Truyện Cổ Tích Đôi giày hạnh phúc - Etruyen.com

Đôi giày hạnh phúc
Trong một ngôi nhà, cạnh Hoàng trường mới, phố Đông, thành
Côpenhagơ, chủ nhà đang tiếp khách. Khác hôm ấy rất đông, chủ
nhà vốn là hiếu khách, hơn nữa là để được mời lại.
Khách khứa người thì tập trung vào bàn thờ, người thì xúm
nhau trò chuyện. Xen vào nhiều chuyện khác, họ bàn đến thời Trung
Cổ. Hầu hết cho rằng thời ấy không hơn thời nay, chỉ riêng ngài hội
thẩm Knap và thêm bà chủ nhà kiên quyết phản đối ý kiến ấy. Hai
ngài cho rằng từ trước tới nay, thời vua Hanx là thời đại huy hoàng
nhất, hạnh phúc nhất.
Lúc này ngoài phòng đợi, đày áo choàng, gậy chống, ô, giầy, có
hai người hầu gái, một già một trẻ. Nhưng khách đã nhầm, hai bà
không phải là người hầu phòng. Hai bà là hai nàng tiên. Cứ nhìn họ
mà xem: bàn tay thanh tú, dáng ngồi, điệu đi lịch sự. Quần áo của họ
cũng khác thường, đầy vẻ tao nhã.
Nàng tiên trẻ là thị tỳ của người hầu phòng của Thần may rủi,
còn bà tiên già là Thần trừng phạt. Nàng tiên trẻ có nhiệm vụ đi
phát của Thần may rủi. Bà tiên Thần trừng phạt có nét mặt nghiêm
khắc đi kiểm soát kết quả của công việc.
Hai bà đang kể cho nhau nghe những công việc đã làm hôm ấy.
Nàng tiên thị tỳ nói mới làm được mấy việc lặt vặt: giữ cho chiếc mũ
khỏi bị ướt mưa, chuyển cho người tài lời chào mừng của một kẻ vô
lại nổi tiếng và mấy việc nữa cũng đại loại như thế. Nhưng nàng còn
phải làm một việc nữa, một việc dị thường là đem đôi giầy làm quà
cho người lớn dưới trần. Đôi giầy có phép lạ hễ ai xỏ chân vào nhà thì
muốn đi đến đâu hoặc muốn sống lại thời đại nào cũng được ngay tức
khắc. Thật là sướng! Nàng kết luận.
 65

- Chưa chắc đâu! Bà tiên già, không khéo lại khổ gần cửa ra
vào, ai nhặt được thì nhặt.
Đêm đã khuya, chuyện đã vãn, ngài thẩm phán ra về. Ra đến
cửa, đầu óc còn đang mãi nghĩ về thời đại vua Hanx, ngài thẩm phán
xỏ nhầm vào đôi giầy người thì tỳ vừa đặt. Đường về nhà ngài qua
phố Đông, ngài bước về phía ấy, nhưng phép lạ của đôi giày lại đưa
ngài quay trở lại thời vua Hanx, chân ngài lội vào bùn và qua các
vũng nước, vì thời ấy các đường phố chưa đổ nhựa, hè phố chưa lát bê
tông như bây giờ. Ngài vừa đi vừa ca cẩm:
- Bùn khiếp thật! Hè phố chẳng còn, đèn cũng tắt ngấm.
Trăng chưa mọc, sương mù nhiều, mọi vật chìm trong đêm tối. ở một
góc đường gần đấy có treo một ngọn đèn hắt ánh sáng xuống pho
tượng đức mẹ nhưng ánh sáng mờ quá phải đến tận nơi mới nhìn rõ,
trông thấy đức mẹ đang bế Hài đồng trên tay. Ngài nghĩ thầm:
- Có lẽ đây là một cửa hàng mỹ phẩm mà người ta quên cất
mẫu quảng cáo.
Vừa lúc ấy có hai người mặc quần áo thời cổ vượt lên trước ngài
thẩm phán nói:
- Họ ăn mặc lạ nhỉ. Có lẽ họ vừa đi dự buổi khiêu vũ trá hình
về.
Có tiếng trống và tiếng sáo nổi lên, ngài đứng lại thấy một đám
rước diễu qua. Đi đầu là trống rồi đến thị vệ cầm cung tên và binh
khí. Người chỉ huy đám rước là một nhà tu hành. Ngạc nhiên với
cảnh lạ, ngài lẩm bẩm: "sao lại thế nhỉ? Người ấy là ai?" Có tiếng trả
lời:
- Đấy là Đức giám mục Xilen.
- Sao đức giám mục lại thế? Có lẽ không phải đâu, các ngài
nhầm đấy.
Mải suy nghĩ, chẳng nhìn đường, ngài hội thẩm đi qua phố
Đông và quảng trường Cầu lớn. Không sao tìm được cái cầu bắc sang
quảng trường Cung điện, ngài chỉ thoáng nhìn thấy một con sông
 66

