Charity đi quanh quẩn khắp nhà, lòng bồn chồn bất an. Cô lo lắng cho Call, kẻ nào muốn giết anh, chắc sẽ đi tới cùng. Cô nghĩ chúng tiếp tục cho đến khi giết được anh, hay là có ai thộp cổ được chúng. Sáng sớm hôm đó cô nấu điểm tâm cho Call và Jim Perkins rồi đem thịt jambon, chả trứng và bánh mì nướng ra cho hai người canh gác ở bên ngoài. Cô không nấu ăn từ nhiều năm nay, từ khi mẹ cô mất, mấy chị em nhà Sinclair đảm trách công việc nấu nướng trong nhà. Như thế mà cô có thể nấu được những bữa ăn tươm tất, không cầu kỳ nhưng ngọn miệng, và bây giờ công việc nấu nướng này làm cho cô cảm thấy mình hữu dụng. Nhưng công việc cô thích làm nhất vẫn là khai thác mỏ Lily Rose, công việc có thể giúp cô kiếm ra vàng dưới suối. Nghĩ đến chuyện nhà cháy, cô lại rầu thúi ruột. Ngôi nhà đã bị cháy rồi. Call đã nói sẽ xây lại trong một thời gian ngắn thôi, anh tuyên bố chi phí xây dựng để anh lo, vì đêm đó nếu anh không ngủ trong phòng cô, thì kẻ muốn giết anh sẽ không đốt nhà cô làm gì. Mặc dù cô bằng lòng, nhưng phải đợi cho đến khi họ tìm ra kẻ đốt nhà rồi mới bắt đầu xây, và cô không biết khi ấy cô đã về Mahattan chưa. Nghĩ đến chuyện bỏ ngang chuyến phiêu lưu và trở về trong thất bại, cô càng thấy nản chí thêm. Cô không muốn nghĩ đến chuyện từ giã Call để ra về, cô bèn đi ra khỏi nhà bếp, vào phòng làm việc của anh. Anh đang ngồi trước máy tính, đánh đi một tin nhắn. Khi cô đi đến sau lưng anh thì anh vừa đánh nút send. - Anh gửi tin gì thế - Cô hỏi. - Anh đánh thư điện tử gửi Bruce Wilcox ở công ty Datatron, thư ghi một danh sách gồm các công ty sáng chế phần cứng máy tính, những công ty đã chuyên chú việc phát triển sản xuất. anh muốn Datatron tìm trên mạng để thu thập thông tin ở các công ty ấy. - Anh cho như thế là hợp pháp chứ? - Phải. Em đã thấy trường hợp của công ty Wild Card rồi, họ làm còn quá đáng hơn thế nữa. - Anh hy vọng tìm ra được cái gì không? - Hy vọng tìm ra kẻ đang gặp nhiều khó khăn về mặt tài chính, tìm ra công ty đang gặp cảnh ngặt nghèo, muốn ngăn chặn Peter Held, Mega Tech, và cuối cùng ngăn chận anh bắng bất cứ giá nào. - Anh có tin tức gì của Held không? - Không tin gì hết. Vì thế mà anh tự hỏi hắn đã làm gì? - Anh nghĩ có lẽ hắn có dính líu vào vụ này? - Có thể. Khi nào anh tìm ra hắn ở đâu, anh sẽ tìm ra sự thật – Call kéo cô ngồi vào lòng – Em thoải mái chứ? Cô gật đầu, cười - Em thoải mái. - Anh cứ sợ em không muốn ngủ chung phòng với anh. Charity choàng hai tay quanh cổ anh. - Thực ra, em chỉ muốn ngủ chung với anh thôi, Call à, còn ngủ ở đâu không thành vấn đề. Em nói thật đấy, em muốn làm tình với anh – cô muốn nói: "em thích mọi thứ ở anh. Em yêu anh", nhưng cô không nói thế. Nếu cô nói thế, có trời mới biết Call sẽ làm gì. - Anh cũng thích làm tình với em. Thật tuyệt vì hai ta tâm đầu ý hiệp. Hiện giờ chúng ta chẳng có việc gì để