Ngày 11 tháng 2 cuộc tiến công được coi như hiển nhiên. Vaudrey báo cáo về Tổng hành dinh, pháo 75 và cối 120 đã bắn vào sân bay. Với những mảnh chắp vá của 5 tiểu đoàn phần lớn là lính Lào, Vaudrey dự tính không chống cự được quá một đêm. Sáng hôm sau, tại Sài Gòn, tướng Navarre cho gọi tướng Gilles tới Tổng hành dinh. Vị tư lệnh hôm trước vừa trải qua một cơn đau tim nhưng hôm nay vẫn đứng vững. Tướng Navarre nói: - Tôi quyết định tăng viện cho Mường Sài. Những tin tình báo mới nhất cho biết Việt Minh sắp tiến công đến nơi. Mường Sài chỉ có thể chống chọi được vài giờ, thậm chí một đêm là cùng. Nhưng Vaudrey càng cầm chân được sư đoàn 308 ở Mường Sài được lâu thì Luang Prabang càng chưa nguy hiểm trước mắt. Đưa thêm một tiểu đoàn đến Mường Sài, có thể kéo dài thêm sự chống cự. Ngay cả khi ta có thua trận thì vẫn tranh thủ được thời gian. Hãy chỉ định ngay một tiểu đoàn dù ném xuống đó. - Tiểu đoàn dù thuộc địa số 1 có thể tập trung trong ngày hôm nay tại Sênô. Sáng mai có thể nhảy dù sau khi tập trung đủ máy bay Dakota. - Này. Đó là tiểu đoàn dù của Pouget có phải không? Sáng mai tôi sẽ đi Sênô cùng với ông. Navarre, vị tướng có cái đầu và nắm tay lạnh nhưng lại có trái tim dễ xúc động mà ông coi là những điểm yếu và thường hay che giấu như một vết thương xấu hổ. Sáng hôm sau tướng Navarre tới Sênô. Ông đứng nhìn tiểu đoàn dù số 1 bước tới những chiếc máy bay và không nói một câu nào, trong lúc đó tôi đang sửa lại chiếc dù nhảy trước khi bước lên máy bay. Sau này, chính tướng Gilles đã kể lại cho tôi nghe toàn bộ câu chuyện trên một cách cụ thể. Ông nói bằng một giọng nghẹn ngào, con mắt bé nhất của ông tức con mắt không bị chột, vẫn còn lành lặn, long lanh giọt nước mắt. Thường thường, cuộc nhảy dù chiến đấu ở Đông Dương chỉ tiến hành vào ngày thứ bảy hoặc chủ nhật khi gặp phải thứ sáu ngày 13. Đây không phải là một qui định, mà là một tập quán. Hôm nay là ngày thứ bảy, nhưng lại là ngày 13 tháng 2. Tôi được chỉ định làm sĩ quan điều hành việc chở quân. Phần lớn đêm qua tôi đã tính toán, lập kế hoạch xếp đủ chỗ cho một tiểu đoàn trong những chiếc máy bay hiện có. Trên lý thuyết, việc này rất đơn gian. Chỉ việc đánh số thứ tự, sao cho các đơn vị khi nhảy dù xuống đất không bị tản mát quá xa nhau. Nhung trên thực tế, vẫn có chuyện phức tạp xảy ra sau khi kế hoạch đã lập xong, số thứ tự đã công bố, nhưng số quân lại không tương ứng. Cho tới khi mọi người đã ngồi yên chỗ trong khoảng máy bay rồi, kế hoạch vẫn cứ bị đảo lộn. - Báo cáo đại úy, máy bay số 2 cho biết ba người ốm vì bệnh kiết lỵ không hành quân được. Số quân là 137 nay chỉ còn 134. Phải điều chỉnh lại. - Báo cáo đại úy, thiếu tá chỉ huy cuộc hành quân đã ghi trong danh sách máy bay số 5, nay lại muốn chuyển sang máy bay số 3 để đi cùng với hai điện báo viên. 8 giờ sáng, đại úy Treillou chỉ huy đại đội dù số 4 đến lượt ra sân bay. Đó là một người có tuổi, một tay quen săn bàn trộm, uống rượu rất khỏe và có một trái tim vàng. Anh nói với tôi bằng một giọng rất tùy tiện cứ như nói với mình: - Cho tớ bay cùng với 127 lính và 4 thằng khiêng đồ. - Sao hôm qua anh báo cáo quân số là 124? - Đúng rồi? Nhưng lúc đó mình quên mất mấy thằng phu khuân vác. Vả lại mãi đến tận bây giờ, chúng mới dám liều nhảy dù. Những “người phu” này, gọi tắt là PIM, tức là “những người tù bị giam giữ như những tù binh”. Có hai loại PIM. Loại PIM “trên thực tế” là những đàn ông trai tráng bắt được trong các cuộc hành quân, được coi là tài sản riêng của đại đội. Bị bắt vào buổi sáng đến buổi chiều họ được ăn cơm cùng với binh lính. Ngày hôm sau, họ tự thổi cơm ăn, và đôi bên cùng có lợi. Mười lăm ngày sau nếu được huấn luyện tốt họ trở thành lính vác đạn, nạp đạn súng cối hoặc súng máy. Đây là những “tù binh bí mật” đối lập với những tù binh “đúng luật” tức là những quân nhân bị bắt trong chiến đấu, được hưởng sự chăm sóc của Hội chữ thập đỏ và có thể chỉ cho các đơn vị “mượn tạm” trong một thời hạn nhất định. Trong thời gian “mượn tạm” này, họ cũng có thể nhập vào đơn vị. Điều khó khăn nhất là phải làm sao để họ thoát khỏi danh sách kiểm soát của chính quyền trước khi chuyển thành quân số đơn vị. Rất rõ ràng, cái mà đại úy Treillou gọi là phu khuân vác đều là những tu binh đúng theo luật định và phải đưa họ trở về nơi quy định. Nhưng Treillou nói: - Không sao cả? Tớ đã báo cáo là ba thằng tù binh đã trốn rồi. Còn những thằng này, sẽ đặt cho chúng họ tên khác, không ai biết được. Tôi không có thời giờ để suy nghĩ lâu về những lý do và những mục đích của cuộc chiến tranh này. Đã 11 giờ trưa. Những chiếc ôtô tải lần lượt chạy tới để đưa chúng tôi lên máy bay. Bầu không khí bị kích động đã ập xuống. Bộ đồ nhảy dù màu xanh loang lổ bắt đầu vò xé gan ruột những người lính trong tiểu đoàn dù. Nhưng cũng bắt đầu từ đó trở đi, trật tự đã được xiết chặt hoàn hảo. Xe tải số 1 chở quân tới sân bay sổ 1. Đoàn máy bay xếp thành hàng dọc theo đường băng. Lính dù cũng xếp thành hàng dưới cánh máy bay. Sĩ quan phụ trách thả dù kiểm tra quân số và trang bị. Những khẩu lệnh và tín hiệu đều đúng nguyên tắc, đúng ý nghĩa. Cho tới khi, sau hai giờ rưỡi bay liên tục chiếc đèn tín hiệu màu xanh đặt ở bên phải cánh cửa ra vào trong khoảng máy bay lập lòe chiếu sáng. Đó là lúc người lính dù mang theo từ 30 đến 40 ki lô vật dụng kể cả thuốc nổ, ướt đẫm mồ hôi, tim như vọt lên tận miệng, nhắm mắt lao qua cửng nực, đáng lẽ đó là giờ ngủ trưa. Họ được dẫn tới mỏm chiến hào phía Đông Nam cứ điểm Eliane 2 nơi công trình phòng ngự chưa được xây dựng tốt, lại là nơi ngoài cùng chạm trán sớm nhất với cuộc tiến công. Lính dù lê dương vội cầm lấy cuốc xẻng đào sâu thêm chiến hào, vừa đào vừa chửi bới lính Ma-rốc đã lao động “theo kiểu ả rập”. Vào khoảng 5 giờ chiều, giữa lúc lính lê dương còn đang lao động, chưa bật nổi tảng đá chắn ngang để đào hào thì pháo Việt Minh bắt đầu ập xuống tất cả bốn quả đồi ở vành ngoài và cả khu Trung tâm ở phía trong. Tất cả các vũ khí nặng của Việt Minh dường như đều được huy động vào cuộc bắn phá chuẩn bị này. Pháo và cối nện “giã giò” trên nóc hầm và phá hủy các lỗ châu mai lô cốt để hoàn thành việc bắn phá hoại chuẩn bị cho đợt xung phong. Pháo bắn dồn dập làm cho lính bộ binh nép mình trong hầm trú ẩn vì sò hãi rồi lan nhanh thành một cơn hoảng loạn. Trời hãy còn sáng khi những binh lính Angiêri tại các cứ điểm Dominique 1, Dominique 2 và lính Ma-rốc tại các cứ điểm Eliane 1 bỏ vị trí tháo chạy một số giơ cao hai cánh tay lên trời khi giáp mặt với Việt Minh dưới làn đạn pháo. Nhiều người khác cố chạy về khu Trung tâm. Số còn lại chạy trốn vào trong những hầm ngầm dọc theo bờ sông Nậm Rốm và cả những hố chuột ven sông. Từ cứ điểm Dominique 1, trung úy Martinet thét to: - Bắn vào những tên bỏ chạy? Nhưng đã quá chậm để ngăn cản sự hoảng loạn. Hơn nữa bóng tối đã ập xuống nhanh trước khi Việt Minh kịp nhận ra lính trong đồn đang tháo chạy nên lập tức ra lệnh xung phong. Dưới sự chỉ huy của trung úy Martinet lúc đó chỉ còn những lính dù và số cán bộ chỉ huy hai đại đội lính thuộc địa Angiêri phải đương đầu với kẻ địch có số quân đông hơn gấp mười lần. Họ cố chống cự vài giờ nữa rồi cuối cùng hoàn toàn tan biến. Lúc này, cứ điểm Eliane 2 (đặt trên đồi A1) đã phải chịu đựng pháo bắn suốt bốn giờ. Các công trình phòng ngự chung quanh cứ điểm đã bị hủy diệt hoặc đổ vỡ. Ở mỏm phía Nam, trung đội thuộc tiểu đoàn dù lê dương số 1 không kịp chui xuống hầm trú ẩn đã bị thương vong gần hết, chỉ còn lại một hạ sĩ và sáu lính lê dương lành lặn. Đến 9 giờ tối, Nicod tới gặp họ. Anh nhìn dải thung lũng dưới chân đồi trọc. Những ánh đạn pháo sáng chiếu trên mặt đất một luồng ánh sáng nhợt nhạt. Có tới hàng ngàn bộ đội Việt Minh đang lặng lẽ leo lên sườn đồi. Nicod nói to: - Việt Minh đây này! Lính lê dương lập tức rũ những lớp đất bám vào người, núp sau lỗ châu mai. Việc bắn pháo đột nhiên ngừng bặt. Đơn vị lính Ma-rốc là mục tiêu bị thiệt hại nhiều nhất trong những đợt pháo bắn chuẩn bị. Hầm của ban chỉ huy đại đội bị sập ngay trong những phút đầu tiên do một quả đạn pháo bắn trúng. Sự cố này đã trở thành quen thuộc. Nicod bị thương nhẹ, nhưng phó của anh là một trung úy đã chết trong hầm. Trong những tình huống này, binh lính thường có thói quen túm tụm lại chung quanh vài hạ sĩ quan còn sống sót tạo ra những khoảng trống trong tuyến phòng ngự bị đứt khúc, không còn liên tục như trước. Việt Minh lợi dụng luôn những kẽ hở