CHƯƠNG 24

Liền năm chinh chiến, đương đầu với biết bao đối thủ hùm sói, Trần Thủ Độ chưa bao giờ thoái chí! Trong cuộc đời ông, cho tới lúc này, chưa kẻ thù nào ông không khuất phục được. Thế mà đến cái việc này, ông bắt đầu ngán. Ông buồn nhất là quan thừa chỉ bỏ đi. Không ngờ sự việc xảy ra lại lớn đến thế. Việc quan thừa chỉ bỏ đi này, cũng giống như việc đức Khổng Tử từ bỏ nước Lỗ1 mà đi. Té ra việc ông làm, lại phạm vào nhân nghĩa. Ông vẫn tưởng đối xử với quan thừa chỉ như vậy, là ông quá độ lượng, nếu không nói là rộng lượng. Hóa ra ông đã nhầm.
Việc trước đây ông không giết quan thừa chỉ là nhân. Vì vậy ông ta đã ở lại với triều đình, đã tận tâm báo đáp. Chỉ riêng việc ông ta tâm phục được Nguyễn Nộn theo về vua mới, tránh cái hoạ nồi da xáo thịt; công ấy lớn lắm, không gì so sánh được.
Quan thừa chỉ bỏ đi có nghĩa là việc ông làm mới đây là bất nhân. Vì bất nhân, nên người hiền mới bỏ đi. “Người hiền bỏ đi!” Đó là điều Trần Thủ Độ lo sợ nhất. Ông đã cho người đi tìm các ngả vẫn không thấy tăm hơi gì. Người nhà cũng không biết quan thừa chỉ đi đâu. Ông lại cho hỏi cả chỗ thị nữ Trịnh Huyền, Huyền cũng không có tin tức gì về quan thừa chỉ.
Trần Thủ Độ buồn đến nẫu ruột. Ông tự thấy hổ thẹn. Đây là việc đầu tiên ông làm trái với lời dạy của Hoàng Tiên Sinh. Ông cảm thấy, như chính ông phản lại người thầy đã chỉ dẫn cho ông, những điều quan yếu nhất trong đạo lý làm người.
Trần Thủ Độ đang băn khoăn day dứt thì Lê Tần bước vào. Nét mặt tướng quân thản nhiên như không. Chẳng biết tướng quân đem đến tin lành hay tin dữ. Vái Trần Thủ Độ xong, Lê Tần nói:
- Trình Thái sư. Hiện thời chưa biết hoàng thượng ở đâu. Dò tìm mãi mới biết, sau khi chia tay đám quan ở nội hầu phía bắc, nhà vua đã cùng với thân vệ tướng quân Trần Khuê Kình và chi hậu cục Trần Thiêm đi về hướng đông. Nhưng mất hút không tìm thấy dấu vết. Còn Hoài vương Liễu hiện đã về ở trong thái ấp. Nghe nói ông ta cũng đang gấp rút đôn đám dân binh lên làm tinh binh.
Đắn đo giây lâu, Trần Thủ Độ nói:
- Theo ta ước đoán, hoàng thượng lên Yên Tử. Ngay từ nhỏ, nhà vua đã có chí hướng tu Phật. Có nhẽ ngày mai thiết triều, ta phải bố các việc này cho bá quan văn võ cùng thấy. Rồi các quan chọn cử ít người cùng ta lên Yên Tử đón xa giá.
Có một việc ta muốn nhờ tướng quân. Phi tướng quân không ai làm nổi. Tức khi ta đi đón xa giá, thì tướng quân thống lĩnh việc cai quản kinh thành. Lê Tần nhìn vào gương mặt đau khổ của Trần Thủ Độ, hỏi:
- Bẩm… thái sư đi vắng bao lâu?
Ta đi nhanh nhất là năm ngày, chậm nhất là mười ngày sẽ lại có mặt ở Thăng Long.
- Trình thái sư, nếu Hoài vương đem binh vào kinh sư thì làm thế nào?
- Trước hết nó không thể họp binh nhanh như thế được. Nhưng nếu nó họp được binh mà kéo về kinh sư, tức là nó làm giặc. Tướng quân phải ra tay diệt. Ta cầu mong điều đó không bao giờ xảy ra. Nếu tướng quân nhận lời đảm trách việc cai quản kinh thành, ta đi mới thực yên tâm.
- Dạ… bẩm đức ông, nếu trong mười ngày thì tiểu tướng xin nhận… Ngoài mười ngày, tiểu tướng không dám nhận. Xin đức ông xét cho.
- Được. Ta chỉ cần mười ngày thôi. Giã ơn tướng quân. Ngày mai thiết triều, ta sẽ trao binh phù cho tướng quân, để tiện việc sai khiến.
Lại nói đến việc vua tôi Thái tôn từ chùa Giác Hải ra đi từ lúc mờ sáng. Cứ men theo sườn núi, băng rừng, nhưng rồi phải bỏ ngựa để vịn cây chuyền cành mà đi. Lần mò mãi xế chiều mới tới chân núi Yên Tử. Mệt nhọc quá, vua tôi phải nghỉ lại đó, sáng hôm sau mới đi tiếp. Tính ra từ giã Thăng Long từ giờ hợi ngày mồng ba tháng tư, mãi đến giờ thìn ngày mồng sáu mới tới đỉnh núi Yên Tử.
Vua tôi vào chùa xin được gặp vị đại Sa Môn.
Vừa trông thấy Thái tôn. Phù Vân quốc sư đã vội reo lên:
- Lão tăng có lời chào bệ hạ! Lâu quá, lâu quá không có dịp về kinh. Nói xong, quốc sư dắt tay Thái tôn và dẫn cả đoàn vào nhà phương trượng.
Chú tiểu bê ra một cơi trầu, và rót mời mỗi người một bát nước vối.
Thái tôn còn chưa hết bàng hoàng trước cảnh u nhã của núi rừng Yên Tử. Trời vẫn nắng một màu nắng tươi trong. Từ đây phóng tầm mắt có thể bao quát suốt một vùng biển bao la, tận tít tắp phía chân trời. Hoặc nhìn ngược lên, thấy cả vùng ải bắc quanh co. Nhìn xuống chân, hiện lên nào rừng trúc, rừng thông… Những cây thông cao vút, tán xoè như chiếc lọng, đan nhau xếp hàng suốt từ chân lên tới đỉnh núi, như mới mọc, như dẫn lối chỉ đường cho khách hành hương về Yên Tử. Nhà vua nhìn quanh đây đó thấy gió vẫn thổi hiu hiu làm cho các tán rừng lay động. Nhưng lạ thay, nơi nhà vua ngồi quanh ngôi nhà phương trượng là cả một vùng chùa tháp, mây trắng cứ bồng bềnh trôi. Những tảng mây sà xuống thấp rồi vút bay đi. Mây tiếp mây cứ đùn bốc lên, làm cho riêng chóp đỉnh này mang một màu trắng trong cao khiết, khiến nhà vua liên tưởng như mình đang sống trong thế giới của Phật, tiên. Hỏi ra mới biết, đây là ngọn Tử Phong. Có nghĩa là “gió chết”. Bởi vậy nơi đây tuy thật cao mà thoáng, nhưng dường như quang năm lặng gió. Và chỉ có mây. Thuần một thứ mây trắng nổi lên bềnh bồng. Có nhẽ vì thế, nên quốc sư mới lấy hiệu là “Phù Vân”.
Thái tôn vẫn miên viễn phiêu bồng trong thế giới lặng câm suy tưởng giữa tiếng ồn ào thăm hỏi. Một thoáng sau, nhà vua mới sực nhớ ra cảnh ngộ, liền ân cần, niềm nở với quốc sư. Nhà vua nói:
- Bạch quốc sư, đã lâu lắm không thấy quốc sư về triều, trẫm vẫn có lòng luyến nhớ, bèn rủ mấy người thân tín trèo non lội suối đến thăm quốc sư.
- Quí hoá! Quí hoá! Nhà sư cảm động không kém Thái tôn. Đoạn quốc sư hỏi:
- Lão tăng lòng ngay, tâm thẳng, cứ xin hỏi thật. Nhà vua thực tình đến thăm ta hay có việc riêng tư gì Đó? Vì ta thấy, nhà vua đi: từ tuỳ tùng đến áo xiêm mũ miện, đều không hợp lễ đế vương. Còn như nói rằng nhà vua vi hành trong chốn rừng Nho biển Phật, thì thật là không đúng chỗ. Bởi lão tăng đây với nhà vua có lạ gì nhau.
Lời nói thẳng của quốc sư không làm nhà vua phật ý, nhưng quả có làm Thái tôn lúng túng.
