Chơi bộ quần áo kaki nhà binh lột bỏ cầu vai, mang đôi giầy đen mỏ vịt, tôi xách túi hành lý đầy nhóc thơ thương nhớ giả vờ, bước xuống xe. Đi bộ một quãng khá xa tôi mới bắt chiếc xe nhân dân Công Quản chuyên chở Công Cộng, nôm na là ô tô buýt về bến chính. Lại cuốc bộ từ chợ Bến Thành đến Nhà Hát Tây. Trông tôi có vẻ Dũng lắm. Chiến sĩ cách mạng tôi có chủ nghĩa Duy Dân soi đường chỉ lối đấu tranh đã ngỡ ngàng đứng trước Nhà Hát Tây hiu quạnh. Cảnh đấy, người đâu? Dâu biển gì nhanh thế? Dân di cư tầu vét đỉa đói đã bị Tòa Đô Sảnh càn quét hết.“Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn” rồi. Tôi hỏi thăm ai ra nhà Hoàng Văn Bảo,Đặng Xuân Côn, Nguyễn Xuân Nhân, Lê Như Quỳnh bây giờ. Chiến sĩ cách mạng Vũ Mộng Long, nhân danh chủ nghĩa Duy Dân, chống cộng sản Nga, tư bản Mỹ, đế quốc Pháp, Giáo hội Vatican, Trung Hoa và Việt gian tay sai ngoại bang bèn thầm thì hát Lời du tử: “Chiều nay biết về nơi đâu? Dừng chân ta ngắm cảnh bao la sầu…”. Vừa hát tới đây thì có tiếng gọi:- Ông Long, ông Long …Cứu tinh của tôi chính là “đệ tử” bẩn Tạ Văn Ân. Nó vồn vã:- Ông đi đâu tuyệt tích?- Du sơn du thủy.- Cảnh đẹp ông thấy đã nhiều đấy nhỉ?- Ừa.- Nơi nào đẹp nhất?- Nơi đẹp nhất vẫn là Nhà Hát Tây. Từ em Hải đen gầy đét, em Long phốp pháp, emTrinh vô duyên đến mày và cái cầu tiêu ngập phân kê năm viên gạch vẫn không thểngồi đại tiện nổi đều làm tao bồi hồi xúc động.- Ông xỏ tôi.- Chứ lâu lắm mới gặp nhau, mày hỏi gì lãng nhách vậy?- Hỏi thế nào?- Hỏi tao ăn cơm chưa!- Ông ăn cơm chưa?Thằng “đệ tử” keo cú này cần rào đón.- Chưa thì sao, rồi thì sao?- Chưa thì tôi mời ông đi ăn cơm sườn nướng hẻm Casino. Rồi thì tôi mời ông đi uống cà phê.- Mày tiến bộ ghê nhẩy!- Tôi vừa làm cách mạng.- Cách mạng?- Tôi chống bà dì ghẻ, cãi nhau với ông via, bỏ đi giang hồ một tháng. Tôi raPhan Thiết, đến làng Ninh Chữ thì về.- Rồi gì nữa?- Tôi làm thơ, lấy bút hiệu Ninh Chữ.- Mày cũng làm thơ thì tao đói to mất. Mày định viết văn thêm không?- Có chứ.- Bút hiệu gì?- Vẫn Ninh Chữ.- Không hay.- Ông chọn giùm bút hiệu đi.- Nấu Văn.- Ông lại xỏ. Đi ăn rồi tôi nhờ ông đọc thơ của tôi.Ăn no nê, tôi gạ nó chở tôi đi uống cà phê. Ở đây, tôi đọc mấy bài thơ đầu đờicủa thi sĩ Ninh Chữ, chủ tiệm may Can phố Tự Do sau này. Luận điệu của tôi bậc “thầy” lắm.- Ông thấy thơ tôi thế nào?- Mày đừng buồn nhé!- Buồn chi.- Thơ mày rỗng tuếch.Y hệt thi sĩ Đoàn Trọng Thu, tôi thao thao lý luận thi ca những bài học tủ. Thisĩ Ninh Chữ vểnh tai nghe, phục sát đất. Tôi móc bó thơ của tôi ra biểu diễn. Nóđọc vài bài. Cảm khái quá, nó hẹn mai mời tôi đi ăn phở. Tôi nhờ nó chở tôi đếnthăm hai “đệ tử” Nguyễn Xuân Nhân, Lê Như Quỳnh ở đường Paul Bert, Tân Định.Quỳnh đang ăn bám gia đình Nhân. Nó gặp tôi mừng rỡ. Đợi thi sĩ Ninh Chữ phóng mobylette về, tôi kéo Lê Như Quỳnh ra quán cà phê gốc cây tâm sự.- Mày thấy tao lạ không?- Lạ.- Lạ chỗ nào?- Ông mập mạp và nam nhi lắm.- Sài gòn vui chứ?- Vui mẹ gì!- Đặng Xuân Côn ở đâu?