Liễu Phụng Minh hỏi:
- Từ đây ra khỏi thành mất bao nhiêu thời gian?
- Rất nhanh! Liễu huynh, đầu đuôi là...
Tống Linh Công mới mở lời hỏi, lại bị Liễu Phụng Minh cắt ngang:
- Nhà Tống huynh có gì đáng giá không?
Tống Linh Công ngớ người ra, thầm nghĩ:
- “Sao lão ta hôm nay làm những chuyện kỳ quặc nói những điều không đầu không đuôi”.
Lão quay sang nhìn, thấy thần sắc trên mặt Liễu Phụng Minh rất nghiêm túc thận trọng, bèn trả lời:
- Cũng không có gì đáng giá lắm.
- Vậy thì tốt.
Tống Linh Công như chìm trong mê vụ, cố gạn hỏi:
- Liễu huynh, chuyện hôm nay đầu đuôi thế nào?
Liễu Phụng Minh buông tiếng thở dài, kể lại rõ đầu đuôi sự việc.
Trong xe trở nên im lặng rất lâu, chỉ có tiếng bánh xe lăn lộc cộc trên con đường vắng không người. Tống Linh Công đưa mắt nhìn vầng trăng chênh chếch phía Tây, than:
- Chuyện đã đến như vậy...
Liễu Phụng Minh tiếp lời:
- Chuyện đã như vậy, theo tại hạ nghĩ, tuổi chúng ta đều đã xế chiều, chí khí thời niên thiếu cũng đã nguôi lắng, việc gì phải cùng họ tranh chấp những nỗi đoạn trường.
Tống Linh Công vung tay phẫn nộ nói lớn:
- Ta không phục, phải ra tay trị bọn hắn mới được.
Liễu Phụng Minh vỗ nhẹ trên vai lão khuyên:
- Tống huynh làm vậy sợ rằng trong võ lâm sinh ra lắm chuyện rắc rối.
Nhìn qua song cửa xe, thấy sắc trời mờ ảo, khung cảnh vắng lặng, chiếc xe đã ra khỏi thành, Liễu Phụng Minh chuyển giọng nhẹ nhàng:
- Huynh đệ ta đã đặt chân khắp trong hải nội, chỉ có hải ngoại là chưa một lần đến, tiểu đệ muốn đến đó thưởng ngoạn phong cảnh. Tống huynh cùng đi với tiểu đệ một chuyến có được không?
Tống Linh Công cảm kích nắm tay Liễu Phụng Minh. Làn gió nhẹ thoảng qua lằm chòm râu dưới cằm Liễu Phụng Minh phất động. Dưới ánh trăng chiếu rọi, thấy rõ từng nếp nhăn trên mắt lão.
- Chúng ta đều già rồi.
Tống Linh Công ngầm than, hùng tâm trán khí trong lòng tự nhiên cũng tan biến.
Lão bắt đầu có phần hối hận, hối hận vì đã thẳng tay vào chuyện sát hại Cưu Độc ở núi Thái Nhĩ.
- Ôi! Vật đổi sao dời, chuyện cũ đã qua, ta nghĩ lại làm gì? Lão tự nói một mình.
Liễu Phụng Minh cũng đang trầm tư, nghe vậy liền ngẩng đầu hỏi:
- Tống huynh đang nói gì vậy?
Tống Linh Công mỉm cười buông giọng:
- Ta đang nói đến đây huynh đệ ta ngao du nên vui thú biết dường nào?
Liễu Phụng Minh cũng hiểu được lão đang nghĩ gì. Chợt hỏi:
- Hai huynh đệ họ Uông này tính sao?
Tống Linh Công nhíu mày, bảo:
- Đẩy họ xuống xe là xong. Dù sao sau mấy tiếng nữa huyệt đạo sẽ thông, lẽ nào họ lại không tự trở về được?
- Đúng!