đó để tiến sâu vào bên trong cứ điểm. Cần phải xiết chặt lại đội ngũ trước khi bị tiến công tràn ngập. Nicod ra lệnh cho các trung đội co cụm lại để tổ chức một tuyến phòng ngự mới chung quanh ban chỉ huy tiểu đoàn. Khoảng gần 22 giờ thì Bộ tư lệnh ở Hà Nội nhận được điện báo tình hình từ Điện Biên Phủ gửi về. Lúc này, tướng Cogny hãy còn bận “dự tiệc chiêu đãi trong thành phố”, chưa trở về sở chỉ huy. Không ai biết sau đó tướng quân sẽ qua đêm ở đâu, cho nên mãi sáng hôm sau ban tham mưu mới đưa trình bản báo cáo tóm tắt: “Các cứ điểm Dominique 1,2 và 6 đều đã bị mất. Eiane 1 cũng bị đánh chiếm. Chỉ còn lại một phần Eliane 2 (tức đồi A1). Đang giao tranh tại trung tâm Huguette 7. Isabelle cũng bị bắn pháo nhưng không được tăng viện từ bên ngoài, khó khôi phục đuốc tình hình. Ký tên: Castries”. Trong thành Hà Nội là nơi đặt cơ quan thông tin, tướng Bodet cùng với các sĩ quan tham mưu ngồi bàn luận giữa các thiết bị vô tuyến. Vắng mặt tướng Cogny là tư lệnh trưởng, họ không thể quyết định điều gì. Họ biết như vậy nhưng không ai muốn quay về phòng ngự mà cũng không muốn ngồi bị động, không làm việc gì trong cơ quan. Họ đành xúm xít chung quanh máy thu, nghe tin tức báo cáo từ Điện Biên Phủ như những người ngồi canh chừng bên cạnh một kẻ đang hấp hối, nghe từng tiếng đập trong tim, đón từng lời nói cuối cùng mà không còn hy vọng giúp được gì để cứu sống. Khi đài thu tín hiệu bặt tiếng nói, chiếc môi dưới của tướng Bodet lại trễ xuống, rung lên vì lo ngại. Ông hút thuốc lá liên tục. Vốn là một viên tướng không quân đã từng chỉ huy những đội máy bay chiến đấu trên vòm trời nước Đức phát xít hồi chiến tranh thế giới 2, ông là một người nổi tiếng vì có “trái tim sắt đá”. Lính dù chào ông, không phải chỉ theo điều lệ mà còn do kính trọng. Thỉnh thoảng, tướng Bodet lại nhấc máy nói, liên lạc với trưởng phi cơ chiếc máy bay do thám đang lượn trên vùng trời đêm thung lũng lòng chảo: - Thời tiết Điện Biên Phủ thế nào? - Tầm nhìn số không! - Viên phi công trả lời bằng một giọng quen thuộc. Trong thung lũng lòng chảo, bóng đêm dày đặc chỉ bị chọc thủng bởi các đốm lửa do đạn nổ hoặc các vệt sáng theo sau đường đạn bay. Trên nóc hầm sở chỉ huy của Langlais, chiếc bóng đèn điện để trần đang đưa theo dây treo, ánh sáng cũng rung động theo những nhịp sóng chấn động. Không khí trong hầm nặng trĩu và nóng nực, mùi mồ hôi, cà phê rượu vang chen lẫn khói thuốc lá và bụi đất. Muốn nghe rõ điện thoại báo cáo tình hình, trung tá Langlais phải gào to trong máy, bảo người nói chuyện phải nói thật to. Từ đầu máy bên ngoài, có tiếng thiếu tá Clémenon chỉ huy các cụm cứ điểm mang tên Huguette, đề nghị được nói chuyện trực tiếp với Pierre. (Pierre là tên thân mật của trung tá Langlais). Pierre Langlais gào to: - Tôi nghe đây! - Huguette 7 đang bị tiến đánh. Việt Minh đã bám chân được ở mặt Bắc. Tôi cần một đại đội để phản kích. - Mặc kệ cái Huguette của các anh! Các anh tự lo với mọi thứ anh có trong tay. Anh không biết là ở mặt phía Đông này, Việt Minh cũng đang đánh mạnh à? Vẻ lo ngại mà Langlais muốn giấu đã bật ra, làm giọng nói của ông rung lên, ánh mắt sáng quắc thái độ vụt trở nên giận dữ và thô bạo. Điện Biên Phủ như đang chết đến nơi. Đã hai mươi phút rồi, cứ điểm Eliane 2 đặt trên đồi A1 không trả lời tín hiệu. Bản báo cáo cuối cùng nhận được từ lúc 23 giờ, trong đó Nicolas cho biết đang tập hợp số binh lính còn lại của tiểu đoàn để cố bảo vệ sở chỉ huy đặt trên đỉnh đồi. Việt Minh đã chiếm được sườn đồi đặt tên là Champs Elysées và đang tiếp tục tiến công. Trong tình huống này không thể suy nghĩ đắn đo Langlais biết phải hành động gấp. Nhưng hành động như thế nào? Tăng cường phòng ngự cho cứ điểm thì đã quá muộn, mà phản kích thì lại quá sớm, ít nhất phải chờ đến lúc rạng đông mới có thể tiến hành. Các đường dây điện thoại đã bị đứt hết. Langlais dùng máy vô tuyến điện gọi về ban chỉ huy cụm pháo binh: - Pierre đích thân nói đây. Tập trung tất cả các loại pháo, bắn mạnh lên đỉnh đồi nơi đặt sở chỉ huy của Eliane 2 nhằm ngăn chặn Việt Minh, không cho chiếm đỉnh đồi để đến sáng chúng tôi tổ chức phản kích. Từ cứ điểm Eliane 4, Bigeard đang ngồi xổm trong hầm đặt máy thu - phát, cằm tựa vào đầu gối phủ đầy đất. Một tai, Bigeard theo dõi tình hình chiến sự đang diễn ra trên đồi A1 nơi đặt vị trí Eliane 2. Một tai khác, ông nghe mệnh lệnh truyền đi từ sở chỉ huy của Langlais. Sau khi nghe thấy Langlais hạ lệnh cho pháo binh, Bigeard vội nói chen: - Đừng cho lệnh bắn! Bruno nói đây! Nicolas vẫn đang cố giữ. Nếu ông không nghe thấy Nicolas nói thì có nghĩa là máy của ông bị trục trặc đấy. Nhưng Nicolas không tự lực cầm cự được tới sáng đâu. Tôi sẽ đưa ngay một đại đội của tôi sang tăng viện cho Eliane 2. Lúc này là nửa đêm, giữa ngày 30 và 31. Số phận năm quả đồi phía đông đang được xoay chuyển. Cách đây vài phút Langlais đã báo cáo với Castries: “Một nửa Eliane 2 đã bị chiếm!”. Nhưng Luciani đã kịp đưa một đại đội tới. Luciani vội gọi điện cho Bigeard: “Một nửa Eliane 2 vẫn còn”. Đúng nửa đêm, các đội lính Ma-rốc, lính dù, lính lê dương tổ chức phản công. Khoảng một giờ sáng thì giành lại được đỉnh đồi A1. Khi mặt trời mọc cũng là lúc tại sở chỉ huy, Castries, Pazzis, Langlais và Bigeard nhanh chóng điểm lại tình hình. Tất cả bốn người đều gầy yếu, mệt nhọc, bẩn thỉu. Họ hiểu rằng chỉ còn có thể dựa vào lực lượng tại chỗ. Cho tới hết ngày hôm qua tức là từ lúc có sự tháo chạy của đám lính thuộc địa tình hình chưa trầm trọng thêm. Nhưng vẫn phải hành động gấp, phải tận dụng ban ngày là thời gian có máy bay yểm trợ để chiếm lại Eliane 2, củng cố Eliane 1 và Domimque 2. Castries lệnh cho Lalande cố thực hiện một cuộc xuất kích để giải toả Eliane 2. Tiểu đoàn lê dương số 3 được ba xe tăng yểm trợ lập tức hành quân từ lúc rạng đông, đi dọc theo đường cái tiến về phía đồi A1 cách đó chừng sáu kilômét. Đến 9 giờ sáng thì đơn vị này vấp phải các chiến hào Việt Minh. Lalande nghĩ rằng việc phá hủy san lấp các chiến hào có thể mang lại tổn thất cho binh lính của mình nên đã không tiến quân nữa. Trong khi đó, Bigeard cũng chỉ huy ba đại đội của mình, cùng với một tiểu đoàn của Tourret và các xe tăng còn sử dụng được, tiến lên giải vây cho Eliane 1 và Dominique 2. Castries động viên Bigeard: - Cố đi tới đích! Hà Nội đã hứa sẽ tăng viện cho chúng ta. Có thể ngay trong ngày hôm nay, đơn vị của Bréchignac sẽ nhảy xuống trước khi trời tối. Ngày mai ta có thể có thêm một tiểu đoàn dù. Cuộc phản kích ngày 31 tháng 3 được bắt đầu lúc gần buổi trưa, dưới trời nắng gắt. Bigeard chỉ huy cánh quân xuất phát từ Eliane 4 có nhiệm vụ giành lại Eliane 1 là cao điểm đang che khuất chân trời và khống chế Eliane 4. Suốt đêm qua, các súng cối của Bigeard đã dội lên đỉnh đồi, ngăn Việt Minh chiếm lĩnh. Tourret được trao nhiệm vụ lớn hơn. Với bốn đại đội trong tay, Tourret phải chiếm lại Dominique 2 đặt trên mỏm cao 505 mét, và dự định sẽ bắt đầu xung phong khi tới mỏm Yên Ngựa với độ cao 150 mét. Đến ba giờ chiều, Bigeard gọi điện báo cáo với Castries: - Chúng tôi đã chiếm được gần hết Eliane 1. Tourret đang đặt chân lên Dominique 2. Nhưng cần phải có thêm lực lượng dự trữ để có thể chiếm giữ được tất cả các vị trí này trước khi trời tối. Ông có tin gì về Bréchignac không? - Hà Nội chưa báo tin gì cả. Chẳng biết hiện nay cái đơn vị dù của Bréchignac đang làm gì. Tuy nhiên, hôm nay đẹp trời… Có tiếng Tourret gọi về: - Chúng tôi đã chiếm lại được một nửa cứ điểm. Việt Minh liên tục tiến công. Địch có tới một trung đoàn. Cuộc giao tranh trên đỉnh đồi rất khủng khiếp. Pichelin đã tử trận. Tôi không thể giữ được nếu không có lực lượng tăng viện. Bigeard ngước mắt nhìn trời. Từ tít trên cao, trên cả tầm bắn của pháo phòng không, những chiếc máy bay C 119 đang lượn vòng. Nhưng không phải để thả dù tiểu đoàn tăng viện của Bréchignac mà là thả các nhu yếu phẩm. Đây là lần đầu tiên thử nghiệm một phương pháp mới: để cho rơi tự do cách mặt đất khoảng 300 mét mới tự động mở dù. Nhưng có một nửa số kiện hàng rơi xuống đất vỡ tan vì dù chậm mở, hoặc là dù tự động mở quá sớm bị gió đánh dạt sang trận địa của Việt Minh. Bigeard đành trả lời Tourret: - Tôi chẳng còn lực lượng dự trữ nào để gửi sang cho anh hết. Nếu không giữ được thì rút. Tại Eliane 1 là chính nơi Bigeard đang chống giữ, các đại đội cũng phải chiến đấu trong hoàn cảnh không hơn gì Dominique 2 của Tourret. Sau hai mươi giờ bị ném bom và nã pháo