- Xóm đượi quốc tế, khổ vô cùng.- Mày hay gặp em Ngọc Anh của tao hả?- Hết của ông rồi. Em dính kép mới.- Tại tao đá em.Tôi nói thế mà lòng hơi đau. Sài gòn chẳng còn gì hấp dẫn cả.- Mày sống với cu Nhân … no chứ?- Ăn bám xấu hổ thấy mẹ. Tôi chưa hỏi ông đi đâu, làm cái giống chi.- Tao hoạt động cách mạng trên rừng Ban mê thuột. Đảng của tao nuôi tao, dạy tao nên người … lãnh tụ dân tộc mai này.Tôi bốc máu cách mạng huyễn hoặc “đệ tử” Quỳnh. Mắt nó sáng rực:- Ông cho tôi đi làm cách mạng với.- Mày chịu đựng gian khổ nổi không?- Bao lâu.- Đến khi chính quyền về tay ta. Mày sẽ làm Thứ trưởng.- Tôi chịu nổi gian khổ. Mà gian khổ thế nào?- Học triết học dài dài.- Chỉ nằm nhà học thôi à?- Nằm chiến khu.- Ông bảo đảm thành công chứ?- Bảo đảm.- Bao nhiêu phần dầu?- Dầu gì?- Dầu dừa.- 99 phần.- Chiến khu cách mạng của ông chống Ngô Đình Diệm à?- Chống lung tung.- Có các em không?- Vô số. Em nào em nấy thơm phưng phức. Toàn Cô Giang, Cô Bắc cả. Mày sẽ gặp cô Khiết và sẽ ngất ngây.- Được yêu hả?- Ai cấm.- Có điều kiện gì không?- Có.- Gì?- Cái vé xe đò cho mày, thế là đủ. Mày cần dự trữ cái vé xe “rơ tua” nếu màythấy cách mạng gian khổ. Và tí tiền còm ăn cơm dọc đường.- Dễ ợt.- Còn nữa.- Gì?- Tao lãnh nhiệm vụ đưa anh em lên chiến khu.- Ông đưa tôi đi, tôi nhớ ơn ông suốt đời.- Dĩ nhiên là tao phải đưa mày đi.- Bao giờ đi?- Mai được không?- Không kịp xoay tiền.- Một nhé?- Mốt thì kịp.Tôi muốn về “chiến khu” càng sớm càng tốt. Quả thật, tôi không còn chỗ nào nương náu ở Sài gòn. Tôi lánh mặt Đặng Xuân Côn vì chưa có gì giúp đỡ nó thiết thực.Không lẽ tôi nói phét nó chuyện cách mạng như nói phét thằng “đệ tử” Quỳnh. Tôi cần Quỳnh sống bên tôi cho vui. Giá bà mợ của tôi rộng lòng một tí, cậu tôi sẽ đóng tiền cho tôi học lái tắc xi. Thì nay tôi đã là tài xế. Cậu tôi bảo làm nghềchạy tắc xi tự do, lúc rảnh vẫn viết thơ văn được. Tôi cũng thích chạy tắc xi.Định mệnh trớ trêu thật, nó đẩy tôi vào … cách mạng Duy Dân. Thôi, tôi mặc kệ con nhà định mệnh. Tôi có một ngày ăn phở, ăn cơm, uống bia bằng tiền của “đệ tử” keo cú Ninh Chữ để lý luận thi ca cho nó nghe, để đọc thơ và sửa thơ giùm nó. Rồi tôi kéo “đệ tử” Quỳnh bôn ba trên con đường giải thoát dân tộc!o O oNhờ tôi trở lại sớm, “kết nạp” thêm tay cuốc Lê Như Quỳnh, đàn anh Nguyễn Luyện tin tưởng tôi trung thành với cách mạng, tôi sẽ dâng hiến trọn đời tôi cho cách mạng. Quỳnh lên rừng hôm trước thì hôm sau Đào Xuân Sắc° theo Nguyễn Văn Truyền lên. Truyền có nhiệm vụ đưa anh em mới vào cách mạng, lên núi xuống đồng bằng thường xuyên. Rất xui xẻo cho chiến sĩ Duy Dân tân tòng Lê Như Quỳnh và Đào Xuân Sắc là, “tình báo” của Đảng cho hay “cơ sở” còn … trinh. Nghĩa rằng địch chưa biết. Chúng tôi lại sáng nhai Chu tri lục, chiều cuốc đất tự lực cánh sinh, thề không ăn gạo Mỹ viện trợ để chống Mỹ. Chiến sĩ Xuân Sắc cuốc đất dưới nắng bị say nắng lăn đùng trên đất vỡ. Anh em cuống quýt khiêng vào nhà. Chiến sĩ Như Quỳnh thối chí.- Ông bảo chỉ nằm nhà học triết.