Liễu Phụng Minh mở cửa xe và đẩy nhẹ, “bịch, bịch” huynh đệ họ Uông bị rơi xuống nằm lăn bên lề đường.
Gã phu xe nghe tiếng động quay đầu hỏi:
- Tống gia, gì vậy?
- Không có gì cả.
Gã phu xe hỏi tiếp:
- Vậy hai vị cần đến đâu?
- Cứ đi thẳng cho đến khi trời sáng, tới đâu thì tới.
Liễu Phụng Minh chợt lấy trong người ra một bao nhỏ, trên bao có những vết máu, nói:
- Nắm tàn cốt này của Cưu Độc, tiểu đệ cũng không muốn giữ trên người nữa làm gì.
Lão thuận tay ném nó khỏi xe.
Tống Linh Công hỏi giọng ray rứt:
- Sao lại ném tàn cốt của người ta ở nơi hoang dã này?
Lão chuyển giọng đượm buồn:
- Mong sao Cưu Độc không có hậu nhân, nếu không thì mối huyết hải thâm cừu này làm sao báo thù cho sáng tỏ được?
Nghĩ lại thi thể của Cưu Độc lúc này vẫn đang để ở trong nhà, lão bất chợt rùng mình.
- Tống huynh, bảy chữ “mười năm sau, lấy máu trả máu” đó có phải do Tống huynh viết không?
Liễu Phụng Minh bất ngờ hỏi, Tống Linh Công lắc đầu, không trả lại câu hỏi đó, trong lòng lão như đang rối rắm nan giải.
Chiếc xe lăn bánh nhanh hơn, từ từ khuất hẳn trong màn đêm.
*
Mùa thu qua mau, mùa đông giá lạnh lại đến.
Trong những tháng ngày lạnh lùng và hiu quạnh này, Mao Băng sống trong tâm trạng cô đơn và đau buồn.
Ngoài trời tuyết rơi trắng xóa, Mao Băng mở toan song cửa mặc cho tuyết lùa vào phòng.
Tuy thân thể chịu cái lạnh thấu xương, nhưng có như vậy nỗi thống khổ trong lòng nàng mới vơi đi được phần nào.
Có một người thiếu phụ đẩy cửa bước vào phòng, trên tay ẵm đứa trẻ đang cuộn mình trong chăn. Bà ta bước lại cạnh bên Mao Băng, mỉm cười hỏi:
- Băng muội, những ngày này vẫn khỏe chứ?
Thả mắt nhìn những làn tuyết rơi, bà ta nói tiếp với giọng u buồn:
- Sắp hết năm rồi, không biết sao ca ca muội vẫn chưa trở về.
Mao Băng gượng nụ cười trên môi, vẫn đứng lặng yên.
Thiếu phụ bước quanh phòng mấy bước, rùng vai nói:
- Lạnh thật!
Bà ôm đứa trẻ càng chặt hơn, mở lời khuyên.
- Băng muội, thiên vạn lần hồ tư loạn tưởng, có gì để cái bào thai muội ra đời rồi nói sau, hiểu chưa?
Mao Băng gật đầu đáp:
- Muội hiểu, đại tẩu, muội xin cám ơn Thiếu phụ nở nụ cười hài lòng rồi bước đi.
Đứa trẻ trên tay chợt phát khóc, bà ta vỗ về, nói:
- Hài nhi, chớ khóc, cha con sắp về rồi.
Bà ngoái đầu mỉm cười, nhìn Mao Băng một lần nữa rồi bước ra khỏi phòng.
Mao Băng bước lại đóng cửa phòng, nghiêng mình nhìn vào gương. Ôi, hình bóng nàng trong gương tiều tụy đi nhiều so với trước đây.
Nàng nhìn xuống bụng mình đang mang thai, thở ra một hơi mệt mỏi, nghĩ:
- “Sao nhanh thế này, xem ra đã sắp đến ngày sinh nở rồi”.
Nàng đau buồn cất tiếng thở than:
- Nhưng cha của nó đâu?
