- 8 -

Dịch giả: Khanh Khanh
- 4 -

    
enna Beck tỉnh dậy trong một nhà giam chật hẹp, rung lắc, thứ mà vất vả một lúc cô mới nhận ra đó là khoang chứa đồ của chiếc ô tô đang chạy.
Chính xác là xe của cô, một lát sau cô hiểu ra như vậy. Tiếng gầm gừ quen thuộc của động cơ xe cho cô biết điều đó, và những công cụ nằm rải rác xung quanh đang đập vào đôi bàn chân bị trói, chiếc chăn len mà cô cảm nhận thấy bên dưới da thịt mình còn phảng phất một thoáng của mùi nước hoa cô đã dùng thuở trước. Chúng nó có hai thằng, cô nhớ ra. Vậy là một đứa có thể lái chiếc xe đã đưa chúng lên khách sạn trong khi đứa thứ hai lái chiếc Rabbit màu xanh sáng của cô. Có lẽ chúng muốn để cho người ta không tìm thấy chiếc ô tô trong khuôn viên của khách sạn và đoán ra rằng, chủ nhân của nó đã từng ở đây.
Nhưng mà tại sao?
Bọn đàn ông đó định làm gì cô?
Jenna cảm nhận một cơn sợ hãi lành lạnh bò rợn rợn qua da. Cô phải vận dụng tới toàn bộ sức mạnh tinh thần để đối trả với làn sóng hoảng hốt đang đe dọa vùng dậy trong tâm khảm. Chắc là chúng sẽ không giết cô. Bởi vì nếu muốn thế ban nãy chúng làm sẽ đơn giản hơn. Suy cho cùng thì người ta tìm thấy cô đã chết hoặc là bị ngất trong khoang đựng đồ của chiếc xe ô tô thì đâu có gì khác nhau. Không đâu, bọn đàn ông này không muốn giết cô. Thế chúng muốn gì?
Muốn gì?
Câu trả lời như đang hiện lồ lộ trong lòng bàn tay, nhưng Jenna không dám công nhận.
Tiếng nghiến của thanh giảm xóc và những chuyển động rung lắc cho cô biết chiếc xe Rabbit đang lăn bánh trên một mặt đường mấp mô. Cô không biết mình đã ngất bao lâu, liệu chiếc xe bây giờ còn ở gần khu vực bờ biển không hay đã leo lên một trong những đỉnh đồi của New Jersey. Mệt mỏi, cô nhắm mắt lại. Đầu cô đau như búa bổ, và cảm giác buồn nôn hoành hành trong dạ dày. Ít nhất thì chúng cũng không bịt miệng cô. Nếu cô phải nôn, cô cũng sẽ không bị chết ngạt. Nhưng điều đó cũng chứng minh rằng, chúng đã đưa cô vào khu vực hoang vắng nơi cô có kêu thét thì cũng chẳng có cơ hội được ai chú ý tới.
Mười phút sau đó, xe chạy chậm dần và dừng lại.
Jenna căng người lên. Tiếng máy xe ngưng với một tiếng nổ lùng bùng trầm đục. Có tiếng cửa đập mạnh vào ổ khóa, thế rồi cô lại nghe thấy giọng nói, cái giọng khe khẽ khàn khàn, như đang buồn chán lẩm nhẩm một mình:
Hãy ném cây đàn guitar…
Tiếng hát ngưng ngang, cửa khoang chứa đồ bật lên cao.
Gần như tự động, với sự chăm chú chuyên ngành của cánh nhà báo, Jenna nhận ra rằng ở đây hầu như không có sương mù, điều đó cho thấy bờ biển đã cách rất xa. Cô mở mắt nhìn lên dáng người màu đen đang cúi xuống chỗ cô. Một gã đàn ông gầy mảnh, không cao lắm, mặc quần jean màu xanh, áo len cổ cao màu đen, cả trên mặt cũng đeo mặt nạ màu đen. Jenna đã muốn thở ra. Gã đàn ông này sẽ không đeo mặt nạ, nếu gã đã quyết định giết cô. Nhưng rồi, khi gã chuyển động cái đầu, cô gái nhìn thấy đôi mắt thẫm màu đang óng ánh lên như hai cục than đằng sau khẻ nhìn và cảm nhận rõ một làn sóng lạnh rợn chạy dọc sống lưng mình.
Hai bàn tay đeo găng tóm lấy áo sơ mi của cô và kéo cô ra khỏi khoang chứa đồ.