- Mày trách tao à?- Tôi không cuốc đất được, tay tôi bị xưng mọng nước.- Mày ngại khó ngại khổ?- Tôi không quen.Tôi lên giọng cách mạng:- Không tập cuốc, sao hiểu nổi tâm sự người cuốc đất ròng rã bốn nghìn năm?Cách mạng tranh đấu cho con người đau khổ. “Ngọc kia chẳng dũa chẳng mài, Cũng thành vô dụng cũng hoài ngọc đi”. Con người chẳng làm cách mạng há sống ăn bám ư?Như Quỳnh lắc đầu:- Thôi, ông ở lại mà làm cách mạng.- Mày cũng không muốn thành thi sĩ.- Thi sĩ nhằm nhò gì tới cách mạng?- Cách mạng đào tạo mày thành thi sĩ.- Thôi, ông ở lại để cách mạng đào tạo ông thành thi sĩ. Tôi tưởng …- Tưởng gì?- Cô Khiết như Cô Giang. Mẹ ơi, cô Khiết chuột chù quá. Chứ, cô ấy lãnh nhiệm vụ chi?- Cấp dưỡng.- Tức là ma ri sến cách mạng? Các ông nhặt ở xó xỉnh nào thế?Thằng này phản cách mạng ra mặt. Tôi không thể cầm chân nó. Thế là nó về Sài gòn cùng chuyến xe với Đào Xuân Sắc. Hai tuần sau, Đoàn Trọng Thu cũng rời chiến khu. Trước ngày chia tay, thi sĩ Hôi Nách dặn tôi “một câu sinh tử”:- Đừng bao giờ tuyên thệ trung thành với bất cứ Đảng nào, Giáo Hội nào. Chúng ta chỉ trung thành với Dân Tộc, Tổ Quốc. Tổ quốc và Dân tộc không bắt chúng tatuyên thệ. Nghệ sĩ khước từ bí danh.Đoàn Trọng Thu ra đi, “chiến khu” buồn bã vô kể. Đàn anh Luyện mất một thầy giáodạy riêng con mình, tôi mất một thầy giáo văn nghệ. Rồi thi sĩ Phó Mạo HảiPhương bỏ “chiến khu”. Cơ sở chỉ còn đàn anh Luyện, vợ đàn anh, mẹ già đàn anh,ba đứa con 7 tuổi trở xuống, nữ đồng chí Cô Khiết mà Lê Như Quỳnh gọi là ma risến cách mạng, Phạm Văn Sơn, Đồng Văn Khải và tôi. Chúng tôi sang giai đoạn sốngtự do. Gạo Mỹ viện trợ tha hồ ăn. Đàn anh không dạyChu tri lục, không dạy … laođộng nữa. Tôi ra suối câu cá hay đi sâu vào rừng kết bạn với nhóc tì Ra đê canhkhỉ phá nương ngô. Tôi có những sáng ngồi nhìn con voi già của vua Bảo Đại bịxích chân, bị cưa cụt ngà, mắt lờ đờ, đứng buồn bã, thỉnh thoảng, ngẩng đầu lênrống những tiếng “phè” não nuột. Tôi có những trưa nằm dưới gốc cam trong vườncam của vua Bảo Đại, ngắm nắng xuyên qua lá, ngắm những trái cam còn xanh, thấyngười di cư đuổi người Ra đê canh vườn, vào hái cam xanh đầy bao bố. Tôi cónhững chiều dựa lưng bên thành hồ bơi của vua Bảo Đại – cái hồ bơi tuyệt diệunằm giữa khúc suối cao và thấp, nước trên cao tràn đầy hồ chảy xuống thấp làmcho hồ bơi thay nước thường xuyên và thiên nhiên – nghe các nghệ sĩ Ra đê thổikèn bầu sáu ống cùng tiếng suối reo. Tự nhiên, trong tôi nổi dậy những gợn sóngu hoài. Tôi vừa hiểu thế nào là “lớp sóng phế hưng”. Nếu tôi có tài như Bà HuyệnThanh Quan và nếu tôi đã là một kẻ phò Nguyễn, tôi sẽ sáng tác bài thơ hoàiNguyễn qua hình ảnh con voi già, vườn cam tiến và cái hồ bơi.Chắc chắn, tôi phải rời “chiến khu”, phải giã từ Duy Dân chủ nghĩa. Chủ nghĩaấy, tôi mới chỉ hiểu mơ hồ, phiến diện. Nhưng tùy bút của Lý Đông A, thơ của LýĐông A và huyền thoại Lý Đông A đã hoàn toàn chinh phục tôi. Tôi không chống chủnghĩa Duy Dân, hôm qua và hôm