Hàm răng trắng như tuyết cắn chặt vào môi, giọng nàng tức tưởi:
- Cha của nó vĩnh viễn không trở về.
Hình ảnh Cưu Độc anh phong tuấn tú hiện lên trong đầu nàng.
Gần đây trong võ lâm xảy ra rất nhiều phong ba. Mao Băng tuy thời gian này không hành tẩu giang hồ, nhưng mọi tin tức trong võ lâm nàng đều biết rất rõ qua những lời bàn tán của các đệ tử Linh Xà Mao Cao (ca ca của nàng).
Cưu Độc chết rồi, Liễu Phụng Minh và Tống Linh Công tự nhiên biến mất trong võ lâm. Mao Cao dẫn bảy người còn lại trong nhóm Thất kiếm Tam tiên làm những chuyện chấn động võ lâm.
Ở Giang Nam, hễ bất cứ một tiêu cục nào hay một nhóm người nào có liên quan đến Tống Linh Công đều bị Mao Cao tiêu diệt. Vì vậy, Mao Cao trở thánh nhân vật đứng đầu trong võ lâm Trung Nguyên hiện thời.
Những đệ tử của Mao Cao cao hứng nói với Mao Băng:
- Đại gia bây giờ thật tuyệt vời. Nghe nói đại gia định khai tông lập phái, quyết tranh một phen trống mái với mấy đại tông phái khác trong võ lâm Trung Nguyên.
Đối với những tin tức này Mao Băng không những vui mừng, ngược lại còn cảm thấy hổ thẹn, đau khổ và ân hận.
Nàng hận vì những chuyện mà mình đã gây nên, nàng hận chàng ca ca của nàng là kẻ vô liêm sỉ. Nhưng những điều đó nàng chôn tận đáy lòng, vì người mà nàng thù hận nhất lại là chính mình.
Cuối cùng, nàng không thể chịu đựng được nữa, không muốn sống trong căn nhà đã khiến cho nàng đau khổ này nữa, và cũng không muốn nhìn lại mặt Mao ca ca một lần nữa.
Vào một đêm tuyết rơi dày đặc, Mao Băng bỏ ra đi. Suốt đêm dài lạnh cóng, nàng ngồi trên mình ngựa, cũng không biết nên đi đến phương nào?
Hàn Châu chìm ngập trong mùa đông lạnh giá, Mao Băng lững thững cho ngựa đi về phía thành đông. Thiếu nữ mỹ lệ lại đơn độc lẻ bóng, khiến cho người đi đường chú ý không ít. Có người chỉ trỏ bàn tán. Làn gió thoảng qua làm lật ngược tà áo, có người để mắt nhìn, thầm thì:
- Ồ, sao bụng cô ta to thế? Lẽ nào cô ta du nhân dưỡng hán?
Mới nói nửa lời. trên đầu bị vỗ mọt cái, người đứng cạnh bên trợn mắt bảo:
- Tiểu tử, ngươi biết vị cô nương đó là ai không mà lại nói bậy bạ?
Hừ một tiếng, gã ta nới tiếp:
- Cô ta chính là muội muội của Mao đại gia đấy. Ngươi khéo cả mất đầu khi nào không hay.
Gã kia bị vỗ đầu đùng đùng nổi giận, nhưng khi nghe đến tên Mao đại gia, gã ta vội cúi đầu lủi thủi chuồn gấp.
Mao Băng trong lòng nhiễu loạn, chẳng có gì làm nàng đặt vào tai. Ngồi trên ngựa bị xốc khiến cho năng buồn nôn.
Tuyết rơi ít dần, trên đường càng đông người qua lại, họ dường như chẳng kể gì cái giá lạnh giữa trời. Mao Băng tỏ ra nhạc nhiên, sau đó nghĩ lại, thì ra họ trở về đoàn tụ bên mái ấm gia đình.