làm – Nói xong anh hôn cô, làm tình ngay trong phòng làm việc của anh. Chuyện làm tình không làm giảm bớt nỗi lo sợ của cô, nhưng nó hoãn sự lo sợ lại một thời gian. Xế chiều hôm đó Charity trở lại phòng làm việc, vì không có việc gì nhiều để làm và vì lòng cứ lo sợ liên miên nên cô cố nghĩ đến bà dì ở Seattle và bà Rachael Phitzpatrick, người đã đến Klondike để tìm vàng cách đây nhiều năm. Đến máy tính, cô đánh vào phím cho hiện ra phả hệ mà Call đã giúp cô lập nên trên địa chỉ Ancestry.com và nhìn lên màn hình. Cô thấy tên Sarah Thankful, mẹ của Sarah, Frances Phipatrick và em gái của bà Frances, bà Rachael. Rachael, người phụ nữ can đảm đi hàng ngàn dặm đến một nơi xa xôi, hẻo lánh. Bây giờ tình hình đã khác nhiều và Charity không gặp những cảnh khắc nghiệt mà bà Rachael đã hứng chịu trước kia, thế mà khi cô đến đây, Charity đã phải hết sức can đảm mới dám đi một mình. Cô phân vân không biết việc gì đã xảy đến cho bà Rachael, rồi cô nghĩ đến Ian Gallagher, người đàn ông mà Rachael đi theo đến các khu mỏ vàng, và bỗng nhiên cô tự hỏi không biết chuyện gì đã xảy đến cho ông ta. Bà Rachael đã trở về với cục vàng thật lớn, nhưng dì Mavis đã không biết chuyện gì đã xảy đến cho người đàn ông mà bà Rachael thương yêu. Bốc đồng, Charity đánh tên ông ta vào một danh sách những người có cùng tên hiện ra trên màn hình. Cô nghĩ ông ta sống trong thập niên 80 gần Portland, cô bèn loại hết các tên trong danh sách theo ngày sinh của họ cho đến khi cô không còn tên nào nữa. Trong số người này, không có ai ở tuổi đã sống vào thời đổ xô đi tìm vàng. Cô tìm danh sách đăng ký tàu vào thời ấy, hy vọng có thể tìm ra tên Rachael hay Ian, nhưng cô không biết họ đi tàu nào. Không phải tất cả các danh sách đăng ký của tàu đều được thông báo hết, và thế là cô không tìm ra được cái gì hết. Bất thình lình cô đánh vào máy các chữ đường Chilkot, với linh cảm con đường mòn này dù sao cũng có liên quan đến những sự kiện đã xảy ra. Ngoài ra cô hy vọng đến 50% khả năng hai người này đi theo con đường Chilkot đến Dawson City chứ không theo đèo Ngựa Trắng. Cô đã tìm được trong gần 20 trang tin khác nhau: lịch sử của Chilkot, trang quốc sử đường Chilkot, hồi tưởng đường Chilkot; hơn một tá trang khác nữa. Cô thử tìm trong máy tra cứu khác, nhưng vẫn không có tên Ian. Cô nghĩ đến hôm cô đến thăm con đường này và nhớ hôm đó cô đã cảm thấy buồn da diết. cô nghĩ đến giấc mơ rồi đánh vào mục những người đã chết trên đường Chilkot rồi đợi. Danh sách các trang tin rất hấp dẫn. Cô đánh vào địa chỉ Explorenorth.com rồi lướt mắt trên danh sách các đề phụ của cuốn Palm Sunday Avalanche (trận tuyết lở hôm chủ nhật trước lễ phục sinh). Cô nhớ đã đọc về trận tuyết lở này cách đây nhiều năm rồi và tim cô đập thình thịch. Bất cứ người nào nghiên cứu về phong trào đổ xô tìm vàng đều biết tai nạn rùng rợn vào