rộng và gặp hai người đang ngồi trên một chiếc thuyền. Họ hỏi: "Ngài
có muốn qua sông Hô lông không?
- Qua sông Hô lông à? Sao lại qua sông? Hỏi vớ vẩn. Tôi muốn
đến ngõ Crixtianhavu khu phố chợ (ngài hội thẩm quên là mình đang
sống trở lại thời vua Hanx)
Thấy hai người kia ngạc nhiên nhìn ngài, ngài nói tiếp:
- Các ông chỉ dùm cho tôi lối lên cầu. Chẳng có đèn đuốc gì cả,
tối đen như mực, lội bì bà bì bõm như đi trong ruộng lầy vậy. Bùn ơi
là bùn!
Ngài càng nói chuyện với hai người thuỷ thủ lại càng ngạc
nhiên, chẳng hiểu họ nói gì. Ngài vùng vằng:
- Chẳng thể nào hiểu được tiếng địa phương của các bác!
Ngài bực tức quay phắt đi. Ngài không thể nào tìm ra được cái cầu,
ngay cả lan can dọc bờ sông cũng chẳng có. Ngài lẩm bẩm:
- Loạn thật!
Ngài chưa bao giờ thấy thời đại của ngài đang sống lại thảm
hại đến thế. Ngài nghĩ bụng:
- Có lẽ phải gọi một cái xe mà đi mới được.
Nhưng tìm đâu ra xe? tRông mỏi mắt cũng chẳng có cái nào.
Ngài tự nhủ:
- Phải quay về Hoàng trường mới mà kiếm cái xe chứ không thì
chẳng đến được Crixtianhavu được.
Ngài thẩm phán quay trở lại phố Đông; đi gần đến phố thì
trăng lên. Trông thấy cổng thành phía Đông, ngài kêu lên:
- Trời ơi! Người ta dựng cái đài này ở đây để làm gì kia chứ?
Cuối cùng ngài thẩm phán cũng tìm ra được cỗ xe ngựa và ra đến
quảng trường mới hiện nay. Thời xưa chỗ nàyy là một bãi trống chỉ
có cỏ mục và một vài bụi cây; có một con sông đào chảy qua, đổ ra
biển. Bờ bên kia có một vài túp lều gỗ tồi tàn của những thuỷ thủ
xóm Halăng (vì vậy nơi ấy nay đặt tên là mũi Halăng).
Ngài thẩm phán nghĩ bụng: ma quỷ ám mình hay mình say rượu thế
 67

này? Sao lại lung tung chẳng còn hiểu thế nào nữa! Có khi mình ốm
rồi!
Ngày quay lại. Vào đến trong phố, ngài nhìn thấy rõ nhà cửa
hơn, đa số vách thủng bằng thanh, mái lợp rạ.
Ngài lẩm bẩm:
- Sao người khó chịu quá! Mình chỉ uống có một cốc rượu pha
đường thôi thì sao thấy khó chịu thế? Lại cho mình rượu pha đường
với hồi nóng nữa chứ. Thật là điên! Các bà vợ quan nội thần này ác
thật! Hay là mình quay lại để cho họ biết họ làm ăn linh tinh. Nhưng
chắc gì họ còn thức? Mà như vậy cũng dở lắm.
Ngài tìm sân nhà, nhưng tìm không ra. Ngài lẩm bẩm:
- Không sao nhận ra phố Đông nữa. Chẳng còn cái nửa hiệu
nào! Chỉ thấy trên những túp lều cũ kỹ tồi tàn như ở Rôtxôkin hay ở
Rinhxtet. Mình ốm thật rồi! Nhà quan nội thần đâu rồi nhỉ? Quái
thật! Sai ta lại ốm thế này! Thấy một nhà có ánh sán lọt qua khe cửa.
Đây là một quán trọ thời vua Hanx, một quán rượu bia. Căn phòng
giống như quán rượu ở vùng Honxtanh. Trong quán đang có một số
lính thủy, mấy người thành thị và hai nhà bác học. Cả mấy người
đang trò chuyện náo nhiệt, trước mặt mỗi người một cốc bia. Ngài hội
thẩm mở cửa bước vào. Họ vẫn tiếp tục trò chuyện không để ý đến
ngài. Bà chủ quán chạy đến. Ngài hỏi:
- Thưa bà, tôi thấy trong người khó chịu như muốn ốm. Bà có
thể giúp tôi gọi hộ một cái xe chở tôi về Crixitianhavu được không?
Bà chủ quán ngó ra, lắc đầu trả lời bằng tiếng Đức. Ngài hội thẩm
cho là bà không biết tiếng Đan Mạch, nên hỏi bà ta lần này bằng
tiếng Đức. Nghe tiếng nói và cách ăn mặc của ông thẩm phán, bà chủ
quan tin rằng ông là người nước ngoài. Bà ta hiểu là ông ấy ốm và
mang ra cho ông một cốc nước mới hứng ở vòi ra nhưng có vị mặn.
Nhắp thử, ngài lắc đầu:
Ngài ôm trán thở dài suy nghĩ về những hiện tượng kỳ lạ chung
quanh mình.
Thấy bà chủ quán gấp một tờ giấy khổ rộng, ngài hỏi:
 68

- Có phải tờ báo "Ban ngày" mới ra tối nay đấy không?
Bà ta không hiểu ngài muốn nói gì, cứ chìa cho ngài tờ giấy
đang gấp. Đấy là một tờ tranh khắc gỗ, vẽ một hiện tượng thiên văn
như ông đã nhìn thấy ở Côlônhơ. Ngài nói:
- Bức tranh này cổ lắm! Bà làm thế nào mà kiếm được bức
tranh hiếm có này? Quý đấy! Nhưng lời giải thích ghi trong tranh
không hợp thời nữa, nó có vẻ hoang đường. Bây giờ người ta gọi hiện
tượng ấy là một bắc cực quan, do điện gây ra.
Những người ngồi gần đấy thấy ngài thẩm phán nói đều lấy
làm ngạc nhiên. Một người đứng dậy, cung kính nói:
- Thưa ngài, chắc hẳn ngài là một nhà bác học đại tài!
- Không đâu! Tôi chỉ mỗi thứ biết một tí, như mọi người thôi.
- Ngài khiêm tốn quá!
- Tôi biết thế thì nói như thế, các ngài biết thêm gì cho tôi được
học. Ngài hội thẩm nói với người kia: "Ngài có thể cho tôi biết quý
danh được không?"
- Tôi là tú tài thánh thư, người kia trả lời.
Học vị của người ấy cũng phù hợp với cách ăn. Nhưng ngài hội
thẩm nghĩ thầm:
- Đây hẳn là một lão hương sự loạn óc, còn sót lại ở một nơi hẻo
lánh của xứ Giuytlăng.
Người xưng là tú tài thánh thư nói thêm:
- Đây không phải là một diễn đàn, nhưng mời ngài cứ tiếp tục
phát biểu. Chún tôi rất thíchh được nghe, chắc là ngài am hiểu các
tác gia thời xưa.
- Vâng, sách thời xưa bổ ích lắm, tôi rất thích đọc. Tôi cũng biết
nhiều sách thời nay. Nhưng những "Truyện hàng ngày" thì tôi không
thích vì cuộc sống thực tế cũng đã đủ lắm rồi.
- "Truyện hàng ngày" là truyện gì thưa ngài?
 69