Quốc sư lại nói:
- Lão tăng đã lánh trốn bụi trần, không màng tưởng đến cả chức quốc sư mà các triều trước họ Lý đã ban. Lão đã quen cảnh thân khô, tâm lạnh, sương rắn, mặt gầy; quen uống nước suối, chơi cảnh rừng, lòng nhẹ như đám mây nổi. Lão tự biết các cảnh khoe văn đấu võ trước sau gì cũng bị đào thải, nên lánh mình vào chốn lâm tuyền, ích chi mà phải phơi mặt ra hí trường, nhảy múa ngông cuồng, đánh trống gõ mõ, tựu trung chẳng đi đến một kết cục nào, chỉ làm trò cười cho thiên hạ, mất hết nhân cách một con người. Phần lão tăng đã dứt đi một nhẽ. Còn nhà vua, sao lại tự nhiên đi bỏ cái thế nhân chủ, tìm đến sự quê hèn của núi rừng? Chẳng hay nhà vua muốn kiếm tìm điều chi mới lạ, muốn cầu điều chi cao quý hơn cả ngôi vua mà quá gót tới đây?
Nghe quốc sư hỏi, và cũng là sự dãi bầy tâm huyết của Phù Vân, nhà vua lấy làm cảm động, tự nhiên hai hàng nước mắt cứ ứa ra. Một lát sau nhà vua mới nói được:
- Trẫm lên ngôi báu, từ khi còn là một đứa trẻ chưa ý thức được. Thế rồi hai thân sớm vội bỏ đi. Nhờ có Trần Công2 giúp rập, việc lớn đang hình thành. Nay đã lớn khôn, trẫm ý thức được những điều như Quốc sư đã thấy và sớm lìa bỏ. Thử hỏi, ngôi báu mà làm chi? Quyền bính mà làm chi? Rốt cục cũng chỉ là “vạn pháp qui không”3. Nay trẫm vào núi này chỉ cầu làm Phật, chứ không cầu vinh hiển, hoặc một điều gì khác.
Nhà vua giấu biệt tâm trạng mình, và các sự kiện vừa xảy ra trong hoàng cung. Thành thử quốc sư cũng không hay biết gì về chuyện riêng tư của hoàng thượng. Phù vân tự nghĩ: “Một người dám bỏ ngôi báu mà đi. Giũ quyền thế như vứt bỏ một chiếc áo tơi rách. Việc đó xưa nay ngoại trừ thái tử Tất-đạt-đa4, chưa ai làm được. Quý thay tấm lòng thanh sạch của đức vua”.
Mặc dù vậy, Phù vân vẫn nói lại với nhà vua cho minh bạch:
- Lòng bệ hạ trắng trong chẳng có gì đáng phải ngờ. Song lão tăng cũng phải nói để bệ hạ rõ: “Trong núi vốn không có Phật” Vậy Phật ở đâu? Phật ở ngay trong lòng ta. Nay nhà vua ở ngôi cao mà thuần mưu việc thiện, để cứu vớt muôn dân. Lại giữ cho tâm, thân lúc nào cũng hồn nhiên vô trược, con người luôn luôn thể nhập với vạn vật mà không bị đắm chìm trong cảnh vật, tức là đã giữ cho cái tâm được trong lặng. Giác ngộ được cái tâm ấy, tức thị nhà vua đã liễu ngộ rồi, đã là Phật rồi, hà cớ gì phải đi cầu Phật ở đâu cho phí sức.
Nghe quốc sư nói, Thái tôn thấy như mình đã được giải thoát. Trong mấy ngày nghỉ ngơi, nhà vua thường được quốc sư thù tiếp sau những buổi đèn nhang kinh kệ. Hai người đàm đạo thật là tâm đắc. Thực tình, nhà vua không còn nghĩ gì đến Thăng Long, không nghĩ tới chuyện trở lại với ngai vàng nữa. Nhà vua cũng không để ý đến việc ai sẽ thay mình lên ngôi quân trưởng. Trong khi nhà vua muốn an trụ với cảnh vật Yên Tử thì Trần Khuê Kình, Trần Thiêm lại vô cùng ngao ngán. Thiêm vốn quen cảnh sống nhàn tản trong nội cung còn đỡ, chứ Khuê Kình là một võ tướng quen nghề kiếm, kích, không thôi luyện rèn, mà nay phải ăn không ngồi rỗi, tưởng không kém chuyện bị cầm tù.
May thay tới giờ ngọ ngày mùng chín, thì thấy tiếng người ồn ào lên núi. Một lát sau, Trần Thủ Độ và tả hữu rầm rập kéo vào nhà phương trượng. Nghe tiếng chân rậm rịch, Thái tôn đã đoán ngay điều gì sắp xảy ra. Tâm trạng nhà vua mênh mênh buồn. Cảnh Thăng Long lập tức hiện ra với bộ mặt đau khổ của Chiêu Thánh, với nỗi uất giận của Hoài vương, với lời đồn đại và sự khinh ghét của kẻ sĩ và dân chúng kinh kỳ, khiến nhà vua chán ngán đến rã rời. Trái với nhà vua, Khuê Kình mừng như mở cờ trong bụng. Dù có là chỗ thân tình và nể trọng đức vua, Khuê Kình cũng không thể náu mình ở chốn sơn lâm heo hút này được.
