Có thể quí vị chưa nhận ra, nhưng hiện nay chúng ta từng ngày từng giờ đang được thừa hưởng những lợi ích lớn lao do khoa học đem lại. Ví dụ, khi bật đài quí vị có thể yên tâm là sẽ được nghe âm nhạc phát ra từ đó; nhưng đã bao giờ quí vị tự ngẫm nghĩ rằng liệu điều kì diệu ấy có xảy ra được không nếu thiếu vắng đóng góp của các nhà khoa học?
Ðúng thế: bên trong đài chắc chắn phải có các nhà khoa học tí hon đang chơi nhạc!
Vâng, khoa học đóng vai trò sống còn trong cuộc sống của chúng ta: nhưng khi động đến vấn đề hành trang khoa học thì rất cỏ thể quí vị còn hiểu biết quá ít. Tôi viết như vậy dựa trên một nghiên cứu gần đây của Tổ chức Khoa học Quốc gia, cho biết hầu hết dân Mĩ không nắm được những định luật cơ bản của khoa học.
Ðể minh chứng kết luận trên với chính bản thân mình, quí vị hãy thử sức với ba câu hỏi sau đây, trích từ các câu hỏi của Tổ chức Khoa học Quốc gia:
1. Ðúng hay sai: con người đầu tiên đã từng sống cùng thời với khủng long?
2. Cái gì chuyển động nhanh hơn: ánh sáng hay âm thanh?
3. Hãy cho biết ADN là gì?

°°°

Quí vị đã xong chưa? Nào, chúng ta thử xem đáp án.
1. SAI. Thực tế là tất cả các con khủng long đã bị diệt chủng khoảng hơn một tuần trước khi xuất hiện con người đầu tiên, có lẽ dưới dạng như Bob Dole. Ấy thế mà hầu hết dân Mĩ lại lầm tưởng rằng loài người và khủng long đã từng chung sống. Hiểu biết sai lầm này bắt nguồn từ những thông tin đại chúng hết sức lệch lạc, điển hình là một sêri phim hoạt hình hàng ngày "Gia đình Flintstones", trong đó có một gia đình hoang dã Flintstones nuôi một chú khủng long tên là Dino.
Nhưng trái lại, theo các nhà khảo cổ học, những người đã nghiên cứu rất kĩ các hoá thạch với độ chính xác rất cao bằng một phương pháp gọi là "bán rã đồng vị carbon", thì Dino thực ra chỉ là một nhân vật do diễn viên đóng giả thôi. "Tôi cho rằng đó là Barney", một nhà khảo cổ học gần đây vừa tuyên bố.
2. Ðể trả lời câu hỏi này, chúng ta cần quan sát một cơn bão ập đến và khi một tia sét đánh xuống. Ðầu tiên quí vị sẽ nhìn thấy tia chớp; rồi sau đó nghe thấy tiếng sấm; tiếp đó là tiếng người thét lên, nếu tia sét đánh trúng ai đó; cuối cùng là các tiếng kêu, tiếng la hét của những người đứng gần đó và chứng kiến cảnh này. Từ hiện tượng này chúng ta rút ra kết luận là ánh sáng đi nhanh hơn âm thanh, bởi vì ánh sáng xuất phát từ trên trời và lập tức bị lực hấp dẫn hút xuống, còn âm thanh thì chuyển động lan toả và bị chuyển động tự quay của quả đất kéo đi.
3. ADN là viết tắt của một thuật ngữ di truyền học "deoxy ribonucleic antidisestablisment arianis - m", một chuỗi kí tự rất phức tạp được tìm thấy bên trong cơ thể con người dưới dạng những gen rất nhỏ được gọi là "chromosomes". Thông tin chứa trong chuỗi ADN quyết định các đặc tính sinh học của mỗi chúng ta như giới tính, màu mắt, tuổi tác, và số chứng minh thư. Các nhà di truyền học cũng có một khám phá kì diệu là các gen này rất giống với các gen của những loài động vật khác.