- Là những quyển tiểu thuyết mới viết hiện nay.
- Tôi thấy những quyển tiểu thuyết hiện nay cũng thú vị đấy
chứ ạ! Đức vua cũng hay đọc. Người thích nhất cuốn "Ipven tiên sinh
và Gôđiô tiên sinh" kể chuyện vua Actuýt và các hiệp sĩ bàn tròn.
- Chuyện ấy tôi chưa được đọc. Chắc là sách mới của nhà xuất
bản Giêmen.
- Ông Giêmen là tác giả cuốn truyện có phải không?
Cái tên ấy nghe xưa lắm nhỉ. Đúng là tên nhà xuất bản đầu tiên của
nước Đan Mạch đấy.
- Đúng ạ. Nhà in đầu tiên của chúng ta là nhà in Giêmen.
Câu chuyện đang vui bỗng có người nói đến trận dịch hạch xảy ra
gần năm ấy nên họ cũng nhắc luôn cả chuyện quân cướp người Anh
xông vào tận hải cảng cướp thuyền bè. Nghe thấy thế ngài hội thẩm
lại tưởng họ nói về cuộc mưu sát năm 1801, nên những lời ngài
nguyền rủa quân Anh trong vụ mưu sát ấy cũng vẫn khớp với câu
chuyện.
Nhưng về sau câu chuyện trở nên chuệch choạc. Cứ ông nói gà
bà nói vịt, chẳng bên nào hiểu bên nào. Họ ngẩn người ra nhìn nhau.
Đến khi bí quá, vị tú tài phải phát biểu bằng tiếng Latinh hy vọng
với thứ tiếng ấy người ta sẽ hiểu ông. Nhưng cuối cùng thì ngài thẩm
phán không hiểu ông, mà ngài thẩm phán nói gì ông cũng không
hiểu.
Bà chủ kéo tay áo ngài thẩm phán hỏi:
- Bây giờ ngài thấy thế nào rồi?
Câu hỏi của bà chủ quán làm ngài sực tỉnh. Vì mải nói chuyện,
ngài đã quên tất cả những sự việc vừa xảy ra lúc trước. Rồi khi nhớ
lại chuyện cũ ngài choáng người kêu lên:
- Đây là đâu thế này, các ông?
Một vị khách hô lớn:
- Cùng nhau cạn chén, các vị! Rượu mật ong pha với bia xứ
Brêmơ. Xin mời ngài chạm cốc với chúng tôi.
 70

Hai chị hầu bàn bừng khay ra, cúi chào khách rồi rót rượu.
- Rượu gì thế này? Ngài hội thẩm tự hỏi, không dám uống.
Nhưng thấy người ta mời chào quá nên buộc lòng phải uống vậy. Có
người bảo ngài say rượu, ngài tin vậy và nhờ thuê giúp cho một cái
xe ngựa để về nhà. Nghe thấy ngài nói, người ta lại tưởng ngài nói
tiếng Nga. Ngài chưa tiếp xúc với những người thô lỗ như thế bao
giờ. Đất nước như lùi lại thời tà giáo. Ngài nghĩ thầm:
- Đây đúng là giờ phút kinh khủng nhất trong đời mình.
Ngài bèn chui xuống gầm bàn để bò ra cửa. Ngài bò ra gần đến nơi
thì có người trông thấy. Họ vội nắm cẳng ngài lôi lại. Đôi giày tụt ra
khỏi chân, phép lạ cũng biến mất. Ngài hội thẩm nhìn thấy trước
mặt là một cột đèn đang chiếu sáng, còn phía sau là một toà nhà lớn.
Bên cạnh ngôi nhà lớn là nhiều ngôi nhà khác đang đứng xếp hàng
tiếp theo nó. Lúc này ngài đang ở phố Đông. Ngài vẫn còn đương bò
dưới đất trước một cái cửa. Ngài trông thấy người tuần canh đang
ngủ say trước mặt mình. Ngài ngồi lên, chung quanh và kêu lên:
- Quái thật! Sao mình lại nằm giữa đường mà ngủ thế này nhỉ.
Giữa ngay phố Đông! Đèn ơi! Cảm ơn mày nhé! Mình chỉ uống một
cốc rượu pha đường mà say như thế! Khiếp thật!
Hai phút sau ngài đã lên xe trở về Crixtinanhavu. Ngài nhớ lại
những lo sợ khổ ải vừa trải qua và thầm khen cuộc sống thực tại
sung sướng và hạnh phúc, thấy rõ ràng thời đại chúng ta chưa hoàn
hảo lắm, nhưng đã hơn nhiều cái thời đại ngài sống lúc nãy.
Bác tuần canh nghe tiếng động bừng tỉnh và reo lên:
- Ơ này! Đôi giầy của ai thế này? Chắc là của quan trung uý
trên gác này. Nhưng sao ngài lại để giầy ở đấy thế?
Bác tuần canh đã định bấm chuông gọi cửa đem trả lại giầy cho
ngài. Nhưng bác thấy như vậy các nhà bên cạnh sẽ mất ngủ nên lại
thôi, để sáng mai sẽ báo cho ngài biết.
Rồi buồn tay, bác sỏ thử giầy vào chân, miệng khen:
”Vừa khít. Da mềm quá! Đi êm!“
Xỏ thử vào giầy rồi bác ngồi nghĩ:
 71