Mao Băng càng u sầu, trái tim càng co thắt lại. Nàng thả mắt nhìn theo dòng người xuôi ngược. Bỗng ánh mắt bi hoa đi, nàng chợt phát hiện giữa dòng người có hình ảnh kỳ dị.
Từ xa đang tiến đến hai người, thân hình cao quá cỡ, lại một mập một gầy.
Người mập còn dễ coi, người gầy trông đến phát khiếp. Điều rất kỳ quái là y phục hai người phát ra tiếng kêu leng keng. Đến gần nhìn, thì ra y phục của người mập là từng mảnh bằng đồng kết lại, còn y phục người gầy được kết toàn những tấm bằng vàng.
Lúc này đã là ban trưa, tuyết từ mặt đất phản chiếu, làm cho y phục trên người hai vị quái khách sáng lên đến chói mắt. Khi ánh mắt chạm vào mặt họ, Mao Băng lạnh toát cả người, vội quay nhìn sang hướng khác.
Hai vị quái khách không những có diện mạo kỳ dị, mà trong ánh mắt họ lại có uy lực kinh hồn. Mao Băng trống ngực đập dồn, thầm nghĩ:
- “Bọn họ lai lịch từ đâu?”
Mao Băng sinh trưởng từ gia thế võ học, tuy võ công không cao nhưng về võ đạo nàng hiểu rất rõ. Nàng phán đoán:
- Võ công hai vị này xem ra còn cao hơn cả Mao Cao.
Nghĩ đến Cưu Độc, nàng so sánh:
- So với Cưu huynh, họ không hơn không kém. Nhưng trong võ lâm Trung nguyên lâu nay sao không nghe nói đến hai nhân vật này? Lẽ nào họ từ hải ngoại đến?
Nên biết rằng hễ là kim loại tất không thể chống lạnh được, bởi vậy mặc nó trên người khiến càng lạnh thêm. Lúc này vào tiết mùa đông, ngoài trời rất lạnh, thế mà y phục của hai vị khách quái này toàn là những mảnh kim loại gần lại.
Mỗi bước chân của họ tạo nên một dấu lõm tợ như dao khoét trên tuyết, nội công của hai vị này quả thật đã đạt đến mức Hàn thủ bất xâm. Bởi vậy Mao Băng vội quay đầu đi để tránh sự chú ý của hai vị quái khách đó, khỏi phải mang rắc rối vào thân.
Nhưng thật lạ lùng, ánh mất họ cứ chăm nhìn trên mặt Mao Băng. Nàng sợ hãi thúc ngựa đi nhanh.
Hai vị quái khách đánh ánh mắt nhìn nhau rồi cùng đi theo sau lưng ngựa.
Người đi đường thấy vậy đều lo tránh xa.
Mao Băng càng hốt hoảng hơn, lòng bàn tay toát mồ hôi. Đường cái quá đông người nên không thể cho ngựa đi nhanh hơn.
Trước mặt có ngã ba, đường rẽ qua cầu khá đông người, còn hướng khác vắng vẻ.
Ngựa nàng đang cỡi là một con tuấn mã được lựa chọn trong cả ngàn con, bởi vậy nàng cho rằng nếu thúc ngựa phi một mạch sẽ bỏ họ lại đằng sau.
Dây cương giật mạnh, con tuấn mã phi như bay. Nước chua ở dạ dày muốn trào ra cả miệng.
Mao Băng phục người trên ngựa chạy qua mấy dặm đường. Trên đường không một bóng người, nàng cho rằng hai vị quái khách đã bị bỏ lại sau xa, liền cho ngựa chạy chậm lại và ngoái đầu nhìn, bất chợt lạnh toát cả người. Thì ra hai vị quái khách đó cứ bám theo ngựa như bóng với hình. Mao Băng cả kinh thầm nghĩ:
- “Họ định làm gì ta? Lẽ nào...?”
Nàng chợt đỏ mặt không dám nghĩ tiếp.