nay. Tôi hãnh diện về chủ nghĩa Duy Dân vì chủnghĩa ấy do người Việt Nam sáng tạo. Nỗi bất hạnh của chúng ta là một chủ nghĩadân tộc thuần túy do người của chúng ta sáng tạo để cứu rỗi dân chúng ta đãkhông bao giờ được thực hiện trên đất nước chúng ta. Ròng rã một nghìn năm nộ lệTầu chuyển sang một trăm năm nô lệ Pháp, năm năm nô lệ Nhật, hai mươi năm lăm nôlệ Nga, nô lệ Mỹ, chúng ta chỉ biết vay mượn chủ nghĩa của ngoại bang để mưu cầutự do, dân chủ, hạnh phúc, thương yêu, đoàn tụ cho dân tộc chúng ta. Chúng tathất bại. Chúng ta não nề. Sự não nề thảm khốc là cái tinh thần bất khuất nằmbẹp dí nhường chỗ cho tinh thần vọng ngoại vươn cao. Chúng ta hết dám tin chúngta. Chúng ta gửi niềm tin vào người ngoài. Hết dám tin và không dám làm. Thảnhoặc, có người Việt Nam nào dám ngẩng mặt, dám tin mình, dám làm công việc phithường, nhất định, người Việt Nam ấy bị dè bỉu, bị coi thường, bị xếp vào loạiđiên, bị miệt thị học hành tới mức nào mà toan đội đá vá trời! Tôi tự hỏi KhổngTử học ai, đọc những sách của ai; Thích Ca học ai, đọc những sách của ai; Jesushọc ai, đọc những sách của ai? Từ mặc cảm nô lệ triền miên nẩy sinh một “truyềnthống” mạt rệp: Người Việt Nam chỉ thích suy tụng người chết dù người chết đểlại đời sống cái sự nghiệp, đôi khi, chẳng ra gì và rất sung sướng bêu nhụcngười sống dù người sống đang cống hiến cho đời sống những sợi giây máu của tàinăng siêu việt.Bây giờ, tôi có thể nói thêm rằng, tôi không chống bất cứ một chủ nghĩa nào. Chủnghĩa nào cũng tốt đẹp, cũng được sáng tạo bằng tim óc. Nhưng mà những kẻ thừasai đã biến chủ nghĩa tốt đẹp thành chủ nghĩa phi nhân bản. Khi Marx – Engelsviết chủ nghĩa cộng sản, chủ nghĩa này thật lý tưởng cho nhân loại thời đó. Nóđã lạc hậu hôm nay. Những kẻ thừa sai của Marx – Engels, từ Lénine, Staline,Malenkov … đã khạc nhổ xuống công trình của Marx – Engels. Giáo hội và Giáohoàng những thế kỷ trước đã làm buồn lòng Jesus. Trong bộ Lịch sử nhân loại,cuốn viết về Ấn Độ, Will Durand đã hết lời ngưỡng mộ Thích Ca và học thuyết củaNgài, đồng thời, sử gia lỗi lạc và uyên bác này cũng không quên nghiêm khắc chỉtrích những kẻ đời sau làm sai lạc ý của Phật. Những kẻ thừa sai ngu xuẩn, dốtnát, gàn dở đã biến học thuyết Duy Dân thành triết lý “bất chiến tự nhiênthành”. Và chủ nghĩa Duy Dân cũng đã lạc hậu như chủ nghĩa Tam Dân, chủ nghĩacộng sản và chủ nghĩa tư bản. Chủ nghĩa của thời đại, chủ nghĩa cứu rỗi nhânloại, bình đẳng cho các nước lớn nhỏ trên trái đất sẽ thay thế các thứ chủ nghĩalạc hậu chỉ là chủ nghĩa tiểu tư sản. Chủ nghĩa này được sáng tạo trên đất khổViệt Nam và do Người Việt Nam đau khổ sáng tạo. Trong cuốn Giờ thứ hai mươi lăm,hơn 40 năm trước, Georghiu đã tiên đoán: “Ánh sáng cứu rỗi nhân loại sẽ đến từphương Đông”. Ánh sáng ấy sẽ bừng lên từ Việt Nam, sắp bừng lên từ Việt Nam,phải bừng lên từ Việt Nam. Chớ hài hước hỏi ánh sáng nhiệm mầu ấy liệu có nhấpnháy từ Washington, Houston, Paris, Australia, San Jose, Los Angeles