- Ngài trung uý vậy mà sướng! Chẳng vợ chẳng con, không bấn
bíu gì. Tối đến lại đi tiêu khiển đến các giới giàu sang. Ước gì mình
được như ngài thì sướng.
Mong được ước thấy. Do phép lạ của đôi giầy, bác tuần canh
vừa ước thế thì liền nhập cả hồn lẫn xác và quan trung uý. Bác thấy
mình đang sống trên gác, trong căn phòng của quan trung uý, tay
cầm một mảnh giấy là bản thảo một bài thơ do quan trung uý viết.
Đúng là của quan trung uý. Trong đời ai mà chả có lúc hồn thơ lai
láng. Lúc ấy người ta viết những ý nghĩ của mình ra giấy thế là
thành thơ. Nhưng bác tuần canh không thích thơ và cũng không
thích làm quan trung uý. Mới thử một tí mà bác đã thấy chán, tiếc
cái nghề tuần canh của mình, nó vất vả nhưng mà thích.
Do phép lạ của đôi giầy, bác đang thở dài thì từ trung uý bác lại
thành tuần canh, mừng là đã từ bỏ được cái nghề mới của mình. Vậy
là thân tuần canh lại trở về với phận tuần canh.
Mình vừa mơ thấy một giấc mơ kỳ cục; tự dưng lại thành ông
trung uý ở trên gác, chẳng được hơn cái gì mà lại đâm ra nhớ mẹ
thằng cu và mấy đứa con.
Bác ngồi xuống cái ghế vẫn ngồi canh cúi đầu suy nghĩ mông
lung. Bỗng trên trời có một vì sao đổi ngôi. Bác lẩm bẩm:
- Sao đổi ngôi! Chắc là đổi sang một thế giới sung sướng hơn.
Ước gì mình được đến gần vì tinh tú ấy mà xem nhỉ. Nhất là lại được
đến mặt trăng thì tuyệt. Giá được đi chơi một vòng trên ấy thì nếu có
chết ở bậc cửa này cũng cam.
Trên đời này có nhiều điều phải dè dặt trong lời nói.
Xỏ đôi giầy hạnh phúc vào lại càng phải thận trọng. Chuyện đã xảy
đến với bác tuần canh như sau:
Vừa dứt lời, bác tuần canh đã vượt qua sáu vạn dặm lên tới
cung trăng. Bác tuần canh sa vào một ngọn núi lửa thường thấy vẽ
trên tấm bản đò mặt trăng của nhà bác học Hat-le. Mặt trăng được
cấu tạo bằng một chất nhẹ hơn trái đất của chúng ta, tựa như tuyết
khi mới rơi xuống đất. Bác tuần canh thụt sâu xuống đến nửa dặm
Đan Mạch. Bên dưới là một làng hoàn toàn một màu lòng trắng
 72

trứng hoà với nước, nhưng nom rõ cả cái tháp tròn, cửa cuốn ban thờ
đung đưa trên không. Trái đất của chúng ta tựa như một ngọn đèn
khổng lồ treo lơ lửng trên đầu. Trên mặt trăng có nhiều sinh vật mà
trái đất ta gọi là người, nhưng họ không giống chúng ta. Họ cũng có
tiếng nói linh hồn bác tuần canh nghe hiểu được.
Trên mặt trăng họ cũng có những cuộc tranh luận về trái đất
chúng ta. Họ nêu giả thuyết trái đất có người sinh sống và bàn cãi.
Nhiều ý kiến cho rằng không khí ở trái đất dầy đặc quá, không thể
sống được, chỉ có mặt trăng là có sinh vật mà thôi. Mặt trăng là tinh
tú hoàn hảo nhất. Đấy là nơi trú ngụ của người nhà trời thời cổ xưa.
Chúng ta quay lại phố cửa Đông xem bác tuần canh bây giờ thế nào.
Bác đang nằm chết ở bậc cửa, mắt bác ngước lên mặt trăng, nơi hồn
bác đang du ngoạn. Một người đi đường hỏi:
- Mấy giờ rồi bác?
Thấy bác không trả lời, người ta véo vào mũi bác, lấy tay vả vào
mồm bác. Bác vẫn nằm sóng sượt bất tỉnh như một xác chết. Ai thấy
thế cũng sợ. Họ cho là bác chết rồi, không thể cứu chữa được. Nhưng
tảng sáng họ vẫn đưa bác vào nhà thương. Chúng ta tưởng tượng
xem khi trở bác về trái đất hồn bác không tìm thấy xác thì bối rối
biết chừng nào. Chắc hẳn hồn bác phải chạy đến sở cảnh sát, rồi đến
phòng giữ đồ đạc, đánh mất và cuối cùng đến nhà thương. Hồn con
người được thả lỏng thì tinh khôn lắm. Chỉ khi nhập vào xác. Hồn
mới trở thành đần độn, nhất định nó sẽ tìm được xác bác tuần canh.
Khi đem bác vào nhà thương, người ta đưa bác ngay xuống nhà xác. ở
đây người ta chuẩn bị để nhập quan. Trước tiên phải cởi bỏ quần áo
cũ và giầy dép để lau rửa cho bác rồi mặc áo quần mới. Người hộ lý
vừa tụt đôi giầy ở chân bác tuần canh ra bỗng bác bật dậy. Thì ra
hồn bác đã quay về tìm được xác bác và nhập vào và bác sống lại.Bác
tuần canh đã kể lại câu chuyện trong đêm và nói rằng đêm ấy là một
đêm khủng khiếp nhất trong đời bác. Có cho bác hai đồng tiền mà
bảo bác sống lại một đêm như thế, bác cũng xin chịu.
Ngay hôm ấy bác ra viện, nhưng đôi giầy thì ở lại trong nhà
thương.
 73