Mao Băng đơn độc một mình, võ công không cao, bụng lại mang thai, ở nơi hoang dã này kêu trời chẳng thấu kêu đất chẳng nghe.
Nàng thầm trách mình sao lại chọn con đường này để đi. Phía trước vẫn hoang vu, lại như có cánh rừng nhỏ hiện ra, nàng càng lo hoang đến phát khóc.
Mao Băng biết rằng không thể thoát khỏi, bèn cho ngựa đi chậm lại để định ra một chủ ý.
Bỗng nhiên đầu bị choáng váng, con tuấn mã vọt phi nhanh như đằng vân giá vũ. Người nữa vẫn ngồi yên trên ngựa không một chút lay động, thấy cây cối hai bên đường vùn vụt lùi lại đằng sau, tốc độ nhanh đến mức nàng không thể tưởng tượng nổi.
Mao Băng mừng thầm:
- “Lẽ nào Phật tổ hiển thấy, xuống cứu ta chăng?”
Nhưng nàng phân vân không hiểu:
- “Nhưng chuyện gì đang xảy ra thế này?”
Mao Băng càng cảm thấy kỳ quái, muốn quay đầu nhìn thừ đối phương còn bám theo sau lưng không. Nhưng tốc độ phi quá nhanh nên không nhìn thấy gì.
Đột nhiên, đầu càng bị choáng váng hơn, miệng nôn ra nước chua, rồi cả người bất tỉnh nhân sự.
Đến khi thần trí tỉnh lại, Mao Băng phát giác có hai bàn tay đang sờ soạng trên ngực mình.
Vừa thẹn lại vừa sợ hãi, nhưng hai bàn tay sờ đến đâu, nàng cảm thấy rất dễ chịu đến đó. Toàn thân vô lực, nàng hé mở mắt nhìn, thấy hai vị quái khách đang cúi sát đầu, tay họ không ngừng sờ soạng.
Mao Băng nghĩ rằng chuyện gì sẽ xảy ra, trong lòng càng lo sợ, cố dùng hết sức để vùng dậy, nhưng hai mắt bỗng tối sầm, rồi ngất đi.
Tỉnh lại,lần thứ hai, nàng thấy tình huống vẫn như ban đầu, ngạc nhiên nghĩ:
- “Sao họ dùng tay sờ mó như vậy? Lẽ nào chuyện kia họ không hiểu...?”
Nàng chợt đỏ mặt, thầm nhủ rằng sao mình nghĩ những điều không hay như vậy.
Hai vị quái khách này là ai? Sao lại bám theo nàng, và có những hành động kỳ quái như thế?
Bất ngờ, một tiếng quát lớn vang lên, Mao Băng nghe rất quen thuộc:
- Các ngươi thật đê hèn.
Một đạo hàn quang xanh lè xẹt nhanh tới bẻ hướng nhằm đánh xuống lưng hai vị quái khách.
Mao Băng mừng thầm vì có người đến cứu, tim đập hồi hộp, nhưng nghĩ không ra người đó là ai.
Hai vị quái khách vẫn không quay đầu, thân hình cũng không nhích động, Mao Băng chỉ nghe hai tiếng keng keng, đạo hàn quang vụt biến.
Hai bàn tay kia vẫn sờ soạng trên người nàng, hơi ấm từ lòng bàn tay tỏa ra làm cơ thể càng lúc càng nóng ran, toàn thân thư thái dễ chịu.
Lúc này nàng đang ở trong một cánh rừng.
Từ bên ngoài, một bóng người xuất hiện lao vào, kèm theo tiếng quát:
- Các ngươi không dừng tay hả?
Thanh trường kiếm trong tay xé gió chém thẳng xuống lưng hai vị quái khách.
Bóng người xuất hiện bay đến với thế thần tốc đường kiếm vô cùng lợi hại, nhằm đánh vào Tàng huyết huyệt sau hậu đầu người mập và Linh đài huyệt ngay trên cột sống người gầy trong cùng một lúc. Xác định huyệt chuẩn, ra tay nhanh, đây quả là một tay kiếm điêu luyện.