Phát minh trên đã đưa đến một hướng nghiên cứu mới phục vụ nhân loại bằng cách thay đổi gen, điển hình là các thí nghiệm với ruồi giấm để tách ra được gen gây bệnh hói đầu. Các nhà sinh vật học sở dĩ chọn ruồi giấm để nghiên cứu vì họ nhận thấy hầu hết ruồi giấm đều không có tóc. Chương trình này đã kéo dài chín năm và tiêu tốn 31 triệu đô la, nhưng kết quả thì thật hoàn mĩ: khi đối chiếu một nhóm các ruồi giấm đã đổi gen với các ruồi giấm không đổi gen, người ta đều thấy đó là các chấm đen, bởi vì cách duy nhất mà nhà sinh vật học bắt ruồi giấm đứng im để quan sát dưới kính hiển vi là đập bẹt chúng một cái bằng cuốn tạp chí Khoa Học Hoa Kì Hôm Nay.

°°°

Nếu câu trả lời của quí vị không đạt theo đáp án thì cũng xin đừng quá lo lắng. Quí vị không đơn độc, vì theo kết quả của Tổ chức Khoa học Quốc gia, có 25%, tức là cứ 6 người thì mới có một người, trả lời đúng những câu hỏi trên.
Và nếu quí vị cho rằng đó là một nhận xét đáng buồn, thì có lẽ quí vị nên xem những bức thư độc giả sẽ gửi cho tôi, trong đó có bài viết này gửi kèm với đoạn "25%" và "6 người thì có một" được khoanh tròn trong mực đỏ với hàng đống nhận xét rằng con số ấy không đúng.


NHỮNG BƯỚC NGOẶT KHÓ QUÊN TRÊN TÌNH TRƯỜNG

Tình ái lắm khi làm cho người ta có những hành động đến là kì quặc, ví dụ như lần tôi tè vào bộ áo choàng của mình. Ðấy là hồi học lớp 6, khi tôi thật sự yêu lần đầu. Kể ra thì trước đó tôi cũng đã từng phải lòng cô bạn Michelle học cùng lớp 2 - Michelle là bạn gái duy nhất ở lớp nhớ được cần phải cất những chiếc bút phớt Crayola vào hộp theo thứ tự nào: đỏ, cam, vàng, xanh lá cây, xanh nước biển, tím, nâu và đen. Nhưng rồi Michelle không tỏ ra có năng khiếu gì hơn nữa, và hoàn cảnh cũng chia lìa hai đứa chúng tôi.
Một thời gian dài sau đó không có ai làm tôi để ý lắm, mãi cho đến năm lớp 6, khi Susan chuyển đến học cùng trường. Cô bé hội tụ đủ những gì tôi thích ở bọn con gái: thấp. Chỉ có mỗi một khiếm khuyết là cô bé thích ngựa quá. Cô ấy thậm chí còn mơ tưởng đến một chú ngựa nào đó tên là ''Frosty''. Tôi vẽ chữ ''Sue'' và vở của mình, lồng trong hình trái tim. Còn trong vở của Susan tôi thấy hình chữ ''Frosty''. Bây giờ nghĩ lại tôi thấy là chúng tôi kết đôi thế nào được kia chứ.