Người dân thủ đô Côpenhahagơ không ai biết cách cửa vào
bệnh viện Frêđêrich, nhưng tất cả các bạn đọc sách của tôi không
phải ai cũng là người Côpênhagơ, nên tôi muốn giới thiệu vắn tắt vài
nét.
Từ ngoài phố đi vào nhà thương có một hàng rào sắt khá cao,
chấn song sắt to và thưa, đủ cho trẻ con chui qua. Thông thường thì
có cái đầu là khó chui nhất. Hễ đầu đi thì đuôi cũng lọt, người ta vẫn
nói thế mà. Nhưng trường hợp sắp kể dưới đây có khác.
Một anh y tá phụ trẻ tuổi của nhà thương hôm ấy có phiên gác đêm.
Mưa rào nhưng anh ta vẫn muốn bỏ trốn đi chơi mười lăm phút. Tối
trời lại mưa, chẳng ai ra ngoài lúc này, nên cậu gác chui qua lối cổng
chính.
Vừa lúc ấy cậu ta trông thấy đồi giầy bác tuần canh để quên.
Giời mưa được đôi giầy đi thì tiện quá. Cạu liền vơ lấy xỏ luôn vào
chân. Rồi cậu ra phía cổng để chui qua hàng rao. Vừa đi cậu vừa lẩm
nhẩm như cầu nguyện: ”Lạy giời, sao cho đầu tôi lọt qua được!“
Nhờ phép lạ của đôi giầy, cái đầu to tướng của cậu chui qua một cách
dễ dàng. Giờ đến lượt cái mình. cậu cứ tưởng đầu đi thì đuôi lọt.
Nhưng loay hoay mãi vẫn không lách bụng ra được.
- Không ngờ mình lại to béo thế. Cậu lẩm bẩm một mình.
Xoay người đi, xoay người lại đến rách cả áo, cậu ta vẫn không sao
qua được.
Oái oăm hơn nữa là rút đầu lại cũng không được. Thế là tiến
thoái lưỡng nan! Cậu nổi cáu, không còn giữ được vui vẻ như ngày
thường. Giẫy giụa mãi cũng không ăn thua gì. Thế mới chết chứ!
Trời vẫn mưa như trút nước xuống, phố xá vắng tanh. Muốn với cái
chuông để giật nhưng không với tới. Làm thế nào để thoát khỏi bước
nguy khốn này. Chưa biết chừng cứ phải đứng như thế này cho đến
sáng, rồi nhờ ông thợ khoá đến cưa một song sắt đi. Nhưng vậy thì
lâu quá, mưa rét thấm vào người cảm mất; rồi các chị nhà bếp và bọn
trẻ con kéo nhau đến xem và bêu xấu mình.
- Ôi nguy quá! Nguy quá! Ước gì thoát khỏi nơi này! Cậu vừa
dứt lời liền rút được đầu ra ngay. Giá cậu biết đôi giầy có phép lạ thì
phải ước sớm hơn nhưng cậu không hay biết gì cả.
 74

Hết tội ấy lại đến tội khác, rõ khổ cho cậu phụ tá bệnh viện. Tôi
xin kể tiếp để bạn đọc nghe.
Ngay tối hôm ấy tại câu lạc bộ có đêm văn nghệ. Chương trình
có tiết mục ngâm thơ. Đầu đề bài thơ là: "Đôi kính lão của bà nội".
Nội dung bài thơ như sau: Bà nội có đôi kính nhìn thấy suốt tâm can
mọi người, nhìn ai là đọc được những ý nghĩ thầm kín của người ấy.
Cậu phụ tá nhà thương cũng có mặt trong buổi văn nghệ ấy. Trời
mưa đường lội nên cậu ta vẫn kéo đôi giầy bắt được hôm trước, vì
không thấy ai đến đòi.
Cậu ta cứ suy nghĩ về chủ đề bài thơ và ước ao có được cái kính
như thế nào thì cậu cũng có thể thấu suốt tâm can mọi người.
Nếu mình đột nhập vào đáy lòng các ông bà khán giả ngồi ghế hàng
đầu kia thì mình sẽ lục lọi khắp chỗ trong lòng họ như lục lọi một
kho hàng. Lòng bà này thì như một ngăn chứa đầy quần áo đủ kiểu
đủ mốt; lòng bà kia thì rộng tuếch chẳng có gì. Lòng bà thứ ba con
tim thấy mình mời chào rối rít lại xem. giá mình lọt được vào một con
tim nhỉ!
Cầu được ước thấy.
Cậu chui ngay vào tim một bà sang trọng. Cậu thấy tim bà ta
như một mỹ viện. Cậu vào một căn phòng, trên tường treo nhiều
chân tay dị dạng. ở đây khác với mỹ viện. ở mỹ viện, người tàn tật
đến mới làm khuôn, còn trong tìm bà thì những con người tội nghiệp
không cần trình diện cũng được làm khuôn và khuôn được giữ lại cẩn
thận. Bà chủ có toàn bộ chân dung các bạn của bà rất phong phú làm
nổi bật những nhược điểm về thể chất và tinh thần từng người.
Lục lọi xong trái tim bà thứ nhất, cậu phụ tá sang trái tim một bà
khác. Tim bà thứ hai này giống như một toà nhà thờ rộng lớn và
thần bí. Chim bồ câu trắng tượng trưng cho sự trong sạch xoè cánh
trên bàn thờ. Nếu không phải đi sang trái tim khác thì cậu ta đã quỳ
xuống rồi. Sang đến trái tim khác vẫn còn nghe vọng thấy tiếng
phong cầm. Tìm trong danh sách các vị tai to mặt lớn thế nào cũng
thấy tên bà.
Bước sang trái tim khác, anh thấy như vào một phòng khách
dát toàn bằng gương như trong lâu đài Rôxăngpo nhưng khác ở lâu
 75

đài kia là gương ở đây phóng đại mọi vật lên to một cách ghê ghớm.
Sau cùng cậu ta vào một trái tim, cậu thấy bí rì, gỡ mãi mới tìm được
lối ra.
Đến đây thấy mệt rồi, cậu đình chỉ việc khám nghiệm. Cậu
thấy choáng váng, đầu óc quay cuồng, thân thể bất an.. Và cậu ta
nghĩ ngay đến cách chữa là nước tắm nước nóng.
- Ước gì mình được ở trên bậc cao nhất của phòng tắm để nước
đầy đủ và có độ nóng tốt nhất.
Cầu sao được vậy. Hơi nước tụ thành giọt nhỏ xuống mặt cậu.
Nước nóng quá! Cậu thét lên và nhảy bổ sang phòng tắm nước lạnh.
Cậu hầu phòng thét lên khi thấy cậu ta mặc cả quần áo vào buồng
tắm. Cậu ta đã nhanh trí biện bạch.
- Tôi chơi đánh cuộc đấy mà.
Về đến nhà, việc đầu tiên là cậu ta dán ngay một lá cao lên gáy
và lưng để khỏi phát điên. Vậy mà hôm sau lưng cậu ta vẫn rộp cả
lên.
Đi đôi giầy hạnh phúc vào, cậu ta sướng thế đấy.
Mấy hôm sau cũng chẳng thấy ai đến nhận đôi giầy, bác tuần
cành để đem đến sở cảnh sát.
Một ông tham làm việc tại đó, ngắm nghía đôi giầy, rồi đặt
cạnh đôi giầy của mình, ông bảo:
- Hai đôi giầy giống nhau như hệt. Ngay thợ giầy cũng khó
phân biệt đôi nào với đôi nào.
Có người cầm lá đơn đến trình:
- Bẩm quan tham!
Ông tham quay lại nói vài câu, rồi quay lại chỗ để giầy. Nhưng
ông chẳng còn nhớ đôi giầy nào là của mình. Ông nghĩ đôi nào ướt là
của mình.
Nhưng ông ta đã nhầm, chính đôi giầy ướt là đôi giầy hạnh
phúc.
 76

