- 8 -

Dịch giả: Khanh Khanh
- 8 -

    
ôi đi sang hướng Bronx, bởi đám bạn Punker của Cherry Rubino khi được hỏi cung đã đưa địa chỉ là khu vực quanh cầu William. Một khu phố tương đối yên tĩnh, xuống cấp có chừng mực, ít nhất là so sánh với những căn nhà đổ nát ở khu phía Nam. Những băng đảng phố phường với những chiếc xe đổ lửa chỉ thỉnh thoáng mới kéo từ lãnh địa của mình lên đây, thường chỉ để đuổi đánh đám dân Punker, nhóm thanh niên trở thành một cái gai trong mắt bọn này chỉ bởi một cái tội ăn mặc khác, bôi màu sắc khác. Vì đã hỏi thăm trước trong trạm cảnh sát khu vực, nên tôi biết mang máng mình cần phải tìm ở đoạn nào và để chiếc xe Jaguar đỗ ở gần con đường dẫn ra New England Thruway.
Từ đại lộ Boller cho tới dòng sông Hutchinson là cả một khu vực công nghiệp điêu tàn, chỉ còn lại một vài xí nghiệp nho nhỏ đang bên bờ vực phá sản. Các cảnh sát viên nói trước là đám dân Punker của vùng này thường thích tụ tập ở một vài ngôi nhà nhỏ bên bờ sông, trong khuôn viên  của một xưởng đóng tàu bỏ hoang. Rất có thể những chiếc xà lan bị hỏng vẫn còn nằm ở đó là một cơ hội tốt để trốn tránh những băng đảng Rocker đi xe máy phân khối lớn.
Tôi đội mũ trùm của áo Parka lên đầu, đi dưới làn mưa bụi về hướng dòng sông. Trong lòng tôi không có mấy hy vọng. Toàn khu vắng lặng như cảnh chết, như thể đến cả bọn chuột cống cũng ở lỳ trong hang, ngại chui ra ngoài trong cái tiết trời vừa lạnh vừa ẩm như hôm nay. Trên dòng sông có vài con vịt cô đơn đang từ từ bơi trong khoảng nước đục ngầu nằm giữa chân của một đoạn cầu đã hỏng. Khuôn viên của xưởng đóng tàu cũ được bao quanh bằng một hàng rào đóng bằng gỗ ván, đúng hơn nó không còn là hàng rào nữa, mà chỉ còn lại những phần đổ nát gợi nhắc đến hàng rào. Tôi dễ dàng tìm thấy một chỗ hở. Có lẽ ở đây đơn giản là chẳng còn thứ gì đáng để đánh cắp nữa.
Hai mắt tôi lướt dọc cầu cảng, những ngôi nhà và những xưởng thợ đổ nát, vài ba ụ nổi nho nhỏ, vài ba cần trục đã hết thời gian sử dung, và không biết bao nhiêu là rác thải. Một vài xác con tàu đã bị vỡ tanh banh nhắc cho tôi nhớ tới nghĩa địa tàu thủy trong “Vịnh Ma”. Tôi chần chừ vài giây đồng hồ. Rồi tôi xoay người sang phải, nép vào bóng tối của một chân cần cầu bằng thép, có lẽ ngày xưa đã là một thành phần trong một hệ thống cần trục, tôi đi về hướng ngôi nhà một tầng duy nhất còn có thể tạm dùng làm nơi ăn ở.
Những khuôn giấy bóng kính màu trắng đục được đóng đinh bên cửa sổ và một vài mảnh ván sơn màu sáng cho biết đã có người bỏ công ra sửa chữa qua loa chỗ này. Phía đằng sau ngôi nhà cũ thò lên một đoạn ống lò sưởi đâm ra từ một lỗ được cưa vào bức tường bằng gỗ. Một làn khói mỏng mảnh tan ra thành từng sợi nhỏ trong bầu không khí lạnh ẩm bên ngoài. Dù người ngồi trong nhà có là ai, rõ là anh ta đang muốn nghỉ ngơi êm ấm.