hay OrangeCounty!o O oCuối tháng 9-1955 tôi trở về Sài gòn sau khi đã hưởng những đêm mưa rừng tầm tã,đã chứng kiến những dòng suối ngầu đỏ chảy siết, đã thấy cuộc hành quân của mốitrên lá mục, hàng tỉ con, con nào con nấy to như con nhặng. Suy nghĩ mãi, tôikiếm nhà Đặng Xuân Côn tá túc. Bấy giờ, quân đội Pháp chưa bị thủ tướng Ngô ĐìnhDiệm đuổi về nước. Và khu vực Quân vụ thị trấn, Tòa tổng trấn Sài gòn còn làthành Ô Ma. Lính Phi châu đồn trú ở đây khá đông. Bờ tường dăng giây kẽm gai sátkhít con lạch nhỏ, lối thoát nước cống của thành phố ra ngoài là biên giới quânsự và dân sự. Nằm thấp ngang bờ con lạch và trũng sâu quá hai thước so với mặtđường Lê Văn Duyệt, xóm nhà Côn thuê dưới đó. Phải bước xuống con hẻm dốc thoaithoải mới vào xóm. Toàn nhà mái lá lè tè, vách ván gỗ mỏng. Dân chúng cư ngụ xómnày gồm các thành phần chính: viên chức chấm công của nhà nước, thợ thuyền, meTây, đĩ điếm, Tây lai, Chà và lai … Lê như Quỳnh gọi là Xóm Đượi. Tôi gọi làxóm Quốc Tế°°.Đặng Xuân Côn đã xuống Mỹ Tho, vô tận trại định cư Ba Bèo làm việc, sau đó, đượcđổi về trung ương, chuyển ngành thư ký đánh máy tại Phủ đặc ủy định cư cải danhtừ Phủ đặc ủy di cư rời trụ sở ở đại lộ Trần Hưng Đạo sang trụ sở ở đại lộ ThốngNhất. Lương chấm công không đủ thuê nhà khu khá giả nên Côn đành chọn xómQuốcTế. Tôi về sống chung. Côn vui lắm, nhưng nhìn cảnh sống nghèo nàn của bạn, tôirất ái ngại. Côn buồn bã vì dĩ vãng đuổi theo nó, không chịu buông tha nó. Tôibảo với nó rằng tôi chỉ tá túc một thời gian ngắn.Thời gian tôi ở xóm Quốc Tế, mưa đang hung hăng. Mỗi ngày một trận mưa lớn. Mỗiđêm một trận mưa to. Mưa đổ những cây nước xuống đời. Mái lá dột tứ tung. Gióhắt mưa qua kẽ vách ván hở. Con lạch – tôi lãng mạn hóa làGiòng sông xanh -mênh mông nước, lều bều rác rưởi, phân người và xác chuột. Nước mấp mé sàn nhà.Người ta phải xăn quần cao, vác xe đạp lội bộ trên các lối xóm.Xóm Quốc Tếkhông có điện. Ban đêm tối om. Nhà nhà thắp đèn dầu. Chủ cho mướn nhà toàn là meTây già. Những đêm không mưa, chuột lộng hành khủng khiếp. Chuột khiêu vũ trênnỗi cơ cầu của xóm Quốc Tế. Gần căn nhà ọp ẹp của tôi là cái cầu tiêu công cộngcủa một chục gia đình. Cầu tiêu không hầm thông phân tiểu, không cả thùng chứaphân tiểu. Nó như cái phòng tắm, sàn gỗ. Luật bất thành văn của những kẻ xử dụngcầu tiêu là phải mang giấy nhật trình cũ trải lên sàn, đại tiện xong, gói phânliệng xuống Giòng sông xanh. Thường xuyên là có mấy tay khu khác, chơi khuya về,ngang qua bị đau bụng, vô cầu tiêu đại tiện … đại. Sáng sau,xóm Quốc Tế oangoang bản hợp ca chửi rủa hàng giờ. Chửi đã miệng, người ta hè nhau múc nước xốirửa. Chưa đủ rực rỡ xóm Quốc Tế đâu. Đêm đêm, đĩ điếm kéo lên đường đón lính Ma-rốc, Xê-nê-gan, Tuy-ni-di, bị kiểm tục ruồng bố, chạy xuống xóm ẩn trốn. Línhkiểm tục truy lùng. Xóm Quốc Tế thức giấc hết. Và gia đình nào cũng bị kiểmsoát. Vô phúc các em con nhà lành bị bắt chung với điếm nhà nghê, kêu oan vàkhóc rống. Xóm Quốc Tế rụng rời. Xóm Quốc Tế phẫn nộ. Lâu lâu, có anh lính lêdương vô xóm chơi quỵt rồi bỏ chạy. Em điếm la lối đuổi theo, bị khách làng chơiôm liệng xuống Giòng sông xanh, kêu cứu vang cả xóm. Tôi không sống mùa khô ởxóm Quốc Tế nên không biết thảm cảnh mùa khô.