ước ra khỏi vạt sắn, Bê nghe gió sông từ mặt nước thốc lên, ấm hơn gió đồng. Rặng dừa choãi những chân vạm vỡ, vươn đầu đến các chòm sao lạnh. Cái áo trắng của Sâm thôi lắc lư, tách ra một mảng trắng vẫy vẫy, Sâm đang khoát tay ra hiệu dừng. Bê đặt gánh xuống. Sâm lùi lại, thì thào: - Xuồng máy đi tuần. Biệt kích quận sợ mình phá cầu. Tiếng rì rì đến gần. Một chiếc xuồng máy chạy lẫn trong bóng nước đen óng ánh, Bê chỉ thấy một luồng bọt trắng vọt ra phía mũi, một luồng nhỏ hơn bập bềnh sau đuôi. Một chiếc nữa. Đột ngột, ba bốn cái đèn pin - loại đèn dài, lắp sáu viên pin - cùng quét loang loáng lên bực sông. Hai chiếc xuồng chạy thẳng về phía cầu sông Nhỡn. Bọn dân vệ gác ở đấy chớp đèn ba lần làm hiệu. Bê xốc gánh lên vai: - Ta xuống, cô Út. - Khoan. Em hoa mắt, thấy đen thu - Tại cô nhìn đèn. Lần sau phải nheo mắt lại, không tụi nó thấy đốm, lộ ngay. - Đốm là cái gì? Bê bày cho Sâm tránh đèn pha, đèn dù bằng cách che mắt và giấu hình. Sâm hỏi vặn: - Đốm mắt người ta giống đốm con gì? - Chà, tôi chưa để ý... Chắc màu xanh như đốm nai. Đốm cọp đỏ, cách xa nhau, hay chớp, - Trật rồi anh ơi. Đốm tụi mình giống cọp, đốm tụi nó giống chó, phải chưa? Đi hè, em thấy đường rồi. Sâm cười nốt một tí nữa, rồi quẩy gánh đất xuống bờ sông, nơi có một đống đất to mới lở từ trên bực cao xuống. Đất đào hầm bí mật đem trút vào đấy rất tiện. Bao nhiêu lần đào hầm, Bê chỉ lúng túng vì không tìm ra nơi đổ đất, nhất là trong mùa mưa không ai đào mương đắp đập gì để Bê đổ ghé đất của mình vào. Chính Sâm đã để ý chỗ lở ấy khi cấy trả công về. Hầm cũ của má Bảy sụt đổ, má lấp đã lâu. Má bàn với Bê đào hầm mới giữa hai bụi gai mây trồng làm rào vườn. Chỗ ấy rất tốt nhưng hơi gần chuồng trâu của chị Đa. Má đắn đo một lát, bảo Bê cứ đào, chị Đa có thấy cũng không báo với địch đâu. Má tin chị không bao giờ muốn hại má. Hắt vội hai gánh đất, Sâm và Bê leo lên dốc thật nhanh tránh xuồng địch. Sâm bỗng bật cười, hỏi nhỏ: - Sao các ảnh kêu anh là Bê dù? Trước anh đi lính nhảy dù à - Họ giỡn tầm bậy, cô đừng nghe. Nếu là ban ngày, chắc Sâm đã thấy đôi tai to của Bê bắt đầu đỏ. Cái dạo mới lên căn cứ, Bê không quen đi núi cứ trượt luôn, nhưng nhờ mấy thế võ ta của cha bày nên thường gượng được, không ngã đến đất. Nhân lúc vui miệng, anh em xúm vào tán. Rằng đôi tai của Bê cản gió, Bê ngã từ từ nên kịp chống đỡ. Rằng những hôm gió to, Bê đi chậm lại rõ ràng. Rằng Bê sẽ là chiến sĩ nhảy dù đầu tiên của Mặt trận. Cái tên Bê dù có từ đấy. Anh em đùa ác thế nào lại đến tai Sâm. - Hay tại anh hay choàng dù ngụy trang? - Ờ ờ, có vậy Bê thoát nạn. Thật tình Bê gờm cô gái tinh quái này. Chị và em gái Bê đều hiền như khoai lang nên Bê chỉ ưa những cô kín đáo. Bởi rụt rè "nhát gái", Bê chưa thân với cô nào cả. Đến nhà má Bảy, Bê chỉ chuyên nói chuyện với má và Sỏi, vì thế càng hay bị Sâm trêu. Đến hầm, Bê cúi đầu dòm xuống: - Sỏi ơi, để mình đào thay. Tư Sỏi ngẩng mặt. Bê chỉ thấy hai con mắt long lanh và một mảng bùn bết trên tóc Sỏi. Sỏi co bắp tay lên gạt tóc: - Tôi đào luôn. Bùn đất lấm lem hết. - Mình đào quen mà. - Áo quần anh khác cỡ tôi, giặt phơi dễ lộ. Anh cứ gánh đất. Đào suốt bốn tiếng đồng hồ mà Sỏi không chịu nghỉ. Tính Sỏi hễ bắt tay làm gì là làm không kể sống chết. Chỉ trong vài ngày, Sỏi đã kéo được tám người trong trung đội dân vệ, giao cho họ xâu chuỗi thêm. Sỏi chỉ muốn một điều: đã quyết khởi nghĩa thì khởi cho nhanh, cho mạnh, cưa đứt đục suốt! Dõng gặp Sỏi tối qua. Hai anh em rất khoái nhau. Nhưng nghe bảo đào hầm, Sỏi cãi ngay: - Bây giờ mà cán bộ còn trốn tránh à? Lại thì thào thậm thụt như