Nhưng biết đâu đấy, tôi vẫn thử. Tôi đã mời Susan tham dự Dạ hội Hallowen. Ðấy là một việc làm phải nói là ''phi thường'': một học sinh lớp 6 nói chung sẽ không mời bạn gái đi hội Hallowen. Những gì cu cậu làm vào đêm hội là lấy trộm xà phòng cạo râu của bố, sau đó gia nhập cùng đám con trai khác đi xịt xà phòng vào ô tô hay hộp thư ngoài đường, rồi chạy nhống lên như vừa cướp nhà băng. Khi ló mặt đến Hội Hallowen năm ấy do mẹ tôi chủ xướng, tôi đã trở thành một điều gì đó thật bất thường vì trong đám bạn cùng lứa tôi là đứa con trai duy nhất xuất hiện cùng con gái, hay nói một cách chính xác hơn là đứng trong vòng 3 mét với một đứa con gái. Thế là chốc chốc lại có mấy cu cậu nào đó chạy ra, xịt xà phòng về phía tôi rồi biến dạng sau quầy. Quãng thời gian giữa những lần bị tấn công ấy, tôi và Susan tâm sự với nhau về chuyện ngựa và nhảy theo điệu bài "Mack the knife".
Rốt cuộc thì tôi cũng có nhu cầu cần phải vào nhà vệ sinh. Nhưng tôi đâu dám vào đấy vì nhà vệ sinh lúc bấy giờ là "căn cứ trung tâm toàn cầu của đội xà phòng cạo râu". Thế là tôi đành phải ra ngoài chỗ tối. Tôi xin viết rõ một chút rằng lúc ấy tôi bận một chiếc áo choàng nhung đen. Mục đích làm sao cho giống anh chàng Zorro phong tình bảnh bao trên màn bạc, nhưng kì tình tôi trông không khác gì một con dơi đeo kính. Tôi đâu có quen xả hơi ngoài chỗ tối mà lại mặc áo choàng như vậy. Kết quả là chiếc áo chùng xuống và ướt hết cả. Tất nhiên đó là thời điểm thảm hại nhất trong đời, mà mãi cho đến hôm nay tôi vẫn không hiểu được là tại sao tôi đã không nhận ra điều ấy và rút súng tự sát quách cho xong. Thay vào đó tôi đã quay lại đám hội, mang theo cả cái mùi không khác gì căn phòng Gentlemen ở nhà ga xe lửa. Chuyện với Susan thế là đi tong.
Gần đây tôi có dịp gặp lại Susan tại cuộc gặp mặt tựu trường sau 15 năm. Cô ấy không đả động gì đến vụ Hallowen năm nọ. Chắc là cô ấy muốn tỏ ra tử tế thế thôi, chứ thực tình cô ấy hẳn vẫn luôn nghĩ về chuyện đó và thỉnh thoảng phá ra cười khi đứng xếp hàng trả tiền ngoài siêu thị.
Bước chuyển biến tiếp theo là vấn đề bộ ngực. Bọn con gái nghỉ hè hết lớp 6 còn chưa có, và bước vào lớp 7 với đầy đủ cả. Cứ như thể tất cả vừa qua một khoá tập huấn thể hình vậy. Bọn con trai chúng tôi từ trước đến giờ, đành rằng vẫn phải công nhận một điều là chúng tôi luôn để ý đến con gái, nhưng vẫn chưa biết rõ là mình muốn gì, thì nay đột nhiên lại hiểu ra chính xác là mình muốn gì ở bọn con gái: muốn nhìn thấy con gái ở trần. Bọn con trai chúng tôi dành hầu hết thời gian đi dạo để tưởng tượng và luận đàm xem bộ ngực con gái thật sự trông nó ra sao. Tất nhiên hồi bấy giờ đâu đã có các thông tin đáng tin cậy về đề tài này.
Trong suốt thời gian lớp 7 và 8, tôi theo đuổi Barbara. Nàng đeo đầy cổ vòng kim loại các loại, có lẽ đủ để nạp đạn cho mấy khẩu súng máy. Nhưng bù lại nàng không ưa gì lũ ngựa và có những đồn đại rằng một lúc nào đó sẽ được nàng cho phép hôn. Nhà nàng cách nhà tôi 7 dặm. Có một ngày thứ Bảy nọ, bất chấp trời đông tháng giá tôi vẫn tha thẩn lang thang quanh nhà nàng đến những hai giờ đồng hồ, với một tia hi vọng trong đầu rằng liệu có một lúc nào đó nàng chợt mở cửa, chạy ra khỏi nhà, ôm choàng và hôn tôi. Tất nhiên điều ấy không xảy ra, rất có thể đó chẳng qua là vì đôi môi của tôi lúc bấy giờ đã lạnh cóng và biết đâu sẽ đóng thành băng mất khi chạm đến những chiếc vòng cổ của nàng.