Ở xóm Quốc Tế, tôi có nhiều suy nghĩ. Trước hết, tôi nhớ bài hát Sài gòn xa hoacủa Trần Văn Nhơn:… Đầu đường đó đây những hàng quánkhông ngớt người khách ra vào uống ănTrong những ngày vui sốngkhi lòng man mác buồnlà có ngay tắc xi vào chơi Chợ lớnMặc ai ai vì non sông kiến thiết nước nhàru bao tâm hồm càng thêm say đắmSài gòn, nơi tưng bừng trong cảnh sống xa hoaÁnh sáng gây mờ mắt …Trần Văn Nhơn thống trách Sài gòn xa hòa từ năm 1950. Ánh sáng gây mờ mắt nhưngbóng tối không làm lay động lương tri những ai “tưng bừng trong cảnh sống xahoa”. Tôi biết phẫn nộ đời sống từ xómQuốc Tế. Tôi biết khinh bỉ những tên trọcphú từ xóm Quốc Tế. Tôi đã tận mắt nhìn nỗi oan ức của các cô gái con nhà lươngthiện bị nghi làm điếm, bị bắt chung với điếm chỉ vì gia đình nghèo khổ phảithuê nhà ở xóm Quốc Tế. Tôi không biết ở Sở kiểm tục các cô ra sao, về nhà cáccô ra sao và sau này các cô ra sao. Tôi đã nổi giận bất công xã hội và sự ngudốt của quyền hành. Sài gòn có bao nhiêu nơi tương tựxóm Quốc Tế? Việt nam cóbao nhiêu nơi tương tự xóm Quốc Tế? Bỗng nhiên, tôi thèm cách mạng, khao khátcách mạng. Nhưng, cách mạng tôi thèm không phải là cách mạng nghiên cứu, học tậpchủ nghĩa đến hóa thành dở hơi. Mà phải là cách mạng tích cực san bằng lập tứcmọi bất công xã hội, giải quyết lập tức sự nghèo khổ của dân chúng lao động chântay và trí óc. Phải làm cho lối tối bừng sáng. Tôi bắt đầu nổi loạn.Xóm Quốc Tế có một chuyện rất người mà tôi không quên. Đó là chuyện cô gái điếmnhan sắc mê cậu học trò nghèo ít tuổi hơn mình. Cô yêu cậu học trò muốn làm vợcậu học trò. Cậu học trò khước từ. Cô gái điếm năn nỉ xin làm chị đỡ đầu cậu họctrò. Cậu học trò bằng lòng. Cô gái điếm hoàn lương, buôn thúng bán bưng nuôi cậuhọc trò ăn học, nuôi cả mẹ và em cậu học trò. Còn chuyện nữa, cũng rất người.Một thằng du đãng cướp của giết người bị cảnh sát truy nã. Nó lẻn vềxóm Quốc Tếđưa tiền cho em điếm giữ giùm, dặn đưa bố nó vào nhà thương lao và mua thuốcchữa bệnh cho bố nó. Rồi tay không tìm cảnh sát nạp mạng. Những cánh sen chỉ nởgiữa đầm bùn. Tôi đã hiểu đôi chút về trái tim trong lớp áo rách. Tôi đã ngửiđược mùi thơm của đời sống lầm than. Cám ơn thời gian ngắn ởxóm Quốc Tế đã soisáng cho tôi cái ý nghĩa tủi nhục ê chề của kẻ bị trị để, sau này, tôi biếtchống bọn thống trị, tôi dám chống bọn thống trị.Giữa tháng 11-1955, tôi bỏ xóm Quốc Tế, định về Trảng Lớn ở Tây Ninh sống với mẹcon Hoàng Văn Bảo. Tôi mới gặp lại Bảo. Nó cho biết nó làm việc tại Ty định cư,Tòa tỉnh trưởng Tây Ninh. Nhà nó cách thị xã vài cây số. Nó tha thiết mời tôi vềTrảng Lớn. Bất ngờ, trên đường đi tới bến xe đò miền Đông, tôi gặp đàn anh TrầnTiến. Đàn anh mời tôi ăn cơm tấm giò chả Quốc Hương đường Trần Hưng Đạo. Đàn anhđã dạy lại ở trường Phan Sào Nam, đường Trần Quý Cáp. Sau bữa cơm no căng rốn,đàn anh gọi tắc xi đưa tôi về xóm Bầu Sen. Tôi ngạc nhiên, thấy ở “cơ sở” mớinày hai “đồng chí” cũ là Đoàn Trọng Thu và Đồng Văn Khải. Thêm “đồng chí” mớiPhùng Văn Chiểu. Đàn anh Trần Tiến nói:- Chú ở đây.Rồi đàn anh chào tạm biệt. Đoàn Trọng Thu cho tôi biết:- “Cơ sở” này là “cơ sở” Sài gòn. Chúng ta cứ nằm chơi thôi.