hôm mùng 3 tháng 3 năm 1898, cả một bức tường tuyết cao 50 feet sụp xuống chôn vùi 60 trong số một trăm người đàn ông, đàn bà. Người ta phải mất bốn ngày đào bới để lôi hết xác người ra. Cô biết lúc ấy người ta phải tạm thời dựng lên nhà xác bằng lều bạt ở Sheep Camp để giữ thi thể cứng đờ của các nạn nhân. Nhưng trong những năm qua cô không nghĩ đến chuyện này và không liên hệ chuyện này với giấc mơ của mình, và cô không bao giờ nhìn thấy danh sách tên của họ. Bây giờ có cả danh sách, tên sắp xếp theo thứ tự A B C lấy từ các bia mộ ở nghĩa trang tại Dyea năm 1979 và từ các số báo phát hành tháng Tư của tờ Dyea Trail, tờ Alaska Mining Record và tờ New York Times. Nhưng danh sách ghi chép lại lộn xộn, lý do lộn xộn này thật rõ ràng. nhiều nạn nhân được ghi chép ở bốn nơi có tên không trùng nhau. Ví dụ tên ở bia mộ ghi là Peter Anderson, nhưng trong tờ Mining record lại ghi Andrew Anderson hay là O. Anderson trong tờ Times, và không có cách nào để chứng minh rằng các tên này là một người hay là ba người khác nhau. Vấn đề còn rối rắm thêm là có tên chỉ tìm thấy trong một nguồn và không có trong các nguồn khác. Cô cho danh sách theo vần thứ tự A B C chạy dần xuống và và khi cô cho danh sách chạy đến tên có chữ G, bỗng cô nín thở. Không có tên Ian Gallagher trong các danh sách nhưng trong bia mộ ở Dyea có ghi tên I. Galehah, trong tờ Record ghi I. Galliher và trong tờ Times ghi Gallarghar. Tim cô đập thình thịch. Cô nghĩ đây chính là tên của ông ta, không còn sai sót gì nữa. Charity vùng đứng dậy hăng hái chạy đi nói cho Call nghe, rồi cô đâm đầu vào ngực anh. Anh ôm cô vào lòng, hai người không động đậy một lát. - Em đã tìm ra ông ta rồi – cô nói thì thào – Ông chết trong trận tuyết lở hôm Chủ Nhật trước lễ Phục sinh. Anh nhìn miệng cô hỏi: - Ai? - Ian Gallargher, tay đổ bác mà bà Rachael đã trốn đi theo. Chắc bà Rachael cùng đi với ông ta, hẳn bà đã thấy cảnh xảy ra. Call cau mày. - Chắc em không nghĩ chuyện xảy đến cho bà có liên hệ đến em chứ? Hai vai cô xịu xuống, vẻ hăng hái của cô từ từ suy giảm. - Em không biết. Hôm chúng ta leo đường mòn Chilkot, em cảm thấy như em nhớ cái gì, thậm chí em đã nằm mơ về chuyện này vào một đêm ở tuần trước. - Em nằm mơ thấy trận tuyết lở à? Cô gật đầu: - Cảnh tượng thật hãi hùng, buồn không thể tưởng tượng nổi. Call thả cô ra và nhích người lui. Anh không nói thêm gì nữa và thấy mặt anh có vẻ buồn bã, cô cũng không nói gì. Nhưng Charity không tin vào sự trùng hợp ngẫu nhiên, và giấc mộng cô thấy đêm nọ xem ra rất giống những gì đã xảy ra. Cô và Rachael dù sao cũng có liên hệ nhau – cô nghĩ như thế. Cô phân vân không biết rồi đây cô có biết được sự thật hay không. Call lắng nghe tiếng chân của Charity đi thơ thẩn trong nhà bếp. Từ khi cô sang ở đây, không khí trong nhà có vẻ khác hẳn, ấm cúng hơn chứ không trống trải. Vào