Thái sư dẫn tả hữu vào quì lạy đức vua và ra mắt Quốc sư.
Thủ Độ và các quan ra sức khuyên mời đức vua sớm trở lại triều đình. Nhà vua buồn rầu nói:
- Chí ta đã quyết ở nơi cửa Phật. Xin quốc phụ cùng bá quan chọn lấy người hiền để tôn phù lên ngôi quân trưởng.
Thái sư nói:
- Tôi chắc bệ hạ nhiều lần đi kinh lí, đi vi hành đều thấy lòng dân từ trẻ nhỏ đến các vị long lão5, không một ai không trông đợi ở bệ hạ. Từ các vị cố lão trong triều đến các sĩ thứ trong nước, không ai là không hướng về bệ hạ. Thế mà nhà vua lại bỏ đi để mong thoả cái chí hướng riêng mình thì trăm họ bỏ cho ai, giang sơn rốt cuộc rồi sẽ ra sao?.
Tại sao bệ hạ lại bỏ muôn dân để vào trong núi tu Phật, mà không nghĩ rằng, có vì chúng sinh nên Phật mới trở thành Phật. Vả lại Phật là ở nơi tâm bệ hạ, chứ còn phải cầu tìm ở đâu?
Các quan cũng hết lời khuyên mời. Nhà vua vẫn một mực chối từ.
- Trẫm còn trẻ dại, không xứng ở ngôi để làm nhục xã tắc.
Thái sư cũng tỏ ra quyết liệt, ông nói:
- Nếu bệ hạ đã quyết ở lại đây, thì hạ thần xin đoan quyết rằng - Xa giá ở đâu, triều đình ở đấy. Nói rồi ông xăm xăm cùng tả hữu đi chọn các nơi trong núi: chỗ này xây điện Thiên An, chỗ này xây các Đoan Minh, chỗ kia là Tiện Điện… rồi sai người gấp gáp xây dựng.
Quốc sư thấy vua tôi căng thẳng bèn nói:
- Xin bệ hạ gấp trở lại kinh sư, chớ nấn ná ở đây làm hại đến cảnh núi rừng của lão tăng.
Thái tôn gượng phải vâng lời quốc sư. Trước lúc chia tay, Phù Vân quốc sư nắm lấy tay nhà vua nói:
- Phàm làm đấng nhân quân, phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, và tâm của thiên hạ làm tâm của mình. Nếu bệ hạ thực lòng hiếu Phật, thì không gì bằng lo cho hạnh phúc của bách tính, giảm nhẹ hình án, chăm lo cây đức của mọi nhà mãi mãi sum xuê. Và nữa, sự tìm hiểu về nội điển, xin bệ hạ chớ nguôi quên.
Kể từ bữa ra đi tới ngày đón được xa giá về tới kinh sư, Trần Thủ Độ và tả hữu đã đi về mất đúng bảy ngày đêm.
Quan thái sư vừa về tới nhà, chưa kịp cởi khăn áo, Lê Tần đã có thư cấp báo:
“…Hoài vương Liễu họp một vạn quân ở phía ngoài sông Cái từ giờ tuất đêm qua. Tiểu tướng đã cho chẹn các ngã. Đánh hay giữ, xin chờ lệnh thái sư”.
==============.
1. Khổng Tử làm tướng quốc nước Lỗ. Nước Lỗ mạnh, Tề sợ Lỗ mạnh sẽ chinh phục mình, bèn chọn gái đẹp dâng vua Lỗ. Mỹ nhân múa hát, Lỗ Định Công xem cả ngày không chán.
Tử Lộ bảo Khổng Tử: “Thầy nên đi thôi”, Khổng Tử nói: “Vua Lỗ sắp làm lễ tế giao, nếu nhà vua đem thịt tế đến cho các quan đại phu thì ta còn có thể ở lại”. Nhưng điều đó đã không xảy ra. Khổng Tử bỏ nước Lỗ mà đi.
2. Trần Thủ Độ.
3. Nghĩa là vạn sự, vạn vật đều trở về với hư không - chữ của nhà phật.
4. Tức Phật Thích-ca.
5. Theo qui chế nhà Trần, con trai 18 tuổi gọi là “Hoàng nam”. 20 tuổi gọi là “Đại hoàng nam”. Người già trên 60 tuổi gọi “Long lão” trên 70 tuổi, gọi là “Đại long lão”.