liên tục, trận địa đã hoàn toàn bị phá hủy. Đạn pháo của cả hai bên lẫn a máy bay rơi vào một thế giới mới, không gì tốt đẹp hơn. Đó là lúc rơi tự do, nhẹ nhàng trong gió mát và ánh sáng, là giờ phút đơn độc vinh quang trong khoảng không trước khi tiếp xúc với mặt đất và những rủi ro của con người. Ban tham mưu Mường Sài đã chọn ký bãi nhảy dù. Đây là một khoảng trống trong thung lũng, vừa quá giới hạn tầm súng cối của địch. Lúc này vào khoảng ba giờ chiều. Không khí nóng. Tốc độ rơi tỷ lệ với nhiệt độ. Khó ước lượng được sức gió ở sát mặt đất. Những tính toán sai lầm của phi công (là người bình thản ngồi trên máy bay hướng mũi trở về Hà Nội uống nước giải khát) luôn luôn làm cho nhiều kiện hàng rơi lạc ra ngoài bãi thả dù. Năm trăm lính dù rơi tản mát trên phạm vi năm mươi héc-ta vừa mới tiếp đất đã phải chạy nháo nhác đi tìm đơn vị của mình. Nhiều người nằm thẳng cẳng. Đó là những lính dù đã bị gẫy một chân. Chính mắt tôi cũng nhìn thấy một PIM đi theo phục vụ hậu cần kéo lê trên mặt đất trên lưng vẫn còn chiếc dù rộng 70 m2 đang cản gió và khẩu súng cùng với các thứ mang theo nặng tới 50 ki lô. Trên nhiều cành cây cao chung quanh bãi nhảy dù, lủng lẳng những thân người giẫy giụa chơi vơi vì dù mắc phải cành cây. Tôi là người nhảy sau cùng. Vừa tiếp đất, tôi đã phải chứng kiến một cách buồn bực việc các phi công cẩu thả trong vài phút đã làm rối loạn tan hoang kế hoạch nhảy dù do tôi nghiên cứu nhiều giờ. Chợt có tiếng người nói: - Thế nào, đại úy, có bị gãy chân gãy tay không? Tôi nhìn người vừa hỏi có nét mặt quen thuộc nhưng không biết là ai. Chỉ thấy anh có cái đầu to, nhất định phải là một nhà trí thức. Một chàng trai có hình dáng cân đối, lực lưỡng, một gương mặt dễ chịu nếu cạo nhẵn râu, một cặp mắt xanh nhìn thẳng, dịu hiền không giống như cái nhìn của những anh lính trẻ đang nhắm bắn mục tiêu qua kính ngắm. Anh ta mặc một bộ đồ rất tài tử chiếc súng ngắn gài bên sườn theo kiểu cao bồi miền Tây nước Mỹ cầm trong tay một chiếc máy ảnh với dáng vẻ thông thạo. Tôi nói: - Mày còn chờ gì nữa mà không chạy đi tìm đơn vị để tập hợp? Ừ! Đúng mày đấy! Anh ta thản nhiên giơ máy ảnh chụp luôn tấm ảnh chân dung một đại úy đang cáu kỉnh, rồi mới nói: - Tôi ấy à? - Giọng anh ta chắc nịch, lễ phép nhưng không cứng nhắc - Tôi làm gì có đại đội nào. Tôi là Péraud phóng viên ảnh, làm việc tại sở thông tin báo chí quân sự. Tôi đã phải đợi đến phút cuối cùng mới có được một chỗ trên máy bay. Đây là lần đầu tiên tôi nhảy dù. Quả là quá xúc động. Tôi đã nhận ra anh nhà báo quen thuộc. Trước khi rời khỏi bãi nhảy chúng tôi đã phải khiêng vác tới bốn mươi bảy lính nhảy dù bị thương. Lúc toàn tiểu đoàn dù tập trung được tại trung tâm cứ điểm, trong một khu rừng rậm, giữa hai tiền đồn có lính Lào canh gác thì trời đã tối đen. Lính Lào bắn vu vơ trong đêm tối. Chúng tôi có thể nhìn thấy những luồng đạn lửa vọt qua trên đầu. Vậy là đạn bắn quá cao, chúng tôi yên trí nằm ngủ, đắp chung hai hoặc ba người một chiếc chăn. Trong những ngày tiếp theo chúng tôi đào hầm trú ẩn và xây dựng các vị trí chiến đấu. Những máy bay vận tải dân dụng chở nhiều cuộn dây kẽm gai và bao gạo tới, cứ việc ném tự do xuống đất, không cần buộc dù. Một máy bay lên thẳng từ Luang Prabang đưa thư tới và chở lính bị thương đi. Trong khoảng thời gian này chúng tôi tổ chức được hai hoặc ba cuộc vũ trang trinh sát ở bên ngoài cứ điểm. Rừng rậm đến mức các trinh sát vừa ra khỏi doanh trại đã mất hút. Bộ đội sư đoàn 308 có mặt khắp mọi nơi, tại những hầm kiên cố ngụy trang kỹ. Chúng tôi từ bỏ ý định đánh ngay vào những nơi đã có chuẩn bị, mà chờ Việt Minh tiến công, lúc đó mời chống trả. Thỉnh thoảng Việt Minh lại bắn vài qua đạn một cách dè sẻn, keo kiệt, nhưng khéo léo và rất chính xác. Buổi tối, trong khi đi kiểm tra, tôi nghe thấy những tiếng thở dài và những tiếng nói từ hẩm trú ẩn vọng ra: - Mẹ kiếp! Thà cứ nhảy xuống Điện Biên Phủ lại hay! Ngày 19 tháng 2, Vaudrey triệu tập các chỉ huy đơn vị đến họp trong sở chỉ huy đặt tại một quả núi nhọn hoắt. Chỉ huy cứ điểm vẫn còn giữ được gương mặt thanh niên nhưng hơi mệt mỏi, cặp mắt thâm quầng, những nếp nhăn chịu xuống. Ông nói: - Việt Minh sẽ tiến công vào tối mai hoặc tối ngày kia. Chúng phải sủa đổi lại kế hoạch và tiến công chậm vì tiểu đoàn dù bất ngờ tới tăng viện cho chúng ta. Đại đội dù của tôi có nhiệm vụ bảo vệ mặt đông bắc cứ điểm, được bố trí trên một sườn đồi rộng, đã chặt hết cây, rất dốc. Đó cũng là nơi hứng tất cả đạn pháo của địch. Máy bay đã tới ném bom bắn phá loạn xạ khu rừng rậm có nhiều cây to, là nơi nghi ngờ có bố trí pháo Việt Minh nhưng xem chừng vẫn không đạt kết quả. Suốt ngày đêm, tôi tung ra những đội tuần tiễu, đi càng xa càng tốt để phát hiện địch. Lính của chúng tôi luồn trong rừng rậm tới sát chân sườn núi đối diện rồi nằm phục ở đó. Nếu Việt Minh xuất hiện sẽ lập tức báo động. Đường chân trời có vẻ như chỉ cách họ vài ba mét. Họ có thể nghe thấy tiếng nói nhưng không nhìn thấy bộ đội Việt Minh. Những tiếng gõ lốc cốc trên khúc tre rỗng, những khẩu lệnh phát đi bằng giọng mũi và nhiều tiếng động khác vang vọng tới. Không thể tiến xa hơn vì nhất định sẽ vấp phải một luồng đạn đã nhằm sẵn, từ một chỗ vào đó bắn ra. Có thể nói đây là biên giới giữa Việt Minh và chúng tôi. Việt Minh cũng không mạo hiểm vượt qua chiến tuyến này, nhưng bố trí canh gác rất chu đáo. Rạng sáng 21 tôi đến chỗ các vọng gác báo động. Suốt đêm yên tĩnh. Cho đến sáng vẫn không có một tiếng động nào phá tan cảnh yên lặng trong rừng. Cũng không nghe thấy những tiếng quen thuộc chứng minh sự có mặt của đối phương tại nơi bố trí. Phải đến tận nơi xem sao. Chúng tôi từ từ tiến theo hàng một, người sau cách người trước một mét. Một con đường mòn dốc ngược dẫn thẳng lên đỉnh núi. Chúng tôi leo lên và rơi vào một vị trí đã xây dựng các công sự chiến đấu mà Việt Minh vừa mới bỏ đi, dấu vết để lại hãy còn tươ tăng viện nào được nhảy xuống Điện Biên Phủ trong đêm đó. Trên đồi A1, ba đại đội dù trong cứ điểm Eliane 2 chiến đấu suốt ba mươi sáu giờ không nghỉ. Tất cả đều kiệt sức nhưng Luciani nghĩ rằng Việt Minh cũng đã thấm mệt. Vì vậy, anh đã tổ chức phản kích và báo cáo với Bigeard vào buổi trưa: - Chúng tôi vẫn có thể giành lại được toàn bộ quả đồi này nhưng với điều kiện là phải được tăng cường thêm một đại đội mới toanh. - Tôi chẳng còn gì cả. Hãy dè sẻn lực lượng. Bigeard hiểu, các lực lượng tăng viện chỉ có thể nhảy dù vào giữa trưa. Vậy thì phải cố giữ, dù chỉ còn lại một người vẫn cố giữ như đã nói với Langlais. Trong tập đoàn cứ điểm, không còn một lực lượng dự trữ nào đúng với cái tên “dự trữ”. Mọi đơn vị phải tự xoay sở để có được những lực lượng cứu ứng cho nhau khi cần thiết. Tại cứ điểm Huguette 7 trung úy Spozio tới thay đại úy Bizard chỉ huy một đại đội xung kích gồm lính lê dương, lính Angiêri từ Béatrice sống sót trở về và lính Thái đào ngũ đã thu gom được. Đêm thứ ba, Việt Minh giành được một thắng lợi: Huguette 7 bị đánh chiếm lúc 4 giờ sáng. Cụm cứ điểm được xây dựng cân đối theo hình học này biến thành mảnh đất tan hoang lộn xộn. Nhưng Eliane 2 vẫn giữ vững. Trong đêm, hai trung đội thuộc trung đoàn nhảy dù thuộc địa đã nhảy xuống được khu vực sân bay. Hai trung đội có nghĩa là một nửa đại đội. Một lực lượng tăng viện không đáng kể chống lại ba mươi nghìn quân Việt Minh đang tiến đánh. Nhưng các binh lính của Bréchignac là những quân nhân có tư cách. Họ đến đây không phải để bị đánh bại. Đêm thứ tư Việt Minh tiếp tục tiến công Eliane 2 nhưng vẫn không tiến thêm được một mét. Tại mặt phía Tây, Việt Minh tăng cường lực lượng tiến đánh Huguette 6 là một cứ điểm ngay đầu đường băng, như một dấu chấm trên chữ “i”. Trung úy Rastouille cùng một trăm lính lê dương trấn giữ cứ điểm này. Họ đã tới đây từ mười lăm ngày nay và ngày nào cũng phải ra lấp những chiến hào Việt Minh đào lấn chỉ cách vị trí của họ có ba mươi mét, vào lúc hết đêm, mười hai lính lê dương trong cứ điểm đã chọc thủng một đoạn hàng rào dây kẽm gai để đào ngũ. Bắt đầu bước sang ngày thứ năm của cuộc tiến công giải đoạn 2, tức là đêm mùng 3 rạng ngày 4 tháng 4. Pháo Việt Minh tới tấp nã xuống Huguette 6. Đến 8 giờ tối, bộ phận đi đầu của một tiểu đoàn địch đã vào được trung tâm cứ điểm bằng đoạn rào dây thép gai đã bị lính lê dương đào ngũ cắt đứt. Castries gọi dây nói cho Langlais. Vị đại tá dòng dõi quý tộc Christian De Castries không quát to bao giờ. Bao giờ ông cũng nói bằng một giọng đều đều, cố giữ một thái độ từ tốn nào đó trong lời lẽ. Langlais, Bottella, Tourret, nhóm sĩ quan chỉ huy các đơn vị lính thuộc địa cảm thấy đây là vẻ giả tạo không thích hợp. Bigeard tán thành các chiến hữu của mình nhưng trong thâm tâm vẫn ngưỡng mộ Castries một cách kín đáo. Langlais cố nén thần kinh căng thẳng, nghe đại tá chỉ huy Castries nói. - Langlais, anh nghe tôi nói đấy chứ? Rõ, hả? Chúng ta không thể để mất Huguette được. Anh cũng hiểu rõ rồi chứ gì. Để mất Huguette có nghĩa là mất luôn một phần ba đường băng sân bay, có khi cả một nửa sân bay, là bãi thả dù duy nhất hiện nay để chúng ta nhận được tăng viện… Anh nghe tôi nói đấy chứ? Vậy thì anh bạn ơi, anh phải làm một cái gì đó để cứu Huguette trước khi trời sáng. Langlais đặt máy xuống không trả lời. Đã bốn ngày nay, ông chờ đợi tiểu đoàn tăng viện. Đó cũng là bốn ngày liên tục chiến đấu. Ngày thứ nhất, đáng lẽ viện binh đã phải nhảy dù xuống bãi thả dù, trên cánh đồng phía Nam dãy đồi có cụm cứ điểm Eliane, nhưng Việt Minh đã tới sát, pháo mặt đất và pháo phòng không Việt Minh làm cho kế hoạch nhảy dù không thực hiện được. Phải tìm các biện pháp khác. Bộ chỉ huy tại Hà Nội đã chấp nhận phương án nhảy dù đêm xuống sân bay. Đó là một bãi nhảy dù khá tốt. Mặc dù hẹp, nhưng chiều dài của đường băng có thể vừa đủ để nhảy xuống, miễn là vẫn giữ được Huguette 6 là điểm tựa ở đầu phía Bắc đường băng. Đêm hôm trước, các phi công đã thả dù lần đầu tiên các kiện hàng xuống đường băng cho tới khi các pháo sáng làm loá mắt không thể thả dù tiếp tục được. Nếu đêm nay mất Huguette 6, có nghĩa là mất thêm một phần sân bay. Đến lúc đó thì ngay việc thả các kiện hàng cũng rất khó thực hiện, chưa nói gì đến nhảy dù. Huguette 6 vẫn còn trả lời được và cho biết chỉ còn lại khoảng từ sáu mươi đến tám mươi binh lính lê dương đang chiến đấu chung quanh ban chỉ huy đứng đầu vẫn là Rastouille. Họ còn có thể cầm cự được từ hai đến ba giờ nữa. Langlais phải quyết định gấp. Ông thử tiến hành một cuộc phản kích ngay trong đêm. Lúc này chỉ còn có tiểu đoàn 8 lính dù thuộc địa với 394 binh lính do Tourret chỉ huy là một vị trí phòng ngự mới được xây dựng sau ngày 13 tháng 3 năm 1954, còn có thể sử dụng được đơn vị này vì các đơn vị khác đều đang phải chiến đấu. Hơn nữa, Epervier lại gần mục tiêu phản kích. Khoảng 9 giờ tối, đại úy Desmont nhận được lệnh đi giải vây cho Huguette 6. Mặc dù đây là một mệnh lệnh “ngu xuẩn”, nhưng Desmont cũng đã có lần thoáng nghĩ tới. Cách đây chưa được nửa tháng, chính Langlais cho rằng việc phản kích tiến hành vào ban đêm là không thể nào thực hiện được. Thế mà bây giờ lại định tổ chức cuộc phản kích giữa đêm tối với một đại đội và hai xe tăng. Nhưng không phải là lúc bàn cãi mà phải thực hiện ngay. Desmont cần phải dẫn đơn vị vượt một quãng đường khoảng hai kilômét. Dưới ánh pháo sáng, hai chiếc xe tăng bắn vào những bóng đen được cho là bộ đội Việt Minh. Trong khi đó, Langlais liên lạc bằng máy vô tuyến với những chiếc Dakota đang lượn vòng tròn chuẩn bị để lính dù của Bréchignac nhảy xuống. Đêm hôm trước chính những chiếc máy bay chở đầy quân này đã phải quay trở về căn cứ bởi vì bãi nhảy bị chiếu sáng khi đồn Huguette 7 đang bị tiến công. Trưởng phi cơ nói: - Không thể nhảy xuống đường băng sân bay được chừng nào sân bay còn bị chiếu sáng. - Nhưng tôi cũng không thể nào ngừng cuộc phản kích được. Nếu không nhảy xuống sân bay được thì cho lính nhảy xuống khu Trung tâm. - Nhưng ở đó không có bãi nhảy đúng tiêu chuẩn. - Mẹ kiếp! Cứ nhảy xuống. Tôi sẽ chịu trách nhiệm. - Langlais trả lời. Tại cuộc hội ý tại Hà Nội, đại tá Sauvagnac giải thích cho đại úy Clédic rõ, ông phải nhảy thẳng xuống đường băng sân bay. Nguyên tắc theo hướng Nam - Nam - Đông để vào phân khu Trung tâm tìm gặp sở chỉ huy. Đúng nửa đêm, đại úy rơi vào một khu vực lổn nhổn công sự và chiến hào. Chỉ cách ông vài mét, một cỗ trọng liên bốn nòng đang chĩa lên trời. Chung quanh, những đạn pháo nổ tung ra những cụm lửa đỏ xen lẫn với màu nhợt nhạt của pháo sáng. Clédic đã tới được Điện Biên Phủ. Nhưng đang ở đâu? Đại úy đảo mắt nghi ngờ nhìn chung quanh, lục lọi trong hành trang lấy ra một khẩu súng ngắn, rồi nằm im trên mặt đất lắng tai nghe những tiếng động của người và tiếng nổ của đạn pháo. Có một tiếng gọi như từ lòng đất vọt ra: - Này! Lại đây. Clédic chỉ rơi cách hầm chỉ huy của Castries khoảng một trăm mét và coi như vừa mới khánh thành một bãi nhảy dù mới toanh. Cho tới ngày hôm đó, bãi nhảy dù vẫn được quy định là một mảnh đất có sẵn kích thước, trên mặt phủ ít nhiều loại cỏ mềm. Những bãi tập nhảy dù ở vùng núi Pyrénées bên Pháp thường trồng toàn cỏ dày hoặc những loại cỏ mềm. Còn bãi đất Clédic vừa nhảy xuống lại là một mảnh đất mơ hồ không biết rõ lổn nhổn chiến hào, hầm hố, lởm chởm nhiều cọc nhọn giữa những lớp hàng rào dây thép gai. Gặp Clédic, Langlais hỏi ngay: - Có nhiều quân không? - Toàn bộ một đại đội của tôi. Thế là Langlais, một người lính bộ binh già và là người lính dù trẻ, phá ra cười. Langlais cười viên chỉ huy của mình là đại tá Sauvagnac, một sĩ quan dù vĩ đại nhưng lại là một lính bộ nhỏ bé. Đêm nay, Langlais là một người sung sướng. Ba trăm mười hai lính dù đã tới mà không cần phải chọn kỹ bãi nhảy, cũng không cần phải thạo nhảy dù. Chỉ cần đưa người lên máy bay rồi nhảy xuống. Ông đề nghị Hà Nội kêu gọi thêm những người tình nguyện, dù biết hay chưa biết nhảy dù cũng không quan trọng. Có thêm lính chiến đấu, Điện Biên Phủ sẽ giữ vững. Đúng lúc đó, Bréchignac cũng lần mò tìm được lối vào sở chỉ huy. Langlais lại phá ra cười khi nhìn thấy Bréchignac… cởi truồng. Đại úy đã rơi đúng vào lớp hàng rào dây thép gai. Trong đêm tối, ông không tài nào gỡ ra được đành phải tụt quần bỏ lại đó. Mặt trời đã mọc. Vòm trời đã hửng sáng, không khí nhẹ nhàng như thời tiết tháng 8 ở bên Pháp. Lính dù thuộc tiểu đoàn 2, trung đoàn dù thuộc địa số 1 đi theo hàng một tiến lên dãy đồi Eliane. Bộ đồ ngụy trang ra trận chỉnh tề, vũ khí lau chùi sạch sẽ. Toàn đội cùng chung một kiểu đi giống như người chỉ huy, tức là bước chân dài, hơi nặng, tiết kiệm, toả ra một niềm tin bình thản. Khoảng 5 giờ sáng Việt Minh tự rút khỏi bãi Champs Elysées ở phía trước Eliane 2 sau một đợt tiến công kéo dài một trăm giờ. Đêm 4 rạng ngày 5 tháng 4 là đêm thứ sáu của cuộc tiến công giải đoạn hai. Trong khi rút khỏi Eliane 2, địch tập trung tiến công Huguette 6. Việt Minh quyết tâm đánh bật cái nút chai trên đầu đường băng. Sư đoàn 312 được yểm trợ bằng tất cả các khẩu pháo 105 và một đại đội cối 120 mm, huy động tới bốn tiểu đoàn bộ binh cùng với một tiểu đoàn pháo hạng nặng. Trước mặt sư đoàn 312 là một trăm lính lê dương số 2 vừa tới thay đơn vị của trung úy Francois, nhưng trung úy Rastouille chưa đi mà vẫn còn ở lại cứ điểm để bàn giao. Pháo chuẩn bị của Việt Minh kéo dài năm tiếng đồng hồ. Trước nửa đêm, các tiểu đoàn Việt Minh đã lọt được vào cứ điểm qua đoạn hàng rào kẽm gai đã bị bọn lính đào ngũ cắt đứt. Lính lê dương lùi vào phía trong. Tình thế trở lại gần giống như đêm trước. Huguette sắp bị mất đến nơi. Langlais lại lập tức quyết định phản kích. Trung úy Bailly thuộc tiểu đoàn dù thuộc địa số 6 được báo động đầu tiên. Cũng như Desmont đêm trước, Bailly đêm nay lại dẫn toàn đại đội chạy dọc theo đường băng tiến về phía địch. Nhưng lần nay, Việt Minh đã sử dụng toàn bộ một tiểu đoàn ở cánh trái. Một trăm năm mươi lính của Bailly phải chống với một số quân đông hơn rất nhiều. Cho tới khi trời sáng hẳn thì chỉ còn có hai mươi lính dù trụ lại chung quanh trung úy Bailly. Họ được phép rút khỏi vị trí chiến đấu. Tại Eliane 2, Clédic ngủ từ sáng sớm trong hầm trú ẩn. Đến quá nửa đêm thì người lính gác điện thoại lay ông dậy. Bréchignac gọi Clédic. - Huguette đã bị đánh. Anh dẫn quân chi viện. Biết đường chứ? Đại úy Clédic không biết rõ đường lắm. Nhưng ông thường đứng trên đỉnh đồi A1 nơi đặt cứ điểm Eliane 2 nhìn bao quát chung quanh nên biết rõ các khu vực lân cận. Ông dẫn đầu đơn vị đi xuống núi. Đoàn quân xếp thành hàng dọc đi theo ông từng bước tiến về hướng Bắc vượt khúc sông nằm giữa Dominique 3 và Epervier rồi đi đến tận đường ống thoát nước. Phía trước mặt, đàn đom đóm đang lờ mờ soi sáng đường bằng sân bay như một dải băng tráng bạc của tử thần đã từng bị bắn phá nhiều lần bằng mọi hoả lực. Bailly ở phía tay phải phát tín hiệu đường đã bị chặn. Clédic quyết định cho đơn vị