buổi sáng khi anh đi vào phòng tắm, thấy lược chải tóc của cô trên kệ, thấy quần lót của cô treo trên cửa buồng tắm, anh sực nhớ cảnh gia đình có đàn bà, lòng bồi hồi sung sướng khi nghĩ cảnh đi làm về thấy vợ con đang đợi mình. Ban đêm, sau khi làm tình xong, Charity cuộn mình nằm nép vào người anh, anh cảm thấy tim cô đập nhẹ bên cạnh tim anh, anh lại mơ ước được sống trong cảnh người có gia đình, lòng đau đớn không thua gì khi cơ thể bị thương tích nặng. Đau đớn vì anh nhớ từng sống cuộc sống gia đình hạnh phúc, và bây giờ không còn có nữa. Khi cô nằm ngủ, anh nghĩ đến cảnh sung sướng khi ôm cô vào lòng, nghĩ đến cảnh nếu cô là vợ anh chứ không phải người yêu, thì anh sẽ sung sướng biết bao. Charity muốn có con, và trước đây anh cũng thế. Amy là con đầu lòng, nhưng anh và Susan đã định sẽ có thêm nữa. Nếu tình hình khác đi, anh và Charity có thể lập gia đình như cả hai mong muốn. Nếu anh khác đi. Nếu anh không sợ yêu lại. Nhưng nỗi đau đớn do cô gây ra cho anh cứ lớn dần mãi, có lẽ khi cô đi rồi nó mới hết, cho đến khi những hình ảnh về gia đình mà cô đã dấy lên trong lòng anh bị chôn vùi lại, cho đến khi nỗi đau đớn vì ao ước bị dập tắt đi một lần nữa. Đêm qua cô lại nói về chuyện trở về Mahattan như cô đã nói trước đây. Lần này anh không cản ngăn cô, vì anh tin rằng cô về đấy sẽ được an toàn, nên anh muốn khuyến khích cô đi. Tim Call bỗng nhói đau, nhưng anh tảng lờ không quan tâm đến. Anh bỏ đi vào phòng ngủ để lấy tách cà phê anh để quên trên bàn ngủ, và bỗng nhiên anh đưa mắt nhìn chiếc tủ kê sát chân tường. Tự nhiên anh bước đến đấy, quì xuống lôi hộc dưới tủ ra. Dưới đáy hộc là bức hình nhỏ, lồng khung vàng, chụp Susan đang cười với anh. Bức hình nhỏ của bé Amy kẹp vào bên góc trái của khung ảnh. Cổ họng Call nghẹn ngào. Bao lâu nữa anh mới thấy hết đau đớn khi nhìn vào hình của hai mẹ con? Khi nào những bóng ma này mới hết ám ảnh anh? Anh nghe Charity gọi tên anh ở bên phòng kia, và bỗng anh muốn ôm cô vào lòng thật mạnh đến nỗi hai tay anh phát run. Nhưng những bóng ma của quá khứ vẫn còn nán lại. Anh đành đóng hộc tủ, cách ly kỷ niệm, quên quá khứ. Khi anh đi vào nhà bếp, mặt anh trở lại như cũ. Và tim anh khép lại lần nữa. Ba ngày sau Call ngồi bên cạnh Charity nơi bộ bàn tròn gỗ óc chó kê trong góc phòng làm việc của anh. Ross Handerson ngồi đối diện với anh, ông ta to lớn ngồi chật cả chiếc ghế. Tổ an ninh hầu như chưa tìm ra được manh mối gì, họ chỉ tìm ra được một số dấu chân có tầm vóc trung bình, hơi nặng, mang giày tennis. Họ theo dấu chân này qua sườn đồi cho đến đường đi, nhưng đến đoạn đường đá hẹp thì dấu chân biến mất, họ không tìm thấy lại đâu nữa. Họ cũng tìm thấy dấu chân như thế ở khu vực quanh nhà Charity, nhưng dấu chân chẳng có gì đặc biệt, nên cả Ross lẫn cảnh sát đều không mấy hy vọng tìm ra được manh mối. Tin mừng là hiện