Cô gái có một vài giây đồng hồ để đưa mắt nhìn quanh. Chỉ một thoáng cô đã biết mình đang đứng trong một khoảng rừng thưa nho nhỏ tràn ngập ánh trăng, phía bên rìa khoảng trống đó có một ngôi nhà một tầng đang nấp vào một bóng tối của những cây thông cao. Thế rồi gã đàn ông đeo mặt nạ lại tóm lấy cô, nâng cô lên cao bằng một sức mạnh bất ngời và xốc thân hình cô lên bờ vai gã.
Jenna vật lộn với cảm giác buồn nôn, như đang muốn trào lên tận cổ. Trong một thoáng, cô thấy trời đất tối sầm lại. Như từ rất xa, cô nghe thấy tiếng rên sắc nhọn của cánh cửa. Chỉ đến khi gã đàn ông lạ mặt ném cô xuống nền bằng đất nện của ngôi nhà gỗ kia, cô mới tỉnh lại được đôi chút.
Vất vả, cô hé hai mí mắt.
Ánh sáng khiến cô nhăn mặt. Không phải ánh sáng đèn điện mà là ánh sáng chập chờn của một ngọn đèn dầu. Trong phòng không có đồ gỗ, ít nhất cũng không có đồ gỗ sử dụng được. Tia nhìn của Jenna lướt qua một đồng ghế đã gãy, bị xếp chồng lên nhau trong một góc phòng, một chồng bao tải cũ đầy bụi bặm, rồi cuối cùng tia nhìn dừng lại bên gã đàn ông đeo mặt nạ màu đen.
Gã lại lẩm nhẩm huýt sáo nho nhỏ nhưng giống với tiếng rắn phun hơn là tiếng huýt sáo. Chầm chậm, gã đặt đèn dầu xuống dưới mặt đất, rồi gã đột ngột ngưng huýt sáo.
Anh thích em, em gái, - gã nói với cái giọng trầm, khàn.
Jenna co dúm lại, căng cứng người lên.
Cô đã chờ gã hỏi cung cô về anh trai của mình, chờ gã biểu lộ rằng vì lý do đó mà gã đã lôi cô về đây. Giờ cô bất giác hiểu ra gã hoàn toàn chẳng quan tâm đến điều đó. Bởi đã từ lâu gã biết Bernie đang ở đâu chăng, bởi gã đã tiêu diệt được anh hoặc đã gửi tay chân đến tiêu diệt anh? Jenna thậm chí không thể đoán nổi được điều gì. Cô nhớ ra rằng các sĩ quan đặc nhiệm đã hẹn tới gặp Bernie, nhưng suy nghĩ đó chỉ lóe lên một thoáng. Ánh mắt của gã đàn ông đeo mặt nạ cháy trên da cô như lửa. Cô biết gã không mang cô về đây để moi móc thông tin, mà vì một lý do khác.
Đúng thế, anh thích em, - gã nhẹ giọng nhắc lại. – Em có gan, em biết cách tự vệ. Anh yêu những người đàn bà biết cách tự vệ. Anh thích thuần phục họ, chỉ cho họ biết, ai là ông chủ, em hiểu không?
Ông là đồ điên! Ông...
Đúng, có thể. – Một tiếng cười khúc khích ma mãnh quái gở vang lên dưới lớp mặt nạ. – Đã có nhiều người nói với anh như vậy, em bé ạ, không biết bao nhiêu đứa. Nhưng về cuối tất cả lũ chúng đều phải quỳ xuống van xin. Cả em cũng sẽ phải làm điều đó, em bé ạ. Em hiểu không? Em sẽ phải quỳ xuống van xin...
Jenna khép mắt lại. Với sức lực cuối cùng còn lại, cô gắng gượng suy nghĩ tỉnh táo. Cô có thể tưởng tượng, gã đàn ông đang giấu mình dưới lớp mặt nạ kia là một kẻ ra sao. Cô biết mọi hành động phản kháng bây giờ chỉ khích cho gã nổi điên hơn nữa, tàn bạo hơn và độc ác hơn nữa. Đề phòng, cô gái tìm cách thả lỏng những cơ bắp của mình, rũ người xuống, nằm bất động như một con búp bê vô hồn.
Nhưng chỉ vài giây đồng hồ sau đó, khi cảm nhận đôi bàn tay tham lam trên cơ thể mình, nỗi sợ hãi và kinh hoàng đổ sập xuống Jenna như một đám mây u ám.