tiến vọt qua đường băng xông thẳng về phía trước. Ông không biết rõ mình đang ở chỗ nào, chỉ biết đang tiến trước họng súng. Phía trước là cả một đại đội Việt đang hướng về phía Nam đối mặt với đơn vị c của chiến trường tự quản, tương đối độc lập với các mặt trận khác, nhất là tiếng tăm cửa thành trì pháo đài Điện Biên Phủ vang dội toàn thế giới, đòi hỏi cũng sẽ phải có một chiến thắng tầm cỡ như vậy. Tất cả điều đó đã tạo cho hoạt động quân sự trên chiến trường này một ý nghĩa chính trị - quân sự. Chiếm lĩnh được Điện Biên Phủ, tướng Giáp không chi có trong tay cả xứ Thái và vùng Thượng Lào mà còn đạt được một trình độ cao hơn. Vận mệnh cuộc chiến đấu ở đây sẽ quyết định, hoặc là chiến thắng và hoà bình, hoặc là một hình thức “Triều Tiên hoá” cuộc chiến tranh Đông Dương. Ván bài này, Việt Minh của Hồ Chí Minh đã sẵn sàng giành được thắng lợi bằng bất cứ giá nào. Hội nghị Geneve sẽ làm cho Điện Biên Phủ trở thành một chiến trường đẫm máu, trước khi đấm quân cờ tướng Giáp đã đặt lên bàn cờ tất cả lực lượng dự trữ của mình. Tôi hỏi Tổng tư lệnh Navarre: - Nhưng thưa tướng quân, trong suốt cuộc họp quốc tế tại Berlin, các ngài Jacquet, Chevigné, Pleven đều có mặt tại Đông Dương. Các vị đó đều được biết những diễn biến trong hội nghị và có những yếu tố để đáp ứng những hậu quả. Vậy thì tại sao các vị đó không trì hoãn Hội nghị Geneve khoảng một hoặc hai tháng nữa. Đó là thời gian để chúng ta có được mùa mưa tại Điện Biên Phủ. - Trong mọi trường hợp, cả Tông cao uỷ và cả tôi nữa đều không được hỏi ý kiến gì về hội nghị này. Ngày 21 tháng 2, khi gặp ông Pleven tại Đà Lạt tôi đã nói với ông về chuyện này nhưng ông tỏ ra không quan tâm lắm. Ông nói: “Chúng tôi buộc phải chấp nhận Hội nghị Geneve. Công luận ở Pháp sẽ không hiểu nếu chúng ta lẩn tránh cuộc họp. Hơn nữa một số thành viên chính phủ đều muốn họp. Trên thực tế, chính Thủ tướng cũng cho rằng hội nghị này chẳng giải quyết được gì cả. Ta phải đi họp thôi, dù chỉ để chứng tỏ rằng Việt Minh vẫn chưa sẵn sàng thương lượng trong những điều kiện hiện nay. Dù sao, ngài Bộ trưởng cũng không nhầm. Bác Hồ rất muốn hoà bình nhưng phải đúng lúc. Những tình huống tháng 2, tháng 3 chưa tạo điều kiện thuận lợi và tướng Giáp đang tìm cách xoay chuyển tình thế có lợi cho Việt Minh. Trong suốt tháng diễn ra Hội nghị Berlin và sau khi sư đoàn 308 chuyển quân sang Lào, Điện Biên Phủ sống trong bầu không khí tương đối yên tĩnh nhưng bồn chồn chờ đợi. Các tiểu đoàn đã cải thiện vị trí phòng ngự, củng cố các kho đạn và lương thực. Đêm hãy còn mát nhưng ban ngày trời đang bắt đầu khá nóng. Đó là mùa Xuân vùng thượng du binh lính trong thung lũng mà nước sông Nậm Rốm không thể gột rửa sạch lớp bùn đất bám trên người đang mơ ước được tắm với nước hoa sen, được ôm ấp đàn bà, được ăn nóng. Suốt tháng 2 những chuyến đi thăm chính thức ăn nhịp với những hoạt động vũ trang trinh sát tiến công thăm dò về phía các đỉnh núi cao. Nhưng tất cả những chuyến đi thám sát này đều không đạt kết quả đáng kể. Phía đến thăm là những lời đánh giá cao và những cái bắt tay nồng nhiệt. Phía hành quân sục sạo là những cái chết vô ích và những huân chương vô duyên. Một tuần sau chuyến thăm của ngài Jacquet và tướng Blanc, đến lượt tướng Mỹ O' Daniel cũng lên thăm Điện Biên Phủ ngày 2 tháng 2 năm 1954. Lúc này, tướng O' Daniel vẫn còn đang giữ chức Tư lệnh các lực lượng mặt đất của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương. Ông tới đây với tư cách là chuyên viên, đặc phái viên của Chính phủ Mỹ trên cơ sở một đạo luật viện trợ tài chính cho Pháp. Tướng Navarre không được thông báo trước về thoả thuận này đã tiếp đón lịch sự tướng O' Daniel như tiếp đón một bạn đồng minh, một đồng nghiệp hùng mạnh, nhưng không tiết lộ gì nhiều về các kế hoạch tác chiến. Ngài “Mike sắt thép” (đó là biệt hiệu của tướng O' Daniel) không tỏ ra phản ứng. Thái độ thẳng thắn, thân tình cởi mở của ông, chứng tỏ ông là một người nhã nhặn. Ngay trong cuộc gặp đầu tiên vào ngày 20 tháng 6 năm 1953 tướng Navarre đã nhận được của Mike những cái vỗ mạnh mẽ, thân mật vào lưng. Từ đó tướng Navarre phải cẩn thận đứng đối diện hoặc đứng chếch tầm tay của “Mike sắt thép”. Tính cách vĩ đại của “Mike sắt thép” khiến cho ông khó thích nghi với những tinh tế của cuộc chiến tranh ở châu Á này. Ông tự cho mình giữ một vị trí quan trọng và đã giành một phần cuộc đời binh nghiệp để soạn thảo các kế hoạch nghiền nát Việt Minh. Ý đồ đầu tiên trong hoạt động của ông, ông đã phác hoạ ngay sau khi vừa đặt chân tới Tân Sơn Nhất hai giờ và đã bộc lộ với tướng Navarre ngay tối hôm đó. Dĩ nhiên, ý đồ này giống như kế hoạch mà Mac Arthur, Tổng tư lệnh các lực lượng ở Thái Bình Dương đã tiến hành trong cuộc chiến tranh Triều Tiên và đòi hỏi Pháp cũng phải có những phương tiện tầm cỡ như Mỹ. Tóm lại, phương án của tướng Mỹ O' Daniel là quân Pháp rút hết về tập trung tại mỏm Cà Mau (như tướng Mac Arthur trước kia đã từng rút quân về tập trung tại đầu cầu Pusan của Nam Triều Tiên) rồi sau đó sẽ dựa vào không quân và pháo binh, đánh ngược trở lên cho đến tận biên giới Trung Quốc (như Mac Arthur đã từng làm trên bán đảo Triều Tiên, tiến quân trở lại đến tận sông Áp Lục giáp Trung Quốc). Sau ba giờ thảo luận với tướng Navarre, tướng O' Daniel đề nghị đi thăm tổng thể các chiến trường trước khi quyết định một kế hoạch chính thức. 8 giờ sáng hôm sau, O' Daniel lên máy bay đi Hà Nội. Đến giữa trưa, máy bay luợn vòng trên vùng châu thổ sông Hồng, lúc này đang vào mùa mưa. Trên những cánh đồng ngập nước, làng xóm trồi lên như những đảo tròn. Đến 13 giờ tướng Navarre nhận được điện của O' Daniel: “Đã hỏi rõ tình hình để áp dụng những kế hoạch tương úng. Đề nghị tham khảo sách giáo khoa của bộ binh Mỹ 1, (kèm theo số hiệu sách)”. Nhờ quen biết tùy viên quân sự đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn tôi đã có được tài liệu này. Đó là cuốn sách viết về “cuộc chiến tranh đánh chiếm quần đảo”. Tuy nhiên một ngày sau đó khi hành quân đường bộ tới vùng châu thổ Bắc kỳ, ngài “Mike sắt thép” đã hủy bỏ bức điện đầu tiên, mặc dù đã được gửi tới tướng Navarre. Ngày 2 tháng 2 năm 1954 khi lên thăm Điện Biên Phủ tướng O' Daniel tỏ ra ít bốc đồng hơn trước. Ông đi thăm tất cả các cứ điểm, chui vào trong hầm pháo để kiểm tra vũ khí, trèo lên các điểm cao, đi vào các hầm trú ẩn. Trước khi ra đi, ông đã vỗ vào vai Castries hai cái thật mạnh để tỏ sự tín nhiệm. Năm ngày sau, Thứ trưởng chiến tranh De Chevigné lên thăm Điện Biên Phủ. Đã tốt nghiệp trường Cao đăng quân sự Saint Cyr, ngài có kinh nghiệm về những chuyến đi thanh tra chính thức và không tin vào những ấn tượng bề ngoài. Ngài chỉ đi có một mình và đến Điện Biên Phủ vào buổi sáng thứ ba cốt để cùng trải qua một ngày nghỉ cuối tuần với Castries. Ngày hôm đó, hai tiểu đoàn dù do Langlais chỉ huy mở một cuộc tiến quân thăm dò đến tận các cao điểm 781 và 754 ở phía Đông. Mục đích cuộc hành quân này là nhằm phá hủy khẩu pháo 75 của Nhật Bản, từ ngày 31 tháng 1 cứ vào lúc 17 giờ những ngày lẻ là bắn vài quả đạn vào trung tâm cứ điểm của Pháp. Trung tá Piroth chỉ huy cụm pháo binh Điện Biên Phủ đã chờ cho khẩu pháo Việt Minh bắn hết ba quả đạn để tính toán kỹ lưỡng vị trí đặt pháo, rồi mới cho các khẩu 105 của Pháp tưới đạn ào ạt lên chỗ nghi có pháo Việt Minh. Hôm sau là ngày chẵn, không nghe thấy một tiếng pháo nào. Các pháo thủ của Piroth sướng phổng mũi, hy vọng đã tiêu diệt được pháo địch. Nhưng đến 17 giờ ngày 3 tháng 2, tức ngày lẻ, khẩu pháo do Nhật Bản chế tạo lại bắn, và ngày 5 tháng 2 lại tiếp tục bắn. Ngay tới hôm đó, trung tá Langlais đến tận vị trí cụm pháo binh để quát mắng các pháo thủ. Trung úy Constantin phụ trách cụm pháo 15 là người hứng chịu sự nóng giận của trung tá Langlais chỉ huy lực lượng phản kích. Trước khi quay về sở chỉ huy, Langlais còn đe một câu: - Tự tôi sẽ đích thân đi tiêu diệt khẩu pháo Nhật. Tờ mờ sáng hôm sau lính dù đã tới chân điểm cao 781. Sườn núi gần như dựng đứng. Quân Việt đóng ở trên đỉnh, nấp trong những hầm hố ngụy trang rất kỹ, có thể tránh được bom và pháo 105. Lính tiểu đoàn dù lê dương và tiểu đoàn dù số 8 bám vào vách đá cố tìm cách leo lên đã bị bộ đội Việt Minh ném lựu đạn xuống. Vốn là người dân xứ Bretagne nên Langlais rất kiên cường nhưng sau ba mươi sáu giờ tiến công đẫm máu mà không đạt kết quả đành phải ra lệnh rút về. Ngài Chevigné đã ngồi trên tháp xe tăng Hervouet theo dõi một