trước à? Sao không nhào tới thằng giặc, "oánh" thí xác? Dõng nói lâu lắm Sỏi mới thông. Thông rồi, Sỏi đứng dậy vớ cuốc thuổng ngay. Dõng phải níu lại bàn thêm việc bắt ác ôn. Sau đó anh dặn Bê: - Cậu lái cho vững, thằng Sỏi làm được nhiều việc động trời đó. Nó gan mà nóng như Lý Quỳ. Phải như mấy năm trước mình không dám giao công tác cho nó đâu, lộ thấy cha. Bây giờ sắp khởi rồi, cái táo bạo liều lĩnh của nó lại rất cần. Thiếu thanh niên đừng hòng khởi! Trong đội công tác, Bê được giao một mình chuẩn bị đồng khởi tại Kỳ Bường, nắm chi bộ bí mật mới được thành lập. Xã "trọng điểm tố cộng" này có bốn ngàn dân, có chợ, ga, bến sông, hai đường ôtô. Địch rất dày, đủ tầng, đủ lớp: thôn có "thanh niên diệt cộng", xã có dân vệ, quận có biệt kích, tỉnh có bảo an, trung ương có quân chính qui đóng gần. Bê không phải dân trong xã, lạ người lạ đấ, Bê nhận nhiệm vụ mà rởn tóc gáy, sợ hỏng việc. Bê vẫn có thói quen lãnh nhiệm vụ nặng hơn sức mình một chút để buộc mình vươn lên, khi cõng gạo cũng như gánh phong trào một xã. Trong buổi họp đầu của chi bộ, các đồng chí đều thấy anh bí thư mới sao trẻ quá, e chỉ làm được vai trò liên lạc giữa chi bộ với huyện ủy. Cái ý nghĩ ấy biến đi khá nhanh. Bê mới 23 tuổi nhưng công tác đã sáu năm ở Đà Nẵng, thoát ly ba năm. Chị Năm Tân phó bí thư là người đầu tiên phục Bê giỏi. Khác với một số cán bộ trẻ chỉ đủ sức lo từng việc, Bê có cách nhìn rộng, đều các mặt, và khá sâu. Bên cạnh cái vốn kinh nghiệm riêng, ở Bê còn có ảnh hưởng của cha, của nghề thợ nguội, và nhiều nhất của anh Chín Chuyền. Cộng vào đó là cái dũng cảm tỉnh táo của người thanh niên mang thù sâu với giặc, luôn luôn nghĩ cách tiến công. Bê đã chinh phục được lòng tin của các đồng chí lâu năm trong Đảng, một điều thật không dễ. Họ không đòi gặp anh Dõng hay đợi thư anh Dõng rồi mới làm, như thường xảy ra ở vài chi bộ khác. Qua được bước đầu tiên, Bê lại vấp khó khăn mới. Một số cơ sở Mặt trận chưa tin đồng khởi sẽ chắc ăn. Uất ức đấy, muốn vùng lên đấy, nhưng sau đó có giữ nổi chính quyền không, hay lại chết chùm với nhau? Làm cách mạng đâu phải là thí mạng! Bị địch vùi dập đến mệt lử rồi, họ đâm ngại những hành động táo bạo, ngại tuyên truyền lớp trẻ, ngại họp nhau lại thành tổ chức to. Họ muốn giữ lòng trung thành với dân với nước như hòn than hồng phủ dưới tro. "Hễ bung là bể", họ nghĩ vậy. Trái lại, số đông thanh niên mới gặp Cách mạng lần đầu cứ ầm ầm đòi khởi ngay, nổ lập tức, đánh tuốt mí một keo tới đâu thì tới. Ai còn tần ngần, họ đòi đưa ra khỏi Mặt trận: "Các ông bà đó là bô lão, kẹp dù, kinh cung c điểu, cách miệng chớ cách mạng gì! Cho về hưu thôi!". Bê với chị Năm phải khuyên nhủ thật khéo và thật gấp cho kịp cái hạn đồng khởi tính bằng ngày chứ không phải bằng tháng. Đến đây, Bê chịu tài chị Năm. Chị đi lại dễ dàng, gặp cơ sở hàng ngày. Những người còn đắn đo rất tin chị, bởi xưa nay chị đã cùng họ nếm đủ mùi cay cực, và sau này chị vẫn cùng hai con bám chắc đất Kỳ Bường chứ không thể vác ba lô về núi nếu khởi nghĩa không thành. Chị có tính mạng ba mẹ con để bảo đảm cho lời nói của chị. Rất nhẹ nhàng, chị thổi bùng lên ngọn lửa đốt rừng từ đốm đỏ của những nén hương nhớ tiếc tuyệt vọng, và chị cũng phải che bớt ánh lửa của các lò bốc quá sớm. Chủ trương đồng khởi thấm vào chi bộ và cơ sở Kỳ Bường, cũng gây náo động thầm lặng trong gia đình má Bảy. Má nghĩ nhiều, rất nhiều. Sỏi hăng và nóng vội. Còn Út Sâm cứ cười đủ bốn đồng tiền chấm phẩy: "Nói nhiều em chẳng nhớ đâu. Các anh chị biểu gì em làm nấy, nhứt định làm được". Ba má con cùng đi vào đồng khởi theo kiểu của mình.