Ông tham xỏ giầy, nhét công văn vào túi đem về nhà xem. Thấy
đẹp trời ông đi dạo một lúc lên quảng trường Frêđêrich. Vừa đi ông
vừa ngắm cảnh. Ông nhìn chim chóc nhảy nhót ca hát vui vẻ trên
cành và nói như than thở:
- Chúng sướng thật! Sướng hơn ta nhiều! Bay bổng tít trên trời,
đi mây về gió, tha hồ tung cánh. ước gì mình cũng bay được như
chúng!
Vừa nói xong, cánh tay và vạt áo của ông biến thành cánh
chim, vải biến thành lông, giầy biến thành chân chim. Ông đã thay
hình đổi dạng và nghĩ thầm:
- Vậy là mình đã thành chim, tha hồ bay lượn. Tất cả vạn vật
đều ở dưới ta. Bạn của ta là nắng, là gió, là mây.
Vừa nói một mình như thế, ông tham bây giờ là chim sơn ca,
chao lên đảo xuống. Một lúc lâu, ông xà xuống, ngó nghiêng tứ phía.
Bỗng có cái gì to lớn úp chụp lên người ông. Thì ra một chú bỏ đi
ngang qua đấy, thấy con chim đẹp liền lấy mũ chụp lấy và nắm chắc
mang đi.
Ông tham hoảng quá, ông kêu lên:
- Bỏ tao ra, đồ ranh con! Có bỏ ra không?
Thằng bé chỉ nghe tiếng chim chiêm chiếp nên chẳng biết là
ông tham.
Dọc đường, nó gặp hai cậu học trò. Các cậu hỏ mua thằng bé
đồng ý bán với giá tám si linh. Thế là ông tham được chúng đem về
phố Gốt, kinh thành Côpennhagơ.
Mấy đứa trẻ mang ông vào một ngôi nhà đẹp. Một bà to béo ra
đón chúng. Nhưng bà tỏ vè không thích chim sẻ (bà gọi chim sơn ca,
tức ông tham là chim sẻ); bà ta chỉ cho đem vào một ngày thôi mà
phải nhốt vào lồng, treo ở cửa sổ.
- Có lẽ Pốp thích lắm đây! Bà vừa nói vừa chỉ tay vào một con
vẹt xanh to tướng đang lắc lư cái đầu trong chiếc lồng bằng đồng
thau. Hôm nay vừa đúng là ngày sinh nhật của Pốp. Con chim sẻ sẽ
chúc mừng nó.
 77

Một con hoàng yến trong lồng hót vang. Bà to béo mắng và vứt
cái giẻ trắng trùm lên lồng nó. Con chim hoàng yến kêu thêm vài
tiếng rồi im bặt. Ông tham (tức chim sẻ) được nhốt vào lồng bên cạnh
lồng hoàng yến, đặt gần lồng con vẹt. Con vẹt oang oang một tràng
tiếng người mà chủ dạy nó. "Thôi thôi để yên cho chúng tao sống làm
người với chứ!".
Hoàng yến cũng hót lên cho người bạn mới nó là con chim sẻ
nghe:
"Mới đây không lâu tôi còn bay lượn dưới bóng dừa xanh và
bóng cây hạnh đang nở hoa. Tôi bay cùng các anh chị tôi trên rừng
hoa thơm ngát, trên mặt biển trong vắt, trên bờ rợp bóng cây. Tôi
cũng đã nghe nhiều con vẹt hót nhiều chuyện rất hay rất lạ.
Vẹt ngắt lời:
- Anh nghe đấy là vẹt rừng. Chúng không được dạy dỗ gì cả.
"Thôi để yên cho chúng ta sống làm người với chứ! Sao mày không
cười lên. Bà chủ và khách cũng đang cười kia kìa. Mày không biết
thưởng thức những cái hay cái dở ở đời. Thôi thôi! để yên cho chúng
tao sống làm người với chứ!
Hoàng yến cũng hót lên cho người bạn mới nó là con chim sẻ
nghe:
"Mới đây không lâu tôi còn bay lượn dưới bóng dừa xanh và
bóng cây hạnh đang nở hoa. Tôi bay cùng các anh chị tôi trên rừng
hoa thơm ngát, trên mặt biển trong vắt, trên bờ rợp bóng cây. Tôi
cũng đã nghe nhiều con vẹt hót nhiều chuyện rất hay rất lạ.
Vẹt ngắt lời:
- Anh nghe đấy là vẹt rừng. Chúng không được dạy dỗ gì cả.
"Thôi để yên cho chúng tao sống làm người với chứ! Sao mày không
cười ầm lên. Bà chủ và khách cũng đang cười kia kìa. Mày không biết
thưởng thức những cái hay ở đời. Thôi!thôi để yên cho chúng tao sống
làm người với chứ!
- Mày còn nhớ bóng dáng các cô xinh đẹp nhảy múa dưới rặng
chuối đang trổ hoa hay không! Có nhớ những khu rừng già rợp bóng
mát và đầy hoa thơm quả ngọt không?
 78