người ta đã gắn máy camera quan sát ở ngoài nhà. Một màn hình gắn trên tường phòng làm việc cho thấy những hình ảnh cả bốn mặt quanh nhà, giúp họ quan sát liên tục cả ngày lẫn đêm, kẻ gian phi khó mà xâm nhập được vào nhà anh qua hàng rào bảo vệ. Thế nhưng, Call vẫn tức bực, anh muốn cuộc sống trở lại bình thường, muốn chóng xong việc này. Anh hy vọng chuyện này sẽ được sáng tỏ, cho nên khi anh đi vào văn phòng để gửi thư điện tử, anh tin thế nào cũng có tin mới. Khi anh vừa ngồi xuống, nhìn vào màn hình, Charity đã đến sau lưng anh, để nhẹ hai tay lên vai anh. Anh nhận thấy cô là người có tình cảm rất trìu mến, về mặt này cô khác xa Susan. Anh rất thích tình cảm này của phụ nữ. - Có chuyện gì thế? – Call hỏi. - Thư điện tử của Bruce Wilcox ở Datatron. Em nhớ danh sách anh gửi cho anh ấy chứ? - Danh sách các công ty có khả năng bị thiệt hại vì Megatech khám phá ra mặt hàng mới. - Đúng rồi, những công ty nhỏ sẽ gặp khó khăn về tài chính hay phải mất một số tiền lớn dùng vào chương trình phát triển, họ phải bám vào thông tin mà Datatron đã lấy ra được từ Internet. - Anh nghĩ họ sẽ tìm ra được điều hữu dụng à? - Lạy Chúa, anh hy vọng thế - Call gõ con chuột, mở phile. - Trên danh sách anh có mười công ty, dĩ nhiên còn có nhiều công ty khác nữa. nhưng không có công ty nào hợp với tiêu chuẩn. – Call nhìn màn hình – Theo kết quả hiện lên màn hình thì ba trong số những công ty này năm ngoái đã thua lỗ, nhưng không nhiều. Hai công ty mắc nợ suốt hai năm qua, nhưng bây giờ có vẻ đang trên đà tăng tiến – Anh thở dài – Hình như hầu hết đều có vẻ làm ăn khấm khá hay ít ra cũng đang bắt đầu tiến bộ, và có hai công ty làm ăn phát đạt. - Vậy anh nghĩ trong số các công ty này không có công ty nào lâm vào hoành cảnh nguy ngập đến nỗi phải hãm hại anh và Megatech? Anh nhìn màn hình thêm một lần nữa để xem thử những con số có thay đổi không. Anh đáp: - Phải, theo chỗ anh thấy ở đây, không có công ty nào có vẻ muốn hãm hại anh. - Về mặt phát triển thì như thế nào? Có lẽ không có người muốn cạnh tranh? – Có thể. Hai công ty Trech Technologies và Sept System đầu tư rất nhiều vào chương trình nghiên cứu để gia tăng mức tàng trữ dữ liệu của đĩa cứng, nhưng theo tình hình trên máy này thì họ không có ý định cạnh tranh. - Công trình nghiên cứu của họ có giống chương trình Peter Held đang làm không? - Không. Không ai thực hiện công việc giống như thế. - Có thể có người có công trình liên quan đến công việc của anh. - Có thể. Nhưng anh biết cả hai giám đốc này. Anh không tin Vernon Switzer hay Hal Harman có mưu đồ muốn hại anh. - Phải, khó mà tìm cho ra người nào anh quen biết và có ý muốn hãm hại anh. - Đúng rồi. Anh cảm thấy cô đứng sau lưng anh, nhìn thông tin trên màn hình, cảm thấy hơi ấm toát ra từ hai bàn tay cô để trên vai anh, anh lại bị kích thích. Mẹ kiếp, tại sao lúc nào