Hai vị quái khách cũng chẳng hề quay đầu nhìn. Chỉ thấy tay phải còn lại của người mập luồng nhanh qua hông và điểm thẳng vào vùng sườn tay kiếm thủ đang ở phía sau, đồng thời chân trái quay một vòng đá ngược vào huyệt Khúc cột.
Còn vị quái khách gầy với cánh tay còn lại xuất ngũ chỉ như móc câu quật ngược lui chộp lấy thanh trường kiếm.
Tay kiếm thủ cả kinh nhảy lùi ba xích, rồi múa kiếm tiếp tục xông tới, kiếm quang lóa lên như cầu vồng xuyên thẳng vào vùng hậu tâm của đối phương.
Hai vị quái khách hừ một tiếng trong mũi, bàn tay của người gầy đột ngột đưa lên như bay thoát khỏi cườm tay.
Đường kiếm bị chém lệch hướng, tay kiếm thủ bỗng cảm thấy cánh tay rùng mạnh, thủ uyển tê buốt, thanh kiếm thoát khỏi tay bay đi rất xa.
Tay kiếm thủ thất sắc, thầm nghĩ:
- “Họ có loại võ công gì khiếp vậy?”
Nhưng tay kiếm thủ võ công bất phàm, từng trải giang hồ, không đến nỗi quá khiếp sợ. Người vẫn đứng vững, anh ta xếch đôi mày kiếm quát lớn:
- Các ngươi là ai? Đang giở trò gì?
Đối phương vẫn như không nghe thấy. Mao Băng lúc này tinh thần đã tỉnh táo, nghe rõ giọng nói trong lòng mừng thầm:
- “Thì ra là Thạch Lân”.
Từ từ mở mắt ra, vẫn thấy hai vị quái khách dán mắt nhìn mình, trong lòng thấp thỏm lo sợ.
Bỗng họ đứng vụt dậy sắc mặt đầy vẻ vui mừng, y phục trên người phát ra tiếng kêu ran rảng.
Tay kiếm thủ vốn có tên Thạch Lân, là đệ tử của Linh Không kiếm khách thuộc phái Võ Đang, một kiếm khách nổi tiếng đương thời.
Thạch Lân xuất đạo mới mấy năm đã vang danh trong giang hồ. Lúc này thấy hai quái khách có những cừ chỉ kỳ quái, anh ta chỉ biết đứng trợn mắt nhìn, trong lòng rất đỗi kinh ngạc.
Hai quái khách cao hứng nhảy nhót một hồi, gã gầy ốm chợt lấy từ trong người ra một vật đưa trước mặt Mao Băng, miệng ríu rít như tiếng chim không biết đang nói gì.
Mao Băng đang nằm dài dưới đất, vừa thoáng thấy vật đó liền la hoảng lên, dùng lực ở tay chân bật người dậy tợ như đạn bắn, cao đến cả trượng.
Thạch Lân kinh ngạc ngầm thốt lên:
- Khinh công của Mao Băng sao lại đạt đến mức như vậy?
Mao Băng vẫn không để ý đến điều đó. Vừa đáp chân xuống đất, miệng kêu lên:
- Trả cho ta! Trả cho ta!
Xem ra vật đó rất quý giá đối với nàng, Thạch Lân thoáng buồn:
- Nàng đã thấy ta sao, chẳng cần gọi ta một tiếng?
Hai vị quái khách dường như nghe không hiểu lời năng nói, mặt vẫn tươi cười, trên tay là một chiếc túi nhỏ bằng da, phía trên có thắt một sợi dây nhỏ bằng vàng. Khi chiếc túi đu đưa phát lên một chuỗi âm thanh nghe chói tai.
Ánh mắt của Mao Băng cứ di chuyển theo chiếc túi trên tay đối phương.