Vẹt đáp:
- Có chứ! Nhưng bây giờ tao thấy sung sướng hơn. Tao được
nuôi nấng đầy đủ, được đối xử tử tế. Tao thấy thế nàyy là thoả mãn
rồi không còn gì hơn nữa. Từ nay trở đi chúng ta hãy sống như người
thật. Hãy bỏ giọng hót bi ai của mày đi! Hãy nói cái gì làm cho người
ta cười lên. Tiếng cười biểu hiện sự thông minh đã đến tuyệt đỉnh.
Chó hay ngựa có biết cười đâu? Chúng nó kêu thì được, chứ cười thì
không. Chỉ có loài người mới biết cười.
Từ nay trở đi chúng ta sẽ sống như người thật.
Hoàng yến quay lại sẻ nói:
- Này chú chim sẻ xứ Đan Mạch. Thế là chú cũng bị cầm tù rồi.
Chú sống trong cánh rừng chắc rét lắm, nhưng mà được tự do. Hãy
quay về đi thôi. Chuông chú người ta quên đóng cửa. Phía trên lại có
cái cửa sổ để ngỏ. Trốn được đấy! Trốn đi!
Không một phút do dự, chim sẻ nhảy phắt ra khỏi lồng. Cùng
lúc có tiếng cửa phòng rít lên. Một ocn mèo mắt xanh lẻn vào săn
chim. Hoàng yến vùng vẫy kêu lên. Từ nay chúng ta hãy sống với
nhau như người thật! Ông tham sợ quá, vội bay vọt ra khỏi lồng, rồi
chẳng phương hướng gì, cứ mải miết bay, qua nhà cửa, phố phường.
Đến lúc mỏi cánh, ông dừng lại xả hơi. Thấy nhà bên cạnh quen
quen, có một cửa sổ để ngỏ, ông bay vào.
Lại chính nhà ông! Ông ngồi ngay vào bàn, chẳng suy nghĩ gì,
chỉ nhắc lại câu nói của con vẹt: "Từ nay trở đi chúng ta hãy sống
như người thật".
Và, kỳ diệu sao, ông tham lại biến thành ông đang ngồi ở bàn.
Ông kêu lên:
- Lạy trời phù hộ! Thế nào mà mơ xong, mình lại ngồi đây! Lúc
nãy mới lo làm sao chứ! Thật là dại dột!
Sáng sớm tinh mơ hôm sau, ông tham còn đang nằm trên
giường đã nghe tiếng gõ cửa. Đấy là một anh sinh viên khoa thần
học, nhà ở phòng bên cạnh, cùng một gác. Anh bước vào khẩn khoản:
 79

- Bác cho tôi mượn đôi giầy. Ngoài vườn ướt quá, tôi muốn ra
thở hít không khí trong lành buổi sáng.
Anh xỏ giầy vào chân và xuống ngay dưới vườn. Trong vườn chỉ
có một cây táo và một cây mận. Nhưng giữa thủ đô Côpenhagơ mà có
được một mảnh vườn dù nhỏ cũng là thú vị. Anh sinh viên đi bách
bộ. Trời còn sớm. Chưa đến sáu giờ. Ngoài phố bỗng vang lên tiếng tù
và của người đánh xe ngựa. Nghe tiếng vó ngựa lọc cọc trên đường
cái quan, anh liên tưởng ngay đến chuyện du lịch và kêu lên:
- Ôi du lịch! Du lịch thật là sung sướng, thật là hạnh phúc ở
đời. Ta không mong gì hơn. Đó là liều thuốc an thần giữa lúc ta đang
bị tâm can cắn rứt. Ước gì ta được sang Thuỵ Sĩ một chuyến, rong
ruổi qua nước ý.
Cầu được ước thấy. Cũng như những người trước anh xỏ đôi
giầy hạnh phúc vào chân, ước cái gì được ngay cái ấy. Anh sinh viên
ước đi du lịch, lập tức đôi giầy đã đưa anh sang nước ý đúng như
mong ước của anh. Anh ngồi trong một cái xe ngựa, giữa mấy kiện
hàng. Anh thấy nhức óc, khó thở, đầu nặng như chì, máu dồn xuống
đôi chân nhét chật cứng trong ủng. Anh thấy như nửa tỉnh nửa mê;
túi bên phải anh để phiếu tín dụng, túi bên trái để giấy thông hành,
trên ngực lại lủng lẳng một cái túi đựng mấy đồng tiền vàng và khâu
kỹ bên trong. Cứ hễ chợp mắt lại mơ thấy một thứ gì đấy. Thế là anh
giật mình tỉnh dậy, vội vàng sờ xem có còn không. Chẳng đêm nào
được ngủ yên giấc. Suốt ngày cứ như thấy có kẻ đến cướp đến trấn
lột. Rồi mũ, ô, gậy quặc trên mui xe cứ đung đưa và vào đầu vào mặt
làm anh bứt rứt khó chịu.
Cảnh vật xung quanh vĩ đại, oai nghiêm, những cánh rừng
từng nhô ra trên vách núi dựng đứng, đỉnh núi khuất trong sương
mù. Tuyết bắt đầu rơi, trời lạnh. Anh bắt đầu cảm thấy chán cảnh
ngao du nơi đây. Anh nghĩ thầm:
- Ước gì lại được sang phía bên kia dãy núi Anpơ! Sang bên ấy
sẽ được sống khí hậu mùa hè và được lĩnh tiền bằng phiếu tín dụng.
Giá lạnh thế này chẳng muốn ở lại đất Thuỵ Sĩ nữa. Làm sao sang
được bên kia núi nhỉ!
 80