°
° °
Khi chúng tôi quay trở lại trụ sở FBI tại Quảng Trường Liên Bang thì đã gần sáu giờ sáng.
Đằng nào thì chúng tôi cũng không thể nói chuyện với những đối tượng đã bị bắt giam sớm hơn, bởi các quý ngài đó cần phải được khua cho tỉnh dậy đã. Steve và Zeery ở lại trong khách sạn để tham gia vào việc điều tra hiện trường và nhất là tìm hiểu gã béo phị sau quầy tiếp tân cho kỹ càng hơn. Tôi cứ đinh ninh rằng gã đang che giấu điều gì đó. Sớm  hay muộn rồi gã cũng sẽ phải nhổ nó ra. Gã không phải là loại người có thể cứng rắn được lâu trừ trường hợp có kẻ nào đó đã đe dọa gã mạnh mẽ đến mức độ gã thật sự lo cho mạng sống của mình.
Một cuộc nói chuyện qua điện thoại, Bernie Becks mặc dù đã thoát khỏi lưỡi dao thần chết, nhưng còn rất lâu nữa mới có thể chuyện trò.
Đúng lúc, tôi vừa tìm cách gọi điện cho Jenna Beck, rồi sau đó gọi cho tòa soạn “Buổi sáng Manhattan”, thì Jimmy Stone bước thẳng vào phòng làm việc của chúng tôi. Ở cả hai số máy đều chẳng có ai lên tiếng cả, nhưng đây là yếu tố chưa có gì đặc biệt ở thời điểm sớm sủa trong ban mai như thế này. Bực dọc, tôi ném ống nghe xuống giá. Jimmy Stone, một chuyên gia hỏi cung của chúng tôi, trông hơi có vẻ chán nản.
Toàn đồ khó gặm, - anh thở dài, tay đưa lên trán nhại cử chỉ vuốt mồ hôi. Rõ là anh đang nói về đám thanh niên bị bắt giữ hôm qua. Mồm to như đấu, láo hỗn như điên và tỏ vẻ như không biết gì cả. Cùng với mười tờ một trăm dollar giả, cái lũ chúng nó lại muốn lao thẳng vào quán “Đại Tây Dương” để một lần dùng bữa như giới thượng lưu, sau khi đã nhậu gần say bí tỉ ở ngoài đường.
Chúng giải thích như thế nào về sự tồn tại của mấy bông “hoa giấy”? – tôi hỏi.
Chẳng giải thích gì cả. Chúng nó bảo đấy là tiền của một đứa con gái trong bọn, con bé Cherry Rubino. Cũng có thể điều này đúng, bởi trong gốc tất của con nhỏ có cài mấy tờ tiền giả nữa. Thế nhưng cho tới nay thì nó câm như hến. Mong là các cậu gặp may hơn mình.
Hai chúng tôi ít nhất cũng sẽ thử thời vận.
Vừa đi dọc hành lang, chúng tôi vừa ném cho bọn cầm đầu của băng đảng quậy phá đó một ánh mắt qua khuôn cửa phòng hỏi cung. Ba đứa con trai mặc quần áo sặc sỡ, hai đứa nhuộm tóc màu xanh lét và đứa thứ ba dựng tóc kinh dị hình lược màu vàng, thêm vào đó là một đứa con gái với những lọn tóc rất dài màu đỏ chói. Chủ nhân của những bông “hoa giấy” thì ở phòng bên cạnh: Cherilyn Rubino, thường được gọi là Cherry, mười bảy cái xuân xanh. Đám “hoa giấy” đã được nữ đồng nghiệp June Clarc của chúng tôi tướt ra khỏi mép tất quần của nó, June cũng chịu trách nhiệm trông chừng con nhỏ bởi chị nhìn qua đã thấy cô nàng này thuộc dạng sẵn sàng tự tay xé áo sơ mi, để rồi la lên như lợn bị chọc tiết về một vụ hãm hiếp tưởng tượng.
Với đôi chân đi tất lưới màu đen gác lên nhau đầy khiêu khích, con bé ngồi trên ghế gỗ và nhịp nhịp gót chân. Làn váy mini bằng da màu đỏ trôi ngược dòng. Môi nó được kẻ màu son gần như đen nhánh, mắt tô màu tím và mái tóc nhuộm xanh lét được cắt ngắn, tết lại thành từng cái lông nhím lởm chởm chĩa từ da đầu ra bốn phía.