phần trận chiến đấu. Ngài đã nhìn thấy khá rõ có một ý niệm về những khó khăn trong cuộc chiến tranh vùng rừng núi. Đêm hôm đó, Quốc vụ khanh Chevigné nghỉ lại trong hầm đại tá Castries. Hai người có quan hệ họ hàng với nhau và đã nói chuyện với nhau rất thoải mái. Sáng chủ nhật, ngài Chevigné rời Điện Biên Phủ trước 5 giờ chiều nên không được nghe Việt Minh lại bắn từ khẩu pháo 75 tịch thu được của Nhật Bản, ba phát đạn vào cứ điểm Eliane. Hôm đó là ngày 7 tháng 2, một ngày lễ. Ngày 19 tháng 2, Bộ trưởng Quốc phòng Pleven cùng đi với tướng Ely, Tổng thanh tra quân đội kiêm cố vấn quốc phòng, lên kiểm tra tình hình Điện Biên Phủ. Cả hai vị nhận xét, tập đoàn cứ điểm tổ chức phòng ngự rất tốt. Mọi người ở Điện Biên Phủ và ở cả Hà Nội đều mong Việt Minh tiến đánh. Khi vào Sài Gòn, tướng Ely hỏi tướng Navarre: - Ông có cùng đồng ý thử sức ở Điện Biên Phủ không? Tổng tư lệnh đáp: - Thành thật mà nói, tôi không thích đi đến chỗ đó. Tôi chỉ mong Việt Minh nghĩ việc đánh chiếm Điện Biên Phủ sẽ phải trả giá đắt và sẽ không tiến đánh như đã từng làm hồi tháng 1. Bây giờ, mọi người đều biết, niềm hy vọng của tướng Navarre chỉ là hão huyền. Từ vài ngày trước khi tiến công, tướng Giáp nghĩ cái giá phải trả cho Điện Biên Phủ bất luận thế nào cũng là giá rẻ. Từ những ngày đầu tháng 3, Castries báo cáo về Tổng hành dinh là Việt Minh đang xiết chặt vòng vây chung quanh Điện Biên Phủ. Ngày 1 tháng 3, ngay khi vừa mới ra khỏi lòng chảo đội tuần tra đã chạm địch ở phía Tây. Trong khi đó tám ngày trước, lính dù đi xa tới mười kilômét cũng không gặp địch. Ngày 3 tháng 3 trung úy Fox thuộc tiểu đoàn 5, trung đoàn bộ binh Angiêri số 7 vừa đi cách cứ điểm Gabrille 400 mét về phía Đông Bắc đã rơi vào một ổ phục kích. Ngay hôm sau, đại úy Gendre với hai đại đội trong cùng một tiểu đoàn với Fox đã đụng độ với địch tại chân cao điểm 633, cách cứ điểm Gabrielle một kilômét về phía Bắc. Ngày 10, những đội tuần tra ban ngày gặp địch cách vị trí đóng quân 200 mét. Ngày 12 thiếu tá Mecquenem gửi điện báo cáo phát hiện thấy một hệ thống chiến hào địch ở phía Đông, phía Bắc, phía Tây Nam sở chỉ huy của ông. Trong đêm 10 rạng ngày 11 tháng 3, những khẩu pháo 105 của Việt Minh đã được bố trí trong hầm đắp đất. Sáng hôm sau, Việt Minh bàn vài quả đạn pháo vào đường sân bay để chỉnh súng, phá huy một máy bay vận tải đang bốc dỡ hàng. Sáng 12 tháng 3, tướng Cogny từ Hà Nội gọi điện cho Castries theo hệ thống Z.13 mà kẻ địch không thể nghe lén được, cho biết: “17giờ ngày mai, ngày 13 tháng 3”. Đêm Béatrice Trung úy De Veyes, sĩ quan tác chiến phân khu Trung tâm Điện Biên Phủ bắt đầu làm việc từ sáu giờ sáng. Trên bàn đặt trong hầm chỉ huy đã sắp xếp các báo cáo nhận được qua máy vô tuyến điện ban đêm. Trung úy nhìn thời điểm báo cáo: Thứ bay ngày 13 tháng 3. Anh thầm nghĩ: “Tối mai sẽ làm lễ cầu chúa trên cứ điểm Béatrice”. Thật là một ý nghĩ vớ vẩn. Từ hôm qua, chính anh là người đã biết rằng cứ điểm của tiểu đoàn 1 thuộc bán lũ đoàn lê dương số 13 sẽ bị tiến công vào buổi tối 13 tháng 3 qua bức điện mật tướng Cogny gửi tới. Đại tá Casries đã báo cho anh biết trong buổi hội ý. De Veves tìm đọc các báo cáo của cứ điểm Béatrice: “Trong đêm 12 rạng ngày 13 tháng 3, tất cả cảnh giới báo động đều bị tiến công, buộc phải rút lui. Tố báo động của đại đội 2 bị mất tích. Số quân trong tổ là ba người. Địch tiếp tục đào lấn, nhất là ở mặt bắc là phía chiến hào địch chỉ cácht sứ mầu xanh, món ăn từ hương thơm của gạo toả ra một mùi vị rất ngon. Ba người lặng lẽ ngồi ăn. Ở châu Á, đây là một tập quán, ăn cơm không gây ra những tiếng động để chứng tỏ là người lễ phép. Sau bữa cơm, hai người đàn ông hút mỗi người một điếu thuốc lào. Khói thuốc lào cho đến khi hết nóng vẫn còn cay xè và dầy đặc, cháy bỏng họng, bỏng phổi, tạo ra một cơn say. Pierre nói, anh thích hút thuốc lá thơm Camel hơn. Péraud trả lời: - Sáng mai, tớ sẽ đi lùng mua cho cậu ở chợ buôn lậu của bọn lính đào ngũ. Tớ cũng cần mua cà phê và sữa hộp. - Đừng đi một mình. Hình như từ khi bọn lính Angiêri và Ma-rốc từ cụm cứ điểm Dominique bỏ chạy tụ tập ở đây, tình hình có vẻ không an toàn. Những con chuột Nậm Rốm ngày càng đông hơn. Chúng cũng đang kiếm thức ăn. Cả ba người cùng nằm trên sập. Jean Péraud đột nhiên nói: - Ngày một ngày hai, rồi sẽ có ngày chúng đến cướp phá gian hầm này. Phải kiếm một chỗ nào gần trung tâm để đưa cô Trinh rút xuống đó. - Cậu tưởng dễ kiếm đấy à? Tất cả các hầm hố ở Claudine đều đặt sở chỉ huy tác chiến hoặc chật ních lính bị thương. Ba người im lặng. Một lát sau, Pierre nói qua vai Péraud, hỏi cô Trinh: - Cô Trinh, sao em không rút khỏi Điện Biên Phủ ngay trong lúc này? Em đi đêm, có thể lọt qua vòng vây của Việt Minh, đến một bản nào đó ở vành ngoài trước khi trời sáng. Phần lớn đồng bào của em đã đi hết rồi. Người đàn bà trẻ vẫn không động đậy. Đi ư? Nhất định, cô có thể đi khỏi chỗ này. Bordier đã để lại cô cho những đồng bạc trắng, cô có thể thuê người dẫn đường đi đến tận Lào Cai, nơi gia đình cô đang sinh sống. Nhưng rồi sau đó sẽ ra sao? Cô không muốn tự trả lời câu hỏi rất khó giải đáp này. Cô đã rời bản làng quê hương năm mới mười một tuổi. Mẹ cô lúc đó đã là một bà già mê tín dị đoan, còng lưng vì những công việc đồng áng và cúng lễ thần linh. Trong thế giới của mẹ cô nhan nhan rất nhiều thần thánh, ma, quỷ. Những nhân vật cõi âm phủ này có mặt khắp nơi, bao gồm đủ loại. Có những “cái ma” là vong linh của tổ tiên, là những người trong nhà, hoặc tốt hoặc xấu, tùy theo cá tính trước kia của họ. Có thần Thổ công giữ đất và thần Cổ thụ giữ cây. Có ma đậu mùa và ma cà rồng là loại độc ác nhất. Những loại này có khi hàng trăm năm mới trở về bản, đem theo các mầm bệnh dịch tả, dịch hạch, một nạn đói lớn. Để dẹp bớt cơn thịnh nộ và hoà giải với các ma này, mẹ cô đã phải cống hiến một phần quan trọng thời gian và của cải để cúng lễ. Do sợ “cái ma” báo hại, mẹ cô Trinh đã không dám âu yếm chăm sóc con gái mình. Khi cô Trinh bị sốt rét hoặc tiêu chảy, bà giấu cô trong một góc tối dưới mái nhà tranh, xếp những bao diêm mua được bằng giá rất đắt ở nhà thầy phù thủy gọi là Phù tạo, chung quanh con gái. Đây là những bao diêm trừ tà, nắp bao được viết chữ trên nền giấy vàng hoặc bạc tùy theo giá bán. Đôi khi bên cạnh những bao diêm, còn treo thêm những chiếc đũa tre buộc vào sợi chỉ lụa dài từ nóc nhà rủ xuống. Trong bóng tối, tiếng đũa chạm nhau kêu lách cách không ngừng. Bà mẹ không dám gọi con gái bằng tên thật. Để đánh lừa tà ma, bà gọi con mình là “con lợn đen” hoặc “con chó nhỏ”, những con vật rất thân thuộc. Cô không nhớ có lần nào cha cô cúi xuống nhìn mặt con gái không. Ông là một người cao lớn hơn tất cả những người đàn ông trong bản. Họ có vẻ nể sợ ông vì ông thuộc hội những người đi săn chim cốc, là một hội ngày nay đã biến mất nhưng bắt nguồn từ bên Trung Quốc, được coi như một giáo phái thường đi khắp chân trời, góc bể. Ông không bao giờ mó tay vào công việc đồng áng, rất ngại đụng chạm đến ma quỷ, thường chỉ hay nói chuyện với con chim mồi bao giờ cũng quấn quít bên cạnh ông. Ông thường mang con chim mồi lên thuyền độc mộc, đi ngược dòng sông Nậm Thi nhiều ngày mới trở về nhà. Hoặc đi trên bờ sông, vừa đi vừa câu cá. Con chim mồi có buộc một vòng nhỏ bằng đồng chung quanh cổ, vừa khít để nó không thể nuốt được cá. Vì vậy, mỗi khi bắt được cá, nó lại đặt cá dưới chân ông. Lúc quay về nhà vào buổi chiều tối, con chim to lớn với đôi mắt mỏi mệt lờ đờ như chết vẫn đậu trên cành tre đung đưa trên đầu ông. Ông ăn cơm rồi nằm dài trên chiếu hút thuốc. Khi ông nhả đám khói thuốc phiện đặc sệt ra, con chim mồi liền thò cổ vươn dài tới sát môi ông chỉ để hít đầy phổi thứ khói gây nghiện. Cô cũng không nhớ tại sao cô lại bị bán, và bán như thế nào cho cái “ông” Tây Bordier, một người rất tròn, đầu tròn, mặt tròn, bụng tròn, đùi và bắp chân tròn. Pierre bật cười, nói chen ngang: - Tròn như mặt trăng… Cô Trinh cũng chẳng thấy có một tình cảm gì đặc biệt đối với ông chủ của mình. Hồi cô còn đi học tại trường bà “Xơ” ở Hà Nội, mỗi năm ông Tây Bordier lại về gặp cô vài ba lần, chủ yếu để trả tiền học cho cô. Mỗi lần gặp người con gái Thái, ông lại đưa cho cô vài lát gừng hoặc một bánh sôcôla Menier. Hồi đó, cô kiêu hãnh vì được ông chủ chăm sóc, được các bà phước ưu ái, được mặc những bộ đồ trắng ủi cẩn thận. Cô Trinh không đi đạo. “Ông” Bordier cũng không muốn cô theo đạo Thiên Chúa “để tỏ tấm lòng