Điều mong ước của anh sinh viên lập tức được thực hiện. Chỉ
một chớp mắt anh đã thấy ở bên kia dãy núi, trên đất ý, giữa
Florăngxơ và Rômơ. Nước hồ Traxinen lấp lánh dưới ánh nắng chiều
tà nom như vàng lỏng giữa màu xanh thẫm của núi non, nơi xưa kia
Anniban đã đánh bại những cây du thụ xanh tươi một cách thanh
bình. Bọn trẻ con mình trần đang chăn đàn lợn đen trong cánh rừng
nguyệt quế màu hồng toả hương thơm ngát hai bên đường. Giá tôi có
tài mô tả được đầy đủ cảnh tượng mỹ lệ nơi đây, chắc bạn đọc phải
kêu lên: "nước ý đẹp quá!" Nhưng anh sinh viên của chúng ta và các
khách du đi cùng xe với anh, chẳng ai reo lên như thế một lời nào.
Côn trùng và ruồi muỗi bay quanh chiếc xe. Họ lấy cành xim xua
chúng đi nhưng không được. Không một người nào trong xe không bị
chúng đốt cho sưng mặt. Chúng bâu vào cả mắt mặt những con ngựa
kéo xe, làm ngựa phải vất vả mới nhìn ra đường đi. Từng đàn ruồi
xông vào đốt chúng, người đánh xe liên tục xuống xe đuổi ruồi cho
chúng. Lúc mặt trời lặn, gió nổi lên làm cảnh vật rung chuyển. Núi
non toàn một màu xanh ngắt. Đến tận nơi ngắm mới thấy thật là
hùng vĩ. Những lúc này du khách đang đói bụng. Họ mong được gặp
một quán trọ để ăn nghỉ hơn là cảnh đẹp thiên nhiên.
Lúc qua một cánh rừng ô-liu, anh sinh viên thần học lại nhớ về tổ
quốc mình. Anh thấy những cây ô-liu ấy không đẹp bằng những cây
liễu già xu xi đấy mấu nơi quê hương mình. Đi thêm một quãng nữa,
họ đến một quán trọ quạnh hiu. Trước cửa quán là một tốp ăn mày,
người thì chân thọt, người thì mụn nhọt đầy tay, người thì tay thọt
đến tận khuỷu. Họ thi nhau kêu xin cứu giúp, giọng rền rĩ xé ruột xé
gan. Anh sinh viên vất vả lắm mới thoát khỏi vòng vây của họ, để
vào quán trọ. Chủ quán là một mụ già, quần áo bẩn thỉu, đi đất, tóc
xoã, miệng mỉm cười, trông ghớm ghiếc như con quỷ cái, ra mời
khách. Cửa quán buộc bằng dây thừng, trần nhà đầy dơi đậu, một
mùi hôi kinh khủng vào mũi.
Một khách hàng hỏi:
- Dọn bàn ăn xuống chuồng ngựa có được không, bà chủ. Xuống
đấy chỉ có riêng mùi phân ngựa, chứ ở đây đủ mọi thứ mùi, ngồi đây
ăn sao nổi.
 81

Bà chủ quán hiểu ý, ghé mở cửa phòng cho thoáng; nhưng cửa
vừa mở, cả đoàn ăn xin xô đến, van nài:
- Xin các ông các bà cứu khổ cứu nạn, giúp cho kẻ khốn cùng.
Nhà hàng bưng mâm ra. Vừa đặt mâm xuống mùi hạt tiêu và dầu xả
xông lên. Trứng thì ung, thịt gà thì khét, rượu vang thì pha, khó
uống quá, đắng như thuốc.
Đêm ngủ không an toàn. Khách phải lấy xích sắt cửa, thay
nhau thức để canh gác. Trong nhà không khí ngẹt thở. Bên ngoài lũ
ăn mày vẫn lảm nhảm: "Xin các ông các bà cứu khổ cứu nạn, giúp
cho kẻ khốn cùng."
Trong lúc còn đang mắt nhắm mắt mở, anh sinh viên thần học
cứ tưởng mình đang trên giường một căn phòng, giữa thủ đô
Côpenhagơ, dưới kia là mảnh vườn nhỏ có cây táo và cây mận.
Đến lúc tỉnh hẳn, anh ta mới nhớ ra rằng mình đang trên đường đi
du lịch tại nước ý. Dần dần anh nhớ ra những nhọc nhằn vừa trải
qua và những chán ngán gặp phải trên đường. Rồi anh nằm chen
chúc trên một ổ rơm hôi hám, chốc nữa mới dậy lại ngồi vào bàn ăn
món gà khét lẹt, trứng tráng ung, rượu vang pha uống đắng như
uống thuốc trong một căn phòng bí hơi, vừa ăn vừa nghe lũ ăn này
lảm nhảm ngoài cửa: "Lạy ông, lạy bà, cứu khổ cứu nạn, giúp kẻ bần
cùng".
Anh sinh viên nghĩ bụng:
- Giá đi du lịch mà chỉ đem theo cái hồn thôi thì khoái biết mấy!
Chứ như thế này thì phiền toái quá! Ước gì mình chỉ có linh hồn
không thôi nhỉ. Như vậy khoái hơn, cứ như thế này chẳng khoái tí
nào!
Anh sinh viên nghĩ như thế bỗng dưng anh thấy mình đang ở
quê nhà. Rèm trắng dài buông rủ trên các cửa sổ. Giữa phòng đặt
một chiếc quan tài sơn đen, trong đó xác anh sinh viên đang nằm
ngay ra bất động, còn linh hồn thì đang chu du thiên hạ.
Một học giả Aten cổ đại là Xôlông đã có lần nói:
 82

"Đừng có vội vàng nhận định ai sung sướng trước khi người ấy
chết".
Câu nói ấy của nhà học uyên thâm đã được thể hiện trong câu
chuyện tôi kể trên đây.
Hai cái bóng bước vào phòng. Đó là thần Trừng phạt và sứ giả
của thần Hạnh phúc. Hai thần ghé xuống nhìn xác chết.
Thần Trừng phạt hỏi:
- Đi giầy hạnh phúc đã đem lại hạnh phúc gì cho người trần?
Thần kia trả lời:
- Đã đem cái chết dịu dàng, cái chết giữa tuổi thanh xuân cho
anh ta trước khi anh ta phải nếm mùi khổ hạnh của cuộc sống.
- Cô nhầm rồi! Thần trừng phạt lại nói. - Anh ta đã chết quá
sớm. Sống chưa hết kiếp. Do vậy tuy anh ta có quyền hưởng hạnh
phúc sau nhiều thử thách gian lao, nhưng anh ta đã không được
hưởng. Ta sẽ thực sự cứu giúp anh ta.
Nói rồi thần trừng phạt tháo đôi giầy hạnh phúc từ chân anh
ra. Anh sinh viên bỗng tỉnh dậy. Cả thần Trừng phạt lẫn đôi giầy
biến mất.