Ôi trời! – Con bé rên lên khi nó nhìn thấy chúng tôi. – Lại hai anh già khó tính nữa đây! Cứ làm như thể chị già kia là chưa đủ vậy!
Tôi cười, ngồi xuống và mời nó một điếu thuốc lá. Hết sức ngạc nhiên, con bé giơ tay nhận. Phil châm lửa. Nó giật mình, suýt nữa thì quên cả hít thuốc.
Này! – nó lên tiếng phản đối. – Đừng có giởn với tôi nhé, mấy anh già! Trò đùa một mình tôi cũng đủ rồi.
Tôi biết, - tôi nói. – Chuyện đùa thì cô có khiếu lắm, mà một mình tự phi vào chỗ chết thì cô cũng tự làm được, chẳng cần ai giúp đỡ đâu. Nói rõ ra, em gái! Đầu tiên cô kể cho chúng tôi nghe ban đêm cô ngáy ở cái nệm nào.
Nếu tôi không muốn?
Thì ngay lập tức ở đây sẽ xuất hiện một vài con người rất lịch sự vui vẻ của Sở Giáo dục thanh thiếu niên, và cô sẽ cùng họ vào thăm một ngôi nhà khóa kín. Tôi không biết là cô có thích điều đó hay không. Nhưng chẳng bao lâu nữa là cô sẽ đến tuổi trưởng thành, vậy là chúng tôi không phải chờ lâu nữa đâu.
Ô khốn nạn, - Cherry nói.
Miêu tả thế cũng đúng. Nào, giờ làm sao?
Con bé mút mút đầu thuốc lá, đưa tay gãi gãi những cái gai nhím màu xanh trên đầu nó và chớp chớp hai mí mắt bôi màu tím ngắt.
Tôi sống với mẹ tôi, - nó tuyên bố.
À ha. Thế mẹ cô sống ở đâu?
Công viên vịnh Pelham. Ở bãi đậu xe dọc đường Middletown.
Sao?
Thì trên bãi đậu xe chứ sao. Trong một cái wagon dùng làm nhà ở. Có gì không nào?
June nhíu lông mày. Cả Phil và chúng tôi cũng biết những chiếc wagon dùng làm nhà ở công viên vịnh Pelham có ý nghĩa gì. Trong những chiếc wagon đó thường chỉ có những quý bà mà người ta phải miêu tả bằng những danh từ được đặt trong dấu ngoặc kép. Việc tấm vải đạo đức của con bé mười bảy tuổi đã lớn lên ở nơi đó có vài lỗ thủng thật không phải điều gì mới mẻ.
Thôi được, Cherry! – tôi nói. – Bây giờ vào việc chính. Cô lấy đâu ra một ngàn đô?
Tôi không nói! – Nó cong cớn, rồi trề cái môi dưới ra.
Cô có muốn chúng tôi hỏi mẹ cô không?
Xì! Bà ấy cũng chỉ biết ngậm mồm thôi. Suy cho cùng thì chính bà ấy cũng…
Đột ngột Cherry im bặt. Nhưng nó đã nói quá nhiều. Nó biết thế, và long hai con mắt bôi quầng tím lên.
Được lắm, vậy là những tờ dollar đó vốn là của mẹ cô. Cô ăn cắp của bà ấy sao?
Bọn cớm chó! – Cherry chửi
Ăn cắp hay là không nào?
Dĩ nhiên! Thế mấy anh già tưởng sao, tưởng chị già nhà tôi tự nguyện nôn nó ra hả? Tôi cũng muốn xài sang một chút chứ, tôi cũng muốn sung sướng chứ. Các anh làm cái trò gì ở đây hả? Đằng nào thì cũng chẳng đứa nào có thể buộc cho tôi tội ăn cắp, bởi vì nó là tiền của chị già tôi. – Con bé ngưng, cắn xuống làn môi to son màu đen. – Các anh… các anh sẽ không đổ tội sang cho bà ấy chứ?
Chúng tôi phải làm thôi, Cherry.
Nhưng mà tại sao? Đó đâu có phải là chuyện ăn cắp thật sự đâu! Lấy một chút tiền của nhau trong hàng ngũ người cùng gia đình, đâu có phải là chuyện ăn cắp, cùng lắm là…
Có thể không phải ăn cắp thật. Nhưng là tội tàng trữ và phân phối tiền giả.
Cái gì?
“Hoa giấy”, Cherry. Tất cả những tờ một trăm đô đó đều là đồ giả. Tôi hy vọng bây giờ thì cô hiểu tại sao chúng tôi chẳng còn cách nào khác là phải đến nói chuyện với mẹ cô.