Đưa nhau ra cái nghĩa địa nhỏ trước nhà, chúng tôi tâm sự vụn.- Cách nào đàn anh vồ được ông?- Tôi định đi Tây Ninh kiếm sống, may mắn gặp đàn anh. Còn ông?- Tôi đang lởn vởn trong hiệu sách Khai Trí, gặp đàn anh.- Còn Khải?- Ông ấy được gọi từ Ban mê thuột về.- Ông có ý nghĩ gì?- Sài gòn vui hơn Ban mê thuột và chắc vui hơn Tây Ninh. Cách mạng lo chỗ ăn,chỗ ngủ rồi chỗ làm nữa. Để cách mạng lo.- Ông sáng suốt thật.- Tuyên thệ chưa?- Chưa và không bao giờ.- Nếu có bao giờ, ông sẽ đội chữ Thái trên đầu: Nhà Phật đội chữ Thích, nhà DuyDân đội chữ Thái. Phật tổ là Thích Ca. Chúng đệ tử là Thích Tâm Châu, Thích GiácĐức, Thích Trí Thủ … Lãnh tụ là Thái Dịch. Chúng đệ tử là Thái Hạo, Thái LăngNghiêm, Thái Anh … Ông Thái gì đây?- Ông trước đi!- Tôi Thái Thượng Hoàng.- Còn tôi, tôi Thái Tổ.- Ông khó làm cách mạng, khó làm lớn, vì ông ưa diễu cợt. Đúng, chẳng có con mẹgì đáng quan trọng cả. Ông và tôi đi làm cách mạng đã là diễu cợt rồi. Cách mạngmù chăng?Chúng tôi ăn cơm ở nhà ông Tầu già và ngủ trên căn gác gỗ mái tôn của bà bánsương xâm. Chồng bà sương xâm chạy xích lô máy, hai vợ chồng đi làm, đi bán thậtsớm. Chúng tôi trông nhà giùm, thay phiên nhau dạy con cái ông bà nên ông bà takhông lấy tiền nhà. Còn được ăn sương xâm đường cát điểm tâm đến phát ngán.Xóm Bầu Sen cũng là xóm lao động, bớt thê thảm hơnxóm Quốc Tế, có ba ngả ravào: Nguyễn Hoàng, Thành Thái, Trần Bình Trọng. Chỉ có Khải, Thu và tôi thườngtrực ở “cơ sở” Bầu Sen. Phùng Văn Chiểu, thỉnh thoảng mới ghé. Chiểu có việc làmvà có cái Lambretta cũ. Chiểu vui tính, cởi mở. Nhà chiến sĩ Duy Dân này, mỗilần đến, đều ôm cây guitare búng bài Tango tủ:Impossible. Impossible cái gì?Impossible chống một lượt Nga, Mỹ, Pháp, Tầu và Vatican chăng? Ở Bầu Sen đượcnửa tháng, đàn anh cử riêng tôi đi học khóa chống cộng 10 ngày do Bộ thông tintổ chức. Mỗi ngày học chống cộng được phát 50 đồng Ngân hàng quốc gia. Giảngviên khóa chống cộng là các ông Định Sinh Pài (Vụ trưởng Văn hóa vụ Bộ thôngtin), Trần Việt Hoài, thi sĩ (con trai Á Nam Trần Tuấn Khải), Lê Vinh, em TrầnViệt Hoài (đồng chí Duy Dân của tôi), Trần Học … Cứ theo tờ rô nê ô chương trìnhthì ông Trần Học đại diện Bộ thông tin điều hành khóa học. Ông Trần Học to thật.Vụ trưởng Đinh Sinh Pài đến đọc bài diễn văn khai mạc khóa chống cộng QuyếtThắng. Rồi về. Chúng tôi học tại Phú Thọ.Bài học chống cộng đầu tiên là “Ý nghĩa về nước chấp chính của Ngô thủ tướng”.Xướng ngôn viên giới thiệu giảng viên Trần Học. Lý thuyết gia chống cộng từngoài hành lang bước vào. Ngài mặc “com lê”, thắt “cà vạt”. Ve áo đeo cái cờvàng ba sọc đỏ. Ngài lên bục giảng. Mẹ ơi, Trần Học chỉ là Trần Văn Thông, thằngcán bộ thông tin, đệ tử ông Quốc Phong, bạn Hà nội của tôi, từng thuê tôi làmthơ chống cộng ăn cơm ghi sổ. Nó nhìn thấy tôi. Nó khớp. Nó ngó tôi, mỉm cười.Vì nó có quyền, nó xin lỗi toàn thể học viên cho nó ngưng giây lát rồi ngoắc taygọi tôi ra thật xa khỏi lớp học.