Cuối cùng thì tôi cũng hẹn gặp nàng. Tôi thu xếp cuộc hẹn qua một tay trung gian - đấy là cách người ta vẫn thường tiến hành hầu hết các hoạt động xã hội thời bấy giờ. Người trung gian là Pat, bạn thân của nàng. Với sự giới thiệu của Jeff, tôi và Jeff đã gặp Pat, đề nghị rằng tôi muốn rủ Barbara đi xem phim. Pat đã chuyển đề nghị này đến Barbara, để rồi sau một vài thảo luận, chúng tôi đi đến quyết định là cả bốn đứa sẽ cùng đi xem phim.
Ðến ngày hẹn, tôi và Jeff dành mất cả tiếng đồng hồ để chuẩn bị cho thật chu đáo, trong đó phải kể đến khoản súc miệng nhiều lần bằng "hương liệu mạnh" Listerine, rồi sau đó hai đứa kiểm tra hơi thở của nhau. Bộ phim mang tiêu đề "Bắc tiến Alaska" - đấy là tất cả những gì tôi còn nhớ được về bộ phim vì trong suốt hai tiếng đồng hồ tôi phải luôn luôn chăm chút điều chỉnh vị trí cánh tay trái sao cho nó quàng qua chỗ ngồi của nàng, dịch dần đến bờ vai của nàng với một khoảng cách là một phần tỉ milimét, nhưng không một lần chạm vào thân hình nàng. Thỉnh thoảng tay tôi lại nhói lên đau điếng và tôi không khỏi hồi hợp thở mạnh ra toàn mùi Listerine. Nhưng tôi chỉ dừng lại ở đó bởi vì, lạy Chúa, tôi đang thực sự được quàng tay qua vai người tôi hằng yêu dấu, và tất cả những thứ đó có lẽ cũng đã đủ làm tôi phát điên lên mất, nhất là khi mơ tưởng đến lúc chào tạm biệt nàng bằng một nụ hôn.
Vâng, chúng tôi đã chia tay đúng như vậy. Thật là một buổi tối hoàn hảo, chỉ trừ có đoạn cuối là Jeff không biết đã chui từ chỗ nấp ra lúc nào, miệng phát thành tiếng và tay khua lên mấy động tác bắt chước làm cho Barbara phải bật cười khúc khích. Nhưng đấy chỉ là chuyện vặt. Quan trọng là nàng đã hôn tôi, và tâm hồn tôi đắm say ngây ngất trong tình yêu mãi cho đến ngày hôm sau, khi Jeff thông báo là nàng đã thực sự quan tâm đến một anh chàng Wayne nào đó. Vậy là hết. Barbara và Wayne trở thành một cặp nghiêm túc, và tôi tin rằng họ đã cưới nhau.
Tất nhiên, bây giờ tôi đã trưởng thành hơn nhiều so với hồi cắp sách đến trường, và tôi cũng đã học được nhiều điều về cuộc sống ái tình. Nhưng đến hôm nay tôi vẫn thường nhớ đến Barbara như một kỉ niệm ngọt ngào, và vẫn thường tự hỏi không biết bây giờ nàng sống ra sao? Nàng còn nhớ đến tôi? Nàng có hạnh phúc không? Nàng đã từ bỏ những chiếc vòng năm xưa chưa? Nàng có nhận ra rằng Wayne chỉ là một gã tẻ nhạt không? Tất nhiên điều đó chẳng liên quan nhiều đến tôi.