Cherry bất giác chớp mắt liên hồi như người hóa điên.
Những đầu ngón chân đang nhịp nhịp của cô nàng ngừng lại giữa chừng, đầu lưỡi thò ra giữa hai vệt môi đen. Có cái gì đó đang chạy qua não bộ nó, tôi cảm nhận rất rõ. Nhưng tôi không biết đó là cái gì, mà Cherry thì càng không đời nào lộ cho chúng tôi hay.
Hít một hơi thật sau, con bé căng hai vai lên, như vừa đưa ra quyết định nặng cân.
Bọn cớm chó! – Con bé phun ra như một con rắn độc. – Quỷ tha ma bắt chúng mày đi! Giờ tao không nói một câu nào nữa…
°
° °
Ngôi nhà đổ nát um tùm dây leo với vô số những tháp chuông, những cánh mái phụ vòm cuốn mang dáng vẻ lâu đài ma. Nó được xây sát vào chân của một vách núi đá, đổ hầu như thẳng đứng xuống một lòng chảo nhỏ có phủ rừng. Ở phía đằng trước, những thân cây cổ thụ che lấp tầm nhìn vào mặt tiền nhà. Chỉ có bức tường xây bằng đá tảng cao ngang đầu người có lắp lùng bùng dây thép gai bên trên là thông báo ranh giới của công viên, điểm bắt đầu của cánh rừng nằm giữa con sông Hackensack và Pasaic. Một con đường hẹp chi chít ổ gà uốn lượn theo triền đồi đi lên. Nhưng nó rất ít khi được sử dụng và chẳng bao giờ được những người sống ở đây dùng tới. Tất cả bọn họ đều cảm thấy ngại ngùng cái gã đàn ông già nua kỳ quặc có vẻ như đang sống trong tòa biệt thự kia.
Trong đại sảnh, những lớp rèm bằng vải nhung đỏ thẫm nặng nề được kéo kín, che hoàn toàn thứ ánh sáng màu xám của một ban mai vừa trỗi dậy.
Chủ nhân của công trình xây dựng tăm tối đó là người không ưa ánh sáng. Đôi kính râm mà kể cả lúc ở nhà gã cũng chẳng mấy khi bỏ xuống, chỉ che đậy được một phần nào mạng lưới chằng chịt những vết sẹo đỏ hỏn bao quanh hai con mắt. Và gã cũng không chịu được thứ gì chạm vào da đầu, rất hiếm khi hoặc chỉ ở nơi công cộng gã mới thèm đội mũ hoặc đeo tóc giả, mặc dù xương sọ dài nhọn của gã trông như đầu lâu. Vốn là sĩ quan trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Vernon Morgred đã sa vào giữa đòn tấn công của máy phun lửa. Kể từ đó gã căm ghét xã hội, căm ghét trật tự. Nhất là căm ghét nhà nước, cái nhà nước đã có thời gã chiến đấu phục vụ. Kể từ đó gã chỉ còn biết đến một mục đich: tiền, tiền, tiền, nhiều như có thể và nhanh như có thể để bóp từ phần cuộc đời còn lại của gã ra tất cả những gì mà người ta có thể dùng dollar mua được.
Một điếu xì gà havanna đắt tiền tỏa mùi hương sang trọng đang bốc khói trong gạt tàn, trong khi gã đàn ông nóng nảy bồn chồn đi đi lại lại trước bàn làm việc.
Trong chiếc cốc pha lê trên tay gã là một loại Cognac cổ vô giá đang sóng sánh. Cả hai gã đàn ông khác cùng có mặt nơi đây cũng đã bắt đầu uống rượu, mặc dù trời mới hừng sáng.
Arturo Pezzoli  còn mang trên mình bộ đồ smoking bảnh chọe mà gã thường mặc để thực hiện vai trò giám đốc điều hành của một bar rượu hạng sang trong đêm. Một bar rượu đã đổi sang bàn tay ông chủ Vernon Morgred từ mấy năm nay.
Julien Charenton, tay người Canada lai Pháp tóc bạc đeo kính còn chưa mặc xong quần áo, râu chưa cạo và chân vẫn đút trong giày đi trong nhà. Ngược lại với tất cả những kẻ khác, phụ thuộc hoàn toàn vào tính sạch sẽ chu đáo đến tỉ mỉ cửa Vernon Morgred, Julien Charenton có thể tùy thích ăn mặc cẩu thả theo ý mình. Morgred cần gã. Về phần mình, Julien Charenton lại cần có Morgred, nhưng mối quan hệ của họ được xây dựng trên nền tảng khi cần thiết thì một tay cung cấp thuốc phiện sẽ dễ dàng bị buông trôi hơn so với một chuyên gia thiên tài hoàn hảo về những kỹ thuật in tối phức tạp.