tôn kính đạo thờ cúng tổ tiên” của dân tộc cô. Các bà xơ cũng không giảng đạo cho cô. Những gì cô thấm nhuần về tinh thần hy sinh và lòng nhân đức, đó là cô đã học qua sự chịu ảnh hưởng của các bạn cùng lớp. Các bà xơ tận tâm vì đạo đã hoạt động vì tình thương yêu, một thứ “nhập đồng” của những người theo đạo. Để chóng hoàn thành việc dạy dỗ giáo dục cô Trinh, Bordier đã gửi cô theo học một năm tại nhà một bà giáo người Hoa. Đó là bà Lô Bình, một người được nể trọng vì có một trường học dành riêng cho các cô gái đến tuổi đi lấy chồng, đặt tại phố Hàng Đào, Hà Nội. Trường nữ học này là một thứ giảng đường về đạo làm vợ, làm dâu. Chương trình giáo dục vừa có tính triết học lại vừa có tính thiết thực, đơn giản và tinh tế. Bà mẹ nhỏ Lô Bình dạy rằng, địa vị xã hội duy nhất dành cho ngươi con gái là kết hôn, làm vợ, tức là phục tùng vô điều kiện người chồng. Giá trị của một người con gái được đánh giá bằng sự khéo léo bằng nghệ thuật biết thoả mãn dục vọng xác thịt cũng như khát vọng tinh thần của chồng. Cô Trinh còn được học cách làm bếp, tổ chức những món ăn ngon. Cô đã tìm thấy ở những qui tắc được dạy dỗ một cuộc sống khôn ngoan và được trọng nể. Cô thường thầm kín mơ ước có được một người chồng giầu sang. “Ông” Bordier đã có được cô Trinh, lúc cô hãy còn trinh tiết mà đã thông thạo nghệ thuật làm vợ, và đã đền bù sự chờ đợi kiên nhẫn của cô. Nhưng bây giờ, cô Trinh hiểu rằng cô chẳng cho Bordier một cái gì cả, ngoài việc phục tùng chồng một cách thờ ơ, lãnh đạm. Một buổi tối tháng 3, Jean Péraud bước vào căn nhà hầm. Gọi hầm này là nhà, vì chính đây là gian nhà đầu tiên mà Jean đã tự tay sửa sang vừa ý mình. Nhà báo ảnh này mặc quân phục nhưng không cư xử như bọn lính tráng. Còn những người lính khác thì huýt sáo gọi khi thấy cô đi ngang qua hoặc văng vào mặt cô một câu bằng tiếng Pháp hoặc tiếng Việt thô bạo: “cởi quần ra mau lên!”. Tại phòng trà dành cho lính Pháp ở đây chỉ có nghĩa là “nhanh chóng cởi ngay bộ đồ lót”. Jean là người đầu tiên đối xử với cô như một phụ nữ. Anh gọi cô là “em” hoặc là “cô gái” nhưng không tìm cách gạ gẫm để ngủ với cô. Cặp mắt mầu xanh lơ của anh thật dịu hiền. Khi anh nhìn cô, cô cảm thấy mình tăng thêm sức lực. Cô không còn là vợ lẽ của ông Bordier nữa mà là cô Trinh một người đàn bà tự do đang khát khao xác thịt, muốn có một cái gì đó để trao đổi. Một đêm, cái đêm yên tĩnh trước cuộc tiến công của Việt Minh cô đã tự hiến thân cho Péraud. Từ mười ngày trước họ vẫn nằm bên nhau trên chiếc giường gỗ rộng nhưng chưa lần nào đụng vào người nhau. Chính cô, trong đêm tối, là người đầu tiên vuốt ve bộ ngực của Péraud. Cô tự cởi quần áo rồi chập chờn đến sát anh trong bóng đen. Mẹ trẻ Lô Bình chưa chuẩn bị cho cô Trinh điều gì phải đến trong cái đêm này. Nhưng, từ đó trở đi ngày nào cô gái cũng có một sự thích thú cuồng nhiệt muốn chinh phục anh chàng người Pháp. Cô rình bắt gặp trong cái nhìn của Péraud một ánh mắt đen làm nảy sinh sự ham muốn và thích thú với cố gắng của Péraud muốn chống lại sự cám dỗ. Khi cô trao thân cho anh, đó là cô muốn cảm ơn. Cô cho rằng đó là trả tiền trước để được lãi về sau. Trong đêm hầm hập nóng của căn nhà hầm, trên cái sập gỗ cứng, cô đã trao cho anh tất cả làn da nâu, bộ ngực rắn, cái miệng ướt, và cô đã giải phóng cho anh được tự do. Đó là tình cảm quý báu, quan trọng, tự nguyện thoải mái và xứng đáng. Anh đã khám phá cô. Cô đã hy sinh cho anh. Buổi sáng, khi Péraud rời khỏi gian nhà hầm, cô Trinh đột nhiên lo sợ như buổi đầu tiên. Cô sợ mất anh. Lúc này, anh đã ngoảnh lưng về phía cô nên không nhìn thấy sự hốt hoảng trên gương mặt cô gái. Cô muốn có được sự đảm bảo sống bên anh suốt đời, có quyền được phục vụ anh mãi mãi. Đến bây giờ cô đã khám phá ra sự bí mật của các bà “Xơ” tại Hà Nội và cũng đến bây giờ mới hiểu câu “Tin yêu phục vụ Đức Chúa Trời”. Phải chăng là như vậy đó? Nằm bên cạnh cô, hai người đàn ông vẫn tiếp tục câu chuyện. Cô nhẹ nhàng ruỗi cánh tay. Bàn tay cô đặt nhẹ lên vai Jean. Không phải là vuốt ve, mà chỉ là một sự tiếp xúc, chứng minh cô có mặt. Pierre nói: - Tất cả sẽ hỏng hết nếu chậm trễ. Ta không làm được gì với một người đàn bà bên cạnh. Phải cho cô ta đi khỏi nơi này. - Không, anh Pierre, tôi không đi khỏi Điện Biên Phủ đâu. Tôi cứ ở đây. Cô cảm thấy bàn tay gân guốc của Jean nắm chặt tay cô. Đó là ngày 10 tháng 4 năm 1954, vài phút trước lúc nửa đêm. Câu chuyện giữa Jean Péraud không có hồi kết. Nhưng cuốn sách này không phải là một bộ tiểu thuyết. Nên tôi chỉ xin tóm tắt là, mãi đến tận tới ngày 7 tháng 5 năm 1954, khi đã kết thúc trận đánh, người đàn bà này mới rời khỏi Điện Biên Phủ. Jean Péraud đã lên xe Molotova đêm 25 rạng 26 tháng 5 về trại tù binh nhưng đã nhảy xuống chạy trốn. Pierre Schoendoerffer cũng nhảy xuống theo nhưng đã bị Việt Minh bắt lại. Lần cuối cùng, Pierre nhìn thấy bóng bạn chạy miết phía sau đoi hướng về phía Bắc phía thung lũng Nậm Thi. Vài năm sau, có một nhà báo nước ngoài kể lại, đã nhìn thấy trên toa xe điện giữa phố Hà Nội một người Pháp gầy gò, tóc hung, mắt xanh mặc bộ đồ Kaki theo kiểu Việt Minh, cùng đi với một phụ nữ trẻ tuổi người dân tộc. Người Pháp này từ chối trả lời các câu hỏi của nhà báo châu Âu trong cuộc gặp tình cờ này. Thực tế, không có gì chứng minh đó là Péraud. Nhưng các bạn anh cứ muốn tin là như vậy. Trở lại ngày 5 tháng 4 năm 1954 tại Điện Biên Phủ. Nhờ có thêm lực lượng tăng viện, tình hình đã được cải thiện đôi chút. Hai quả đồi phía Đông, nơi đặt Eliane 2 và Eliane 4 đã chống chọi được suốt sáu đêm liền trong cuộc tiến công giải đoạn hai của Việt Minh. Nhìn chung, nếu như binh lính trong tập đoàn cứ điểm đã rất mệt mỏi thì toàn bộ tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn nhảy dù lê dương số 1 lần đầu tiên đã tới Điện Biên Phủ với đầy đủ quân số. Castries đang chờ có thêm tiểu đoàn thứ hai. Ở Hà Nội, vẫn còn hai tiểu đoàn dù đang chuẩn bị. Tiểu đoàn dù lê dương thứ hai sẽ bắt đầu nhảy liên tục hết đêm này đến đêm khác theo nhịp độ đều đặn của số máy bay, cho tới khi toàn bộ tiểu đoàn có mặt tại Điện Biên Phủ. Tuy nhiên, nếu Việt Minh tạm ngừng cuộc tiến công trực diện thì chưa phải họ đã hoàn toàn nghỉ các hoạt động quân sự. Họ vẫn tiếp tục bắn pháo với nhịp độ tiết kiệm, vẫn cho quân đi tuần tv style='height:10px;'>
Gaucher quay điện thoại nối chỉ huy trưởng Castries: - Báo cáo đại tá. Béatrice sẽ giữ vững nhưng phải có pháo bắn chặn hết cỡ. - Béatrice sẽ được ưu tiên về pháo! Các pháo thủ nã pháo rất mãnh liệt. Cứ bắn liên tục bốn hoặc năm viên đạn lại nhảy xuống hố bảo vệ trước khi Việt Minh bắn trả rồi lại nhảy lên bắn tiếp. Nhưng đã có hai khẩu 105 bị phá hủy, các pháo thủ đều bị thương, một số bị chết. Từ gian hầm tổng đài, người lính nghe điện báo với Veyes: - Thưa trung úy? Không thấy Béatrice trả lời. - Kiểm tra lại máy xem! - Báo cáo, máy vẫn chạy tốt. - Liền sau đó anh lính báo vụ lại tiếp tục gọi trong máy: - Alô! Béatrice! Nghe rõ trả lời! Đột nhiên, qua loa phóng thanh một giọng nói hổn hển từ xa vọng lại: - Béatrice đây! Toàn thể ban chỉ huy cứ điểm đều bị tử trận… Một quả đạn nổ chậm đã lọt vào trúng hầm chỉ huy… Tất cả.., chết hết.., chết, hết… - Sở chỉ huy trung tâm đây? Hãy đưa máy cho một sĩ quan! Gọi lại cho chúng tôi! - Chết hết rồi… Chúng tôi vẫn đang tiếp tục bị bắn như giã giò… Pháo binh của Piroth phát huy hoả lực bắn ngăn chặn nhưng không có kết quả. Pháo Việt Minh bắn cả vào sở chỉ huy ở vị trí trung tâm. Trung úy Veyes liếc nhìn đồng hồ: lúc này là 8 giờ kém 15 phút. Anh ghi lại rất chính xác trong sổ trực ban: 19 giờ 45 phút. Chỉ vài giây sau Veyes đã bị một luồng gió mạnh quật ngã xuống đất. Gian hầm rung lên. Điện tắt ngấm. Dư âm của tiếng nổ còn kín đặc trong đầu. Trong bóng tối và trong đám bụi đất, Veyes lần mò tìm chiếc đèn pin. Một luồng ánh sáng lóe lên soi rõ gian hầm. Nhiều xà gỗ trên nóc hầm đã bị rơi xuống. Một lớp đất khô phủ lên các cỗ máy thu phát hãy còn lập lòe tín hiệu le lói qua lớp bụi đất. Trung úy Veyes hiểu rõ ngay: một quả đạn pháo của Việt Minh đã rơi trúng gian hầm bên cạnh, nơi đặt vị trí chỉ huy của tham mưu trưởng. Anh vội soi đèn nhảy sang. Thiếu tá tham mưu trưởng Vadot đang đứng, có vẻ như không việc gì, nói với trung úy Veyes: - Trung tá bị… Anh hãy nhìn xem? Veyes lại bấm đèn pin, soi sáng toàn bộ gian hầm. Các cây gỗ trên nóc đều bị sập, rơi chất đống, lộn xộn. Đất phủ đầy lên những xác người. Dưới gầm chiếc bàn