- Mày ngôi như mả ông tiên sư, tao làm ăn gì được, hả?- Ông đâu biết mày trở thành lý thuyết gia chống cộng!- Tao được cất nhắc, lên vun vút. Nhờ thơ mua rẻ của ông.Nó móc ví xỉa cho tôi hai trăm:- Cút mẹ mày đi cho ông dạy chống cộng!Tôi nói:- Khóa học 10 ngày, 5 bò lận.Lý thuyết gia Trần Văn Thông, biệt danh chống cộng Trần Học dậm chân, nhăn nhó:- Mày cút đi chơi, ông giảng bài xong sẽ về gặp mày.Ông cho mày ký tên vào tờ giấy xác nhận mày học đủ 10 ngày, cụ Ngô sẽ trả mày đủ5 bò. Mày sẽ có bằng chống cộng. Từ chiều nay, ông không muốn nhìn mặt mày nữa.Cứ nằm nhà. Ngày mãn khóa nhớ đến liên hoan đớp hít, lĩnh tiền và bằng cấp.- Thế thôi à?- Muốn gì nữa?- Tao muốn học chống cộng!Lý thuyết gia chống cộng Trần Học xỉa thêm hai trăm nữa.- Cấm mày tiết lộ vụ bán thơ.Tôi phú lỉnh ngay. Cuộc đời xử ức tôi, dồn tôi vào con đường trào lộng. Tôi đihọc chống cộng sản nghiêm túc, ai dè gặp ông thầy Trần Văn Thông. Từ cái màn đihọc chống cộng bị cấm không cho học, tôi bắt đầu ngờ vực mọi sự nghiêm túc trêntrái đất. Và các thứ lý thuyết gia chống cộng, dưới mắt và trong ý nghĩ của tôirặt bọn Trần Văn Thông, tức Trần Học. Tôi bèn cười. Rồi tôi châm biếm. Và tôiđộc ác trong loại văn phúng thế của tôi.Làm đúng “chỉ thị” của giảng viên Trần Học, ngày mãn khóa học chống cộng tôi lòdò tới. Người ta cho tôi ký sổ lĩnh 500 đồng. Người ta phát cho tôi tấm bằng tốtnghiệp chống cộng, dẫu tôi chẳng học giờ nào. Tôi được ăn bữa cơm mãn khóa donhà hàng Tầu nấu nướng, phục dịch. Tiết mục liên hoan văn nghệ khoái nhất. Thisĩ Trần Việt Hoài dẫn hai em thật mướt tới hát giúp vui. Hai em không phải casĩ. May mắn … chống cộng đến với tôi là thằng đệm đàn guitare tới trễ quá. Thisĩ Trần Việt Hoài ngâm hết sáu bài thơ rồi mà thằng đệm đàn vẫn chưa tới. Nhàthi sĩ cuống quýt hỏi:- Có bạn nào chơi đàn khá không?Tôi đang sợ “có bạn nào” nhanh tay dơ vội thì lý thuyết gia chống cộng đã maumiệng giới thiệu:- Anh Long.Tôi lừ đừ lên sân khấu, ôm đàn guitare, đứng cạnh em mướt nhất, đệm cho hai em“đuy ô” Về miền Nam của Trọng Khương,Hướng về miền Bắc của Phó Quốc Thăng. Cácem được hoan hô nhiệt liệt. Đến bài Những nẻo đường Việt Nam của Thanh Bình, tôicao hứng nhìn em mướt nhất mà tình tứ: “Yêu là yêu là yêu không bờ bến rồi …”.Tôi cảm câu: “Yêu là yêu là yêu những nẻo đường ơi!”. Cám ơn ông Thanh Bình emvợ ông nhạc sĩ Trịnh Hưng, tác giả những ca khúcVùng tự do, Những nẻo đườngViệt Nam, Lá thư về Bắc, Sớm mai về đâuvà tác giả tiểu thuyết Mình còn trẻ lắm,xuất bản tại Sài gòn. Nhờ lời ca của ông, tôi đã quen em và được em mời tới thămem …