Thạch Lân thấy vậy lấy làm lạ:
- Trong túi đó có ma lực cổ quái sao?
Hai quái nhân thấy thần sắc biểu lộ trên mặt Mao Băng, quay sang nói gì với nhau, nét mặt tỏ vẻ càng hoan hỉ hơn.
Gã to mập cười ha ha nhìn Mao Băng, chìa tay ra như muốn nắm lấy tay nàng.
Thạch Lân càng phẫn nộ, quát lớn:
- Lũ dâm tặc, nạp mạng đây Dứt lời, liền tung chưởng đánh vào huyệt Kiên tĩnh trên vai đối phương.
Vị quái khách sắc mặt chợt biến, xuất ngũ trảo chộp lấy thủ uyển Thạch Lân.
Thạch Lân không ngỡ đối phương phản ứng phàm tốc như vậy, kinh hãi vội thụt tay lại.
Nhưng đã muộn, hữu uyển đã bị ngũ trảo của đối phương chộp trúng.
Thạch Lân vốn được Linh Không chân nhân, cao thủ tuyệt đỉnh của phái Võ Đương truyền thụ võ nghệ võ công quả bất phàm. Nhưng gặp đến hai vị quái nhãn này, nhất thân võ công chẳng thi triển được, chỉ nội một chiêu đã bị đối phương phong trú thủ uyển. Anh ta vừa kinh hãi lẫn phẫn nộ, tay trái còn lại liền xuất thủ chỉ điểm nhanh vào trọng huyệt Cự khuyết ở vùng xương ức đối phương.
Nhưng vị quái khách vẫn như không hay biết. Thủ chỉ của Thạch Lân vừa chạm vào người bỗng lệch hướng trượt đi, anh ta bất giác sững người.
Thì ra y phục trên người đối phương được làm bằng kim loại, với công lực của Thạch Lân hiện tại không thể xuất chỉ điểm xuyên qua lớp kim loại đó được.
Vị quái khách nắm giữ thủ uyển Thạch Lân, vẫn chưa vận toàn lực, chỉ trừng mắt nhìn anh ta, miệng nói gì nghe không hiểu.
Thạch Lân cố vặn toàn lực vừng mạnh, nhưng bàn tay của đối phương tợ như dây thừng thắt chặt vũng thủ uyển. Anh ta trong lòng thầm chấn động, nhớ lại sư phụ từng nói có một loại quyền pháp đã thất truyền từ lâu ở Trung Nguyên.
Quan sát kỹ bàn tay và cơ nhục trên người đối phương, quả nhiên hiện lên màu trắng như ngọc, trong màu trắng đó có ẩn ước một màu xanh nhạt, Thạch Lân kinh hồn thất sắc la lớn:
- Mao muội, trốn đi nhanh. Đây là Hóa Cốt thần quyền.
Mao Băng hồn phách tuy đang loạn lạc, nhưng nghe đến bốn chữ Hóa Cốt thần quyền thì toàn thân như bị điện giật làm thần trí choàng tỉnh trở lại.
Mao Băng tuy võ công không cao, nhưng đối với Hóa Cốt thần quyền nàng hiểu rất rõ.
Cách đây mấy mươi năm trong võ lâm xuất hiện một bậc kỳ nhân có tên Hải Thiên Cô Yến, và cũng đột ngột biến mất từ đó, cho đến nay không có ai biết rõ tung tích của lão ta.
Hải Thiên Cô Yến xuất hiện trong võ lâm chỉ có mấy năm ngắn ngủi, nhưng thanh danh vang lừng không ai sánh nổi. Với tay không độc đấu, lão đã từng đánh bại hai mươi bảy Chưởng môn của các môn phái, mỗi người đọ không qua nổi mười chiêu của lão. Mọi người đều nhận định rằng suốt cả mấy trăm năm nay trong võ lâm không có ai sánh nổi với Hải Thiên Cô Yến.