cô cũng có hành động khiến cho anh nghĩ đến tình dục? - Có lẽ chuyện hãm hại anh không dính dáng gì đến chuyện làm ăn thua lỗ - Cô nói và chỉ một tên trên danh sách, anh nhận ra công ty này – Đó là công ty Global Microsystem. Công ty này như thế nào? Họ có vẻ làm ăn rất phát đạt. Có lẽ công ty này đang trên đà phát triển và họ muốn sự phát triển này cứ tiếp tục. Call đọc lại tên công ty, bỗng anh nhớ ra. - Anh biết giám đốc, đồng thời chủ tịch Hội đồng quản trị công ty này, đó là Gordon Spears. Lão ta là đồ ngu, nhưng không vì thế mà lão trở thành tên giết người. Cô cười: - Quả đúng thế. Nếu kẻ ngu là đồ giết người thì chắc em biết cả tá đồ giết người hàng loạt. Call cười. - Anh quen lão ta khi nào? - Lâu rồi, từ hồi Gordon đề nghị cử anh làm giám đốc công ty của lão. Khi ấy anh mới bán công ty Inner Dimensions, công ty trò chơi trên máy tính của anh. Anh đang tìm công việc gì hấp dẫn để làm. - Thế tại sao anh không nhận làm? - Anh không muốn làm việc cho Gordon Spears. - Tại sao không? - Lão thường khống chế hết mọi việc. Vợ lão con nhà giàu. Gordon luôn nuôi mộng vươn lên giàu có cho bằng gia đình vợ. - Em thấy hình như lão làm ăn rất phát đạt. - Phải. Nhưng khốn nạn thay giá trị tài sản của công ty lão so với sự giàu có bạc tỷ của gia đình vợ lão thì chẳng có nghĩa lý gì hết. Cô chồm người tới, cà cặp vú vào lưng anh. Anh cố quên cơn rạo rực đang nổi lên trong anh và chăm chú nhìn danh sách. - Còn công ty Transworld Desings thì sao? – cô hỏi – Hình như công ty này làm ăn cũng khấm khá lắm. Call thở dài, có vẻ chán nản. - Khổ thay là việc làm ra nhiều tiền thường không đưa họ đến việc giết người – Charity nhích người lui, Call quay ghế khỏi bàn phím – Mẹ kiếp, ở đây không có gì cho thấy có ai trong danh sách có ý đồ hãm hại anh cả. Anh cảm thấy cô lại để tay trên vai anh, lần này sự đụng chạm để an ủi anh. - Call, ở đây đang có nhiều người làm việc cho anh. Có lẽ người thám tử của anh sẽ tìm ra ai đó muốn ám hại anh. Call xoa bàn tay lên mặt mình, cố quên sự thất vọng trong lòng mình. Anh đáp: - Phải, có thể thế. Ngay sáng hôm sau có tin lạ đến thật. Khi anh mới vào phòng làm việc thì điện thoại reo. Anh vừa nói chuyện xong, tắt máy di động, thì Ross Handerson đi vào. - Steve McDonald đã tìm ra Peter Held – Call nói - Cậu ta đi nghỉ hè Hawaii với bạn gái. McDonald bảo cậu ta phải về ngay nếu không cảnh sát sẽ đến đấy tìm với lệnh truy nã. - Vậy Held đã về Seattle chưa? – Ross hỏi. Call lắc đầu. - Sáng mai McDonald sẽ gặp cậu ta ở phi trường Vancouver. Vì tôi muốn nói chuyện riêng với cậu ta, nên tôi sẽ đến đấy gặp họ. - Chúng ta cần nhiều an ninh. Jim và Randy ở đây với cô Sinclair. Tôi sẽ đi với ông và khi ta đến đấy sẽ có thêm hai người nữa. Call suy nghĩ lời đề nghị của ông ta. Anh không thích ý kiến để cô ta ở nhà, mà muốn đem cô ta đi theo. Anh ước