Julien Charenton ngoác miệng ra ngáp.
Arturo Pezzoli  cũng mệt khủng khiếp, nhưng gã không dám ngáp. Gã không phải là một chuyên gia tối cần thiết, mà chỉ là một tay chân gỗ được dùng để ngụy trang cho vụ làm ăn, nói cho chính xác chỉ là một tay chân gỗ hạng sang mà thôi.
Đừng có lo – gã tìm cách làm dịu bầu không khí. – Bran sẽ làm được tất cả. Phần lớn những bông “hoa giấy” đã thu được về đây, vậy là…
Phần lớn là chưa đủ, - Vernon Morgred phun ra. Gã gầm gừ. Giọng nói của gã cao, mỏng mà không âm sắc, bởi cả cổ họng của gã cũng bị thương. – Chúng ta cần tất cả. Mà liệu Bran có thật sự xử lý rốt ráo được vụ này không ta còn phải chờ xem sao đã. Tao rất hiểu em trai tao.
“Tôi cũng vậy, Pezzoli nghĩ thầm, tôi cũng vậy…”
Bran nắm mọi việc trong tay mà, - gã nhắc lại, cố gắng thuyết phục ông trùm. – Cú điện thoại của Petes rất rõ ràng, thưa ông.
Petes Lennon là một thằng ngu, nó không bao giờ nhìn được quá cái chóp mũi của nó. Bran còn chưa giết con đàn bà đó và…
Bran sẽ làm được, thưa ông.
Đúng, chắc chắn rồi. Cái đó thì bao giờ nó cũng làm được. – Morgred bất thình lình đứng sững lại, và nhếch cặp môi mỏng, lồi lõm vì vết sẹo. – Nhưng tao không thích cái kiểu cách nó cứ giằng giây chần chừ với con nhà báo khốn kiếp. Mỗi lúc lên cơn nó lại thành một đứa rất khó lường. Lúc ấy không ai còn điều khiển được nó nữa.
Anh ấy sẽ không mắc lại đâu, thưa ngài. Đằng nào thì cũng phải cho con nhà báo đó đi. Nó đã nhìn thấy mặt Petes. Mà ngoài ra nó còn là em gái của Bernie  Beck, không biết thằng đó đã kể cho nó nghe những gì. Nhưng nếu người ta tìm thấy xác nó ở trong khách sạn thì chẳng hay chút nào. Bran sẽ lo để con nhỏ không bao giờ còn xuất hiện nữa.
Hy vọng thế, - Vernon Morgred lầm bầm trong cổ họng. – Nó là em trai tao, nhưng nhiều khi tao cũng không dám động đến nó. Nhất là những lúc nó nổi cơn điên.
Arturo Pezzoli  muốn nói thêm cầu gì đó, nhưng Morgred nóng nảy phẩy tay.
Với một tiếng và sắc nhọn, gã đập cốc pha lê đựng Cognacs lên mặt bàn. Gương mặt với cặp kính thẫm màu soi sang phía nhà khoa học tóc bạc.
Mọi thứ sẵn sàng cả chứ, Julien? – Gã hỏi.
Charenton gật đầu.
Tuyệt hảo, thưa ngài, - gã khẳng định. – Serie mới này sẽ là thứ hoàn hảo nhất mà người ta từng biết cho tới nay. Cuối cùng ta không còn một lỗi nào nữa. Nếu ngài muốn, chúng ta có thể ngay lập tức bắt tay vào việc, ngay trong ngày hôm nay.
Tên trùm gangster mỉm cười. Một nụ cười khiến cho làn môi mỏng dính lồi lõm vết sẹo của gã kéo thành một cái nhăn nhúm gớm ghiếc.
Sáng mai, - gã quyết định. – Mai ta sẽ bắt đầu. Đầu tiên tôi phải tin chắc rằng Bran đã thật sự ủi phẳng cái vấn đề be bé kia đã.
Giọng nói gã bình thản như người ta đang chuyện trò về thời tiết. Không một âm thanh cho thấy Vernon Morgred vừa đề cập tới một kế hoạch cướp đi ba mạng người.