làm việc đã bị phá hủy, trung tá Gaucher nằm thẳng cẳng, hai mắt mở to, miệng phủ đầy đất, ngực vẫn còn phập phồng đang cố hít không khí. Nhưng cả hai cánh tay của trung tá đã bị lìa khỏi cơ thể, bộ ngực đẫm máu. Bên cạnh trung tá là một xác người đã bị cụt đầu, nhưng Veyes vẫn nhận ra được, đó là Bailly, bạn cùng học trường kỵ binh Coetquidam. Gần bên cạnh là trung úy Bredeville đang thở hổn hển trước khi tắt thở. Thiếu tá Martinelli cũng bị thương. Bên ngoài, pháo địch vẫn tiếp tục. Đến 20 giờ 30 phút, Veyes mới bắt liên lạc được với Béatrice. Từ một vị trí còn lại ở phía Tây Bắc cứ điểm, điện đài báo về cho biết “Việt Minh ở khắp mọi nơi, chúng tôi đang chiến đấu chung quanh sở chỉ huy.” Đến 9 giờ tối thì cả đại đội cuối cùng này cũng không thấy trả lời nữa, cho tới nửa đêm thì toàn bộ cuộc chiến đấu đã được sắp xếp mường tượng lại như sau: cả hai sĩ quan Pégot và Gaucher đều bị tử trận từ đầu, cuộc phòng ngự thiếu người chỉ huy rơi vào hỗn loạn, vô tổ chức. Dù sao, cũng không thể tin được rằng toàn bộ tiểu đoàn 1 thuộc bán lữ đoàn lê dương số 13 thiện chiến lại bị đè bẹp nhanh chóng chi trong vài giờ mà không có một lực lượng cứu viện nào. Những tin tình báo cho biết, có hai trung đoàn thuộc sư đoàn 312 Việt Minh đã tiến công Béatrice và tiểu đoàn lê dương đã phải chiến đấu với tỷ số một chọi mười. Buổi sớm hôm sau rất yên tĩnh, một sự yên tĩnh hoàn toàn khác xa với thực tế. Cuộc đấu pháo đã ngừng, không ai nghe thấy một tiếng súng nào. Những chiếc máy bay lượn tít trên cao cũng không bắn phá. Phía Việt Minh cho một trung úy Pháp bị thương mà họ bắt được quay trở về mang theo một thư đề nghị ngừng bắn từ tám giờ đến mười hai giờ để hai bên cùng thu nhặt thương binh. Mọi người ra khỏi hầm trú ẩn, nhìn về phía ba quả đồi Béatrice, chỉ thấy vài cột khói xám bốc cao, quyện vào sương mù đang bị mặt trời xua tan. Binh lính lợi dụng thời gian ngừng bắn để ra sông tắm. Đến buổi trưa tiếng súng lại tiếp tục khi những chiếc Dakota thả đơn vị đầu tiên của tiểu đoàn dù lính Việt số 5 xuống bãi nhảy ở phía Nam. Hà Nội tăng viện cho một tiểu đoàn dù. Sáng mai, có thể sẽ phản kích chiếm lại Béatrice. Nhưng đến 17 giờ ngày l tháng 3, Việt Minh đã lại nã pháo chuẩn bị vào cứ điểm Gabrielle đật trên đồi Độc Lập như đã bắn phá Béatrice ở Him Lam ngày hôm trước. Từ vị trí chỉ huy đặt trong hầm có mái đắp đất dày tới một mét trên những thân cây lớn, thiếu tá Mecquenem to vẻ tin tưởng sẽ chịu đựng được trận bắn phá. Ông là một sĩ quan đã từng phục vụ tại cơ quan liên lạc thường trực của Pháp tại thủ đô Mỹ Washington, dưới sự chỉ huy của Đại tướng Ely. Ông cũng đã hết nhiệm kỳ phục vụ tại Đông Dương sắp được thăng cấp và nâng chức xứng đáng với khả năng và trí tuệ. Ông đang chán ngán cuộc chiến tranh và xứ sở này, đang căm ghét cái khí hậu nóng ẩm, cái gió bụi ở đâu. Chỉ còn hai hoặc ba ngày nữa thôi ông sẽ được rời khỏi đây, được trở về Pháp bằng phương tiện nhanh nhất. Người thay thế ông là thiếu tá Kah cũng đã bay thẳng từ Pháp tới Điện Biên Phủ, đã có mặt tại đây và đang ngồi cùng với ông trong cứ điểm này. Từ tám ngày hôm nay, thiếu tá chỉ huy đã theo dõi sát từng giờ những động tác đào hào của Việt Minh ngày càng sát gần những vị trí phòng ngự của ông. Đêm hôm trước, ông cũng đã theo dõi trận đánh tại Béatrice ở Him Lam. Ông đã dự đoán, đêm hôm sau sẽ đến lượt Gabrielle của ông bị tiến công. Gabrielle là một cứ điểm cách trung tâm bốn kilômét về phía Bắc nhưng là một vị trí được chọn lọc và mạnh. Cứ điểm được xây dựng trên đỉnh một điểm cao trơ trọi, (vì vậy gọi là đồi Độc Lập), sườn rất dốc nhất là ở mặt Bắc. Cây cối trên cao điểm đã bị chặt hết để dùng làm vật liệu xây hầm và lô cốt, tất cả đều vững chắc. Tiểu đoàn phòng ngự được bố trí trên đỉnh cao, tất cả các sườn dốc đều có lưới lửa quét sát đất. Thiếu tá Mecquenem không có lý do gì để lo ngại. Từ tối hôm đó, pháo Việt Minh đã bắn phá liên tục Gabrielle trong suốt chín giờ ba mươi phút. Đại đội 4 bố trí ở mặt Đông Bắc cứ điểm bị pháo bắn nhiều nhất. Đến mười giờ tối, một quả đạn đã rơi trúng hầm chỉ huy của trung úy đại đội trưởng Moreau làm trung úy chết ngay tại chỗ. Những đơn vị đi đầu của Việt Minh đã bám chân ở mặt Bắc cứ điểm giữa vị trí của đại đội 1 và đại đội 4. Đến 3 giờ sáng Việt Minh ngừng bắn pháo. Mecquenem tranh thủ thời gian củng cố công sự và tiếp tế đạn cho các đại đội. Đến 4 giờ các trung đoàn của sư đoàn 308 bắt đầu xung phong đánh chiếm cứ điểm từ các mặt phía bắc và phía đông. Khoảng 4 giờ 30, Gabrielle gọi điện báo cáo với sở chỉ huy của Castries: - Cuộc tiến công của địch có vẻ như đang yếu dần. Các vị trí của ta nhìn chung vẫn còn nguyên vẹn trừ khoảng giữa đại đội 1 và đại đội 4 có một đơn vị nhỏ của địch đang chiếm giữ. Đại úy Carré đã đem theo một trung đội thuộc lực lượng dự bị tiến ra tăng cường phòng ngự cho phía này. Chỉ vài phút sau, hầm chỉ huy của Gabrielle được coi là một vị trí vững chắc nhất đáng làm khuôn mẫu cho toàn cứ điểm bị pháo Việt Minh bắn sập. Một quả đạn pháo đã xuyên qua nóc hầm rơi đúng giữa ban chỉ huy rồi phát nổ. Thiếu tá Kah bị đứt lìa một chân. Mecquenem và các sĩ quan khác may mắn thoát chết. Sau khi được đại úy Gendre chỉ huy đại đội 3 báo cáo, Castries ra lệnh cho Langlais và Pazzis tổ chức phản kích. Lúc này Langlais đang thay Gaucher chỉ huy khu Trung tâm. Vốn là người được giao nhiệm vụ nắm toàn bộ lực lượng cơ động của tập đoàn cứ điểm, ông đã nghiên cứu trước kế hoạch phản kích. Tiểu đoàn dù lê dương số 1, tiểu đoàn dù thuộc địa số 8 và trung đội xe tăng đã tổ chức diễn tập từ hồi đầu tháng 3. Công binh đã chuẩn bị sẵn các thiết bị để xe tăng có thể vượt qua giao thông hào khi xuất kích. Trung tá Langlais nghĩ rằng tiến hành phản kích trong đêm không đạt kết quả vì vậy đợi đến sáng mới bắt đầu. Pazzis là phó của Langlais cũng là người tổ chức các đơn vị xuất kích. Nhưng thiếu tá Pazzis đã không chọn tiểu đoàn dù số 5 người Việt làm lực lượng chủ chốt, có thêm một đại đội dù lê dương hỗ trợ. Thiếu tá Guiraud chỉ huy tiểu đoàn dù lê dương đã có phản ứng khi nhận lệnh vì không đúng với kế hoạch, trong đó toàn bộ tiểu đoàn dù lê dương đã được diễn tập thành thạo. Ông được Pazzis giải thích: - Tôi đã báo cáo và được đại tá Castries đồng ý rồi. Cần phải tiết kiệm lực lượng dù của lính lê dương, nên thay bằng tiểu đoàn dù người Việt. Khi ba chiếc xe tăng dẫn đầu tiến ngang qua cứ điểm Anne Marie thì đã 6 giờ sáng. Những đại đội thuộc tiểu đoàn dù số 5 người Việt do thiếu tá Bottela chỉ huy tiến theo vết xích của xe tăng. Gabrielle chỉ còn cách họ có một ngàn hai trăm mét. Chợt những quả đạn từ hai mươi bốn khẩu pháo 105 của Việt Minh rơi xuống đầu đoàn quân đang kéo đi phản kích. Tiểu đoàn dù số 5 nằm như bị đóng đinh trên mặt đất. Thiếu tá Bottela bị thương nhẹ ở chân, nhảy tập tễnh từ chỗ này đến chỗ nọ, quát mắng ầm ĩ, lấy gậy vụt cả vào người đám lính đang nằm run cầm cập. Martin thúc đại đội dù lê dương từ phía sau vọt lên, bám sát những chiếc xe tăng mở đường. Lúc này, một tiểu đoàn Việt Minh đã đóng giữ Bản Khe Phai và cao điểm 477 như đóng nút cổ chai. Các xe tăng bắn pháo mở đường tiến. Đoàn quân nhích dần lên tới cách Gabrielle khoảng bốn trăm mét thì lại bị chặn. Lúc này là đúng 7 giờ 15 phút. Cuộc chiến đấu trên cứ điểm Gabrielle vẫn đang tiếp diễn. Việt Minh đang tiếp tục đánh chiếm các lô cốt cố thủ. Thêm một tiểu đoàn Việt Minh vừa chiếm lĩnh được sườn phía đông cứ điểm. Vài giờ sau, Gabrielle hoàn toàn bị Việt Minh chiếm đóng đoàn quân phản kích cũng chấm dứt nhiệm vụ, không giành lại được cứ điểm và cũng không yểm trợ được cho lực lượng còn lại. Đến 11 giờ chiếc xe tăng cuối cùng trong đoàn quân cứu viện không thành mới quay trở về được khu Trung tâm cùng với Martin bốn sĩ quan và một trăm bốn mươi lính còn sống sót thuộc tiểu đoàn bộ binh thuộc địa Angiêri, đúng vào lúc một bầu không khí tang tóc nặng trĩu trong sở chỉ huy trung tâm. Trung tá Piroth, chỉ huy cụm pháo binh vừa mới tự sát bằng lựu đạn trong hầm. Xác của ông được mang về đây, đặt bên cạnh những chiếc áo quan vừa mới nhập thi hài, đó là Gaucher và các phó chỉ huy của ông. Một đội lính lê dương lập hàng rào danh dự với nét mặt buồn thảm của những người đứng canh lễ tang. Thiếu tá, bác sĩ Grauwin, cởi trần trùng trục, người ướt đẫm mồ hôi tới gặp đại tá chỉ huy trưởng Castries báo cáo: lính bị thương nằm rải rác trong các hầm nhưng không còn máu để truyền nữa.