chi cô không dính dáng đến việc này, nhưng cô đã dính rồi và bây giờ không thay đổi được tình thế. Anh cảm thấy cô nắm tay anh. - Em biết có lẽ anh muốn em ở nhà nhưng… - Được rồi – Call ngắt lời cô, nhìn ánh mắt của cô, anh quyết định. Anh quay qua nhìn Ross – Cô đây sẽ đi với tôi – Anh nghe cô thở phào nho nhỏ - Trực thăng sẽ có mặt ở đây lúc 6 giờ để đón chúng ta. Khi Peter Held cùng đi với Steve McDonald đến khách sạn Pacific ở thành phố Vancouver, Call và Charity đang đợi họ ở căn phòng tráng lệ. Held được chọn lựa hoặc là gặp họ ở khách sạn, hoặc là ở đồn cảnh sát địa phương. Dĩ nhiên anh chọn gặp ở khách sạn. Charity nhìn anh ta vào phòng, đây là một thanh niên lai Âu Á, tuổi gần 30, đẹp trai mặc bộ comlpe màu xám hợp thời trang rất lịch sự. Nhưng lúc này mặt anh buồn bã, mắt thâm quầng khiến anh ta có vẻ hơi hốc hác, hai bên má và quai hàm vẫn còn những vết bầm có màu vàng nhạt. Ít ra những gì anh ta nói đều có thật. Call đi đến gần anh ta, anh mặc cái quần bình thường và áo sơmi trắng ủI phẳng phiu, cravat tháo lỏng và hai tay áo xắn cao đến tận khuỷu tay. Charity thấy sự căng thẳng hiện ra trên hai vai anh, các bắp thịt ở cánh tay trước căng cứng. Anh nói: - Ngồi xuống đi, Peter. Chàng thanh niên ngồi phịch xuống ghế như thể hai chân anh ta đã bị cắt đứt khỏi người. Call chống hai tay lên thành ghế, cúi người nhìn anh ta rồi nói: - Rồi, bây giờ thì anh đã hồi phục sau việc gọi là bị tấn công, anh nói cho tôi nghe việc xảy ra như thế nào? Peter tròn xoe mắt, anh ta ngồi thẳng dậy. - Tôi bị tấn công thật, ông cứ nhìn mặt tôi thì thấy. - Được rồi… cứ cho là câu chuyện của anh có thật. Anh bị trấn lột. Bây giờ anh nói cho tôi nghe hết chuyện này đi. Peter nhìn ánh mắt gay gắt của Call một hồi. Charity tự hỏi không biết chàng thanh niên này gan lỳ được bao lâu trước ý chí sắt đá của ông chủ. Không lâu, chỉ một lát Held buông tiếng thở dài quay mắt khỏi gương mặt rắn rỏi, cuơng quyết của Call. - tôi xin lỗi. Đáng ra tôi nên nói hết sự thật từ đầu cho ông biết, nhưng nếu tôi nói ra, thì tôi sợ Melanie… sợ chúng hãm hại cô ấy. Ngay khi ấy Steve McDonal xen vào câu chuyện, anh ta nói với Call: - Bạn gái anh ấy vẫn còn ở tại Hawaii. Tôi đã cho người canh gác căn phòng cô ấy đang ở. Khi tôi tìm ra việc anh ấy dẫn cô bồ đi theo và không có vé trở về, tôi đã linh cảm chắc đã xảy ra chuyện bất thường. McDonald không xấu không đẹp, quãng gần 40 tuổi, tóc nâu, có lẽ cao chừng 1m75, nhìn người không có gì đặc biệt, ngoại trừ cặp mắt đen am hiểu tình hình và nét mặt nhuốm vẻ phong trần, đôi mắt và nét mặt cho mọi người thấy anh ta là con người rất cứng rắn. Call quan sát Held rồi bước lui khỏi ghế anh ta ngồi, để cho anh có khoảng không gian rộng hơn, nhưng ánh mắt vẫn dán vào mặt Peter. - Nói đi – Anh nói, giọng rất dịu dàng. - Tôi đã nói hết sự thật cho ônngghe rồi