Bám sát vào tường, tôi dịch chuyển ngang,, đến gần khuôn cửa sổ gần nhất.
Mảng giấy nhựa được đóng đinh bên ngoài có một lỗ hở. Thật thận trọng, tôi trèo lên một trong những cái thùng đựng nhựa đường rỗng dựng quanh đó, rướn cao cổ lên, tìm cách nhìn vào phía bên trong của ngôi nhà cũ kỹ.
Tôi không nhìn thấy nhiều. Nhưng một “cái lược” khổng lồ bốn màu làm bằng tóc, những lọn tóc màu đỏ chói và hai mảng đầu màu xanh lét đang hiện ra tương đối rõ ràng. Còn thiếu Cherry Rubino. Nếu như tôi không lầm thì bốn đứa đồng đảng của cô nàng đang ngồi buồn rầu trên những cái thùng gỗ lật ngược. Sau một vài giây đồng hồ, tôi nghe thấy một giọng trẻ em cao vói lên của một đứa con gái.
Em đã nói rồi, lẽ ra bọn mình không được để nó một mình.
Vớ vẩn, - một trong hai đứa con trai tóc xanh lẩm bẩm. – Bản thân nó phải biết nó làm gì chứ. Khốn nạn, anh không muốn bị bỏng tay lần nữa.
Có phải bọn trẻ con đang nói về Cherry?
Và quỷ quái thật, đứa con gái để tóc hình lông nhím màu xanh đó đang định làm gì, một thứ mà những đứa khác không muốn làm theo, bởi chúng sợ bị bỏng tay?
Tôi nghiến chặt răng. Cân nhắc, liệu có nên gõ vào cửa ra vào đằng trướcegrave;o xèo và rút ra một lá rau xà lách trông vẫn còn khá tươi. Thật cẩn thận như mọi khi, anh ta đưa mắt nhìn trước nhìn sau rồi mới ra vẻ bí mật cúi người về phía trước.
Phố số 43, - anh ta thì thào. – Đường hầm Roquette Palace.
Roquette Palace là một tổ hợp năm rạp phim kề nhau và một đường hầm dài treo những tủ kính dán các tờ quảng cáo, có ưu điểm là được sưởi nóng. Dân lang thang vào đây trú lạnh thường bị người lính gác ném ra ngoài. Nhưng Speedy một mắt là một tay lang thang đặc biệt và rất cố gắng giữ gìn diện mạo. Mỗi ngày anh ta không chỉ ăn một chiếc bánh Hamburger của Joe Crock cùng toàn bộ những đống rau xà lách còn sót lại của buổi sáng, mà mỗi năm hai lần, anh ta còn góp nhặt vài dollar để mua quần áo, mặc dù ở cửa hàng bán đồ cũ, nhưng còn trông tàm tạm được. Thêm vào đó Speedy còn có thói quen giữ gìn dao cạo râu của mình như một tài sản vô giá và sử dụng thường xuyên nên giữ được vẻ khá sạch sẽ nơi bộ mặt.
Phil cảm ơn, ném một đống tiền xu lên trên chiếc đĩa bằng thủy tinh rồi đi về hướng phố 43.
Cơn mưa bên ngoài khiến cho nhiều người quan tâm đến những bảng quảng cáo trong đường hầm Roquette Palace hơn mọi ngày. Người lính gác đang hầm hừ đứng chống nạnh ở đầu phía tây của đường hầm trước một gã nghiện má hõm, quần jean rách rưới và áo Parka bẩn ghê hồn. Speedy một mắt đứng bên cạnh một khuôn cửa kính và quan sát với con mắt còn nguyên vẹn của mình những hoạt động của một gã trai mặc bộ đồ chiến đấu, đang dùng một khẩu Tommy-Gun mà có lẽ nó đã đưa rất nhiều loại người khác nhau từ miền sống về cõi chết. Phil bước đến gần nguồn thông tin của anh, gõ nhẹ nhẹ lên vai và giơ ngay đến trước mặt Speedy một mắt một cái bánh Sandwich thịt gà mà anh mang từ chỗ “Joe Em Bé”.
Con mắt duy nhất của Speedy sáng lên. Người đàn ông này quả thật tin một cách nghiêm trang rằng, anh ta đang sống rất tử tế và rất quý trọng giữ gìn sức khỏe, nếu cứ mỗi ngày lại nhớ ăn một chút bên cạnh chai rượu. Có khi quan niệm đó cũng đúng, ít nhất là so sánh với những anh bạn của Speedy, những người hoàn toàn chỉ biết đến những món ăn lỏng.
A, ông đặc nhiệm, - anh ta vừa chào vừa giơ tay tháo tấm giấy bọc bánh Sandwich. – Có chuyện gì thế?
Arturo Pezzoli, - Phil nói ngắn.
Nguồn thông tin nhăn trán.
Hừm. Nghe sao quen quen. Nhưng sao tôi không nhớ ra ngay.
Phil thò tay vào túi áo. Con mắt của Speedy lóe lên vẻ thèm thuồng. Thế nhưng anh chàng thất vọng thở dài khi thấy thay cho tiền, Phhil rút ra một tấm ảnh và giơ nó đến sát con mắt còn lại của Speedy.
A ra gã này! – nguồn thông tin lẩm bẩm. – Dĩ nhiên rồi, tôi quen gã. Người ta gọi là Artie gà mái. Không biết tại sao. Rất có thể vì bọn đàn bà khẳng định rằng anh ta không phải là một con gà trống nghiêm chỉnh.
Speedy cười khúc khích. Phil lại đút tấm ảnh vào trong túi.
Thế tôi tìm ở đâu ra con gà mái đó? – Anh hỏi.
Hừm, hừm. Chà, cái này thì…
Lần này thì bàn tay chàng đặc nhiệm quả thật rút từ túi ra một tờ tiền. Những ngón tay nhanh lẹ của Speedy thoắt rút chiến lợi phẩm rồi bỏ nó vào trong một chiếc túi của làn áo bành tô không còn mới, nhưng trông chưa đến nỗi tệ.
Cha, “Artie gà mái”, - anh ta nhắc lại. – Trước đây gã là nhân vật khá nổi tiếng đấy. Từ một vài năm nay, hình như gã có vẻ im lặng hơn. Gã đã tán tỉnh, cưa cẩm được cả một bar rượu riêng cho mình, một bar rất sang trọng. Nhưng dường như bây giờ gã chỉ còn là giám đốc điều hành thôi, bởi có kẻ khác đã tóm lấy cái bar đó.
Nguồn thông tin chần chừ, thế rồi hình như bản thân anh ta cũng nhận ra rằng những tin tức mà anh ta vừa đưa ra chưa phải thuộc loại bí mật rung chuyển thế giới, xứng đáng với một món tiền thưởng như thế.
Bar rượu “Cơn ác mộng” ở phố số 13, khu Đông, - cuối cùng anh ta phun ra. – Nếu mà tôi phải đưa ông tới đó, ông đặc nhiệm…”
Cảm ơn, tôi sẽ tự tìm được đường đi.
Nhưng tôi không nói năng gì cả đấy nhé, ông đặc nhiệm, rõ chưa?
Không hề nói một từ nào hết. Chào nhé, Speedy.
Họ gật đầu nhẹ với nhau. Speedy một mắt lại chìm đắm vào chuyện ngắm nghía khuôn cửa quảng cáo, miệng và tay từ từ nhấm nháp chiếc bánh Sandwich. Phil cân nhắc, hình như anh đã nghe thấy cái tên “Cơn ác mộng” này từ đâu rồi, nhưng hiện thời anh chưa nhớ ra.