài và bắt đầu giải thích, “Tôi biết Jonathan rất thích đọc sách, và một ngày kia khi tôi vui miệng hỏi nếu ông ấy muốn có một quyển sách quý nhất trên thế giới này thì đó sẽ là quyển nào, ông ấy bảo sẽ là quyển Thánh ca đó. Thế rồi tôi suy nghĩ, tìm kiếm chúng trong tất cả những thư viện và tìm ra một nơi thích hợp nhất để đánh cắp”. Caleb chen ngang, “Cho tôi đoán nhé, nhà thờ cổ miền nam ở Boston phải không?” “Sao anh biết?” “Dễ đột nhập hơn là Thư viện Quốc Hội hay trường đại học Yale, tôi nghĩ thế”. “Tôi tìm đến đó cùng với một người bạn và giới thiệu tôi là nghiên cứu sinh đại học đang tham gia đề tài về những quyển sách nổi tiếng”. “Và họ cho cô xem qua nó à”, Caleb hỏi. “Đúng vậy, cả chụp hình nữa, rồi tôi có người bạn khác rất giỏi làm giả... ý tôi là tạo ra đồ vật”. “Vậy là anh ta làm giả quyển sách Thánh ca ư?”, Caleb thốt lên kinh ngạc. “Giống nhau như thật, không thể phân biệt được”, Annabelle vụt tắt sự phấn khích khi thấy Caleb bắt đầu nổi giận. “Cuối cùng là chúng tôi cùng quay trở lại đó, rồi làm cú đánh tráo nhỏ”. “Cô chỉ đánh tráo nhỏ thôi ư?”, Caleb đỏ mặt tía tai, “Với một trong những quyển sách quý hiếm nhất trên thế giới mà cô bảo là chỉ đánh tráo thôi à?” Stone xen vào, “Sao cô không đưa quyển sách giả giống thật cho DeHaven?” “Đưa quyển giả cho người tôi yêu ư? Không bao giờ?” Caleb ngồi sụp xuống ghế, “Tôi không thể tin vào tai được”. Trước khi ông ta trở nên bực bội hơn, cô ta tiếp tục, “Khi tôi đưa cho ông ấy quyển sách này, Jonathan rất kinh ngạc, nhưng tôi chỉ bảo đây là quyển giả mạo mà thôi, tôi nghĩ có lẽ ông ấy cũng gọi đến nhiều nơi để hỏi thăm, dù sao ông ấy cũng biết tôi đâu phải là kẻ sống hoàn toàn trung thực đâu”. “Thật vậy ư? Chuyện có vẻ hay nhỉ”, Caleb bốp chát. Cô ta giả lơ, “Nhưng vì nhà thờ không biết quyển sách đó là sách giả và cũng không ai báo mất quyển Thánh ca nào cho nên cuối cùng Jonathan kết luận rằng tôi nói thật, ông ấy rất vui vì điều đó, dù sao quyển sách đó cũng cũ rồi”. “Sách cũ à!”. Caleb sắp sửa nổ tung vì giận dữ thì Stone đặt tay lên vai ông ta, “Này, thôi đừng nhắc lại chuyện cũ nữa, Caleb ạ”. “Chuyện cũ gì?”, Caleb lầm bầm. “Tôi sẽ trả nó lại”, Annabelle tỏ thành ý. “Ý cô là sao?”, Caleb hỏi. “Tôi sẽ mang quyển sách về chỗ cũ, đánh tráo quyển sách lần nữa”. “Cô không nói đùa chứ”. “Tôi hoàn toàn nghiêm túc, tôi có thể đánh tráo một lần, và lần nữa không vấn đề gì”. “Lỡ họ bắt cô thì sao?” Cô ta nhìn Caleb với ánh mắt thương hại, “Bây giờ tôi điêu luyện hơn lúc trước nhiều rồi”. Cô ta nhìn sang Milton và nói thêm, “Có muốn giúp tôi làm điều này không?” “Chắc chắn rồi!”, Milton thốt lên đầy phấn khích. Caleb cáu gắt, “Tôi nghiêm cấm anh trở thành tòng phạm nhé”. Milton ngập ngừng, “Anh đừng dễ nổi cáu thế chứ? Đó đâu phải là tòng phạm nếu chúng tôi gửi trả lại quyển sách thật nhỉ?” Caleb tính nói gì đó rồi lại thôi, “Vâng, tôi nghĩ cũng đúng”. “Tôi sẽ tự tính toán”, Annabelle nói, “Giờ thì tôi chỉ cần quyển sách của anh, Caleb”. Cô ta vươn tay ra lấy. Caleb lập tức ghì sát quyển sách vào ngực, “Tôi có thể giữ nó cho đến lúc cô cần không?”. Ông mân mê bìa sách. Reuben nhắc nhở Caleb, “Anh bảo Monty rằng nó chỉ là một quyển sách vô giá trị mà”. Caleb nhìn khổ sở, “Tôi biết mà, tôi chẳng nháy mắt khi nói ra những điều đó còn gì, có lẽ bà tiên sách đã nguyền rủa tôi”. Annabelle gật đầu, “Được rồi, anh cứ giữ lấy”. Reuben nhìn cô ta tràn đầy hy vọng, “Bây giờ mọi thứ đã qua đi, thế cô có muốn đi đâu đó với tôi tối nay không?” Cô ta mỉm cười, “Để tôi xem lại thời tiết, Reuben ạ. Nhưng cám ơn anh đã có nhã ý”. “Sẽ còn nhiều lần như vậy nữa, thưa quý cô”, ông hôn tay cô. Sau khi mọi người rời khỏi căn nhà, Annabelle tìm đến Stone lúc này đang làm việc ngoài nghĩa trang. Ông dọn dẹp một nấm mồ, còn cô nàng nhổ cỏ dại bỏ vào túi ni-lông. Ông chau mày, “Cô không cần phải ở lại và giúp tôi đâu, làm việc ở nghĩa trang là một chuyện chẳng thích hợp với một người như cô tí nào”. Cô ta chống tay lên hông, “Vậy ông nghĩ sống thế nào mới thích hợp với tôi?” “Chồng, con, nhà đẹp ở vùng ngoại ô, tham gia hội phụ huynh học sinh, và có thể nuôi chó cưng”. “Ông đang đùa à?” “Vâng, tôi đùa đấy. Bây giờ thì sao?” “Tôi phải trả sách nếu không Caleb sẽ nổi điên mất”. “Rồi sau đó?” Cô ta nhún vai, “Tôi chẳng nghĩ ngợi xa hơn nữa đâu”. Cô ta cầm lấy miếng xốp, cúi thấp xuống và giúp Stone chà sạch tấm bia. Sau đó, cô ta đi nấu bữa tối, cùng ăn và trò chuyện với Stone ngay dưới mái hiên. Annabelle liếc nhìn Stone, “May là tôi đã quay lại”. Stone phụ họa, “Tôi cũng thế, Annabelle”. Cô ta mỉm cười khi nghe ông gọi tên thật của mình. “Tên Seagraves đó gọi ông là một thằng 666. Điều đó có ý nghĩa gì?” Stone trả lời, “Chuyện cũng đã cách đây ba mươi năm rồi”. “Cũng công bằng thôi, tất cả chúng ta đều có bí mật, thế ông có tính đi chỗ khác không?”, cô ta hỏi. Ông lắc đầu, “Ở đây có vẻ thích hợp với tôi”, ông đáp gọn lỏn. Có thể vậy, Annabelle suy nghĩ, rồi họ cùng im lặng, thưởng thức trăng tròn trên bầu trời. Cách đó bốn giờ lái xe về hướng bắc, Jerry cũng đang nhìn ra ngoài cửa sổ, ngắm trăng. Hắn đã gọi tất cả những mối quen biết, đe dọa và đánh đập nhiều hơn số mà hắn nhớ, thích thú từng phút giây hành hạ người khác. Kết quả là hắn đang tiến gần đến đích hơn vì lần lượt những hàng rào phòng thủ của Annabelle đã lộ diện. Và sắp tới, những gì hắn đã làm với Tony Wallace sẽ nhanh chóng được thực hiện với Annabelle. Hình ảnh cô ả gục ngã bất giác làm hắn nở một nụ cười mãn nguyện, hắn đã trở lại thế thượng phong, hắn rít một hơi xì-gà và nhấp một ngụm uýt-ki. Mày chuẩn bị nhé Annabelle Conroy, tay Jerry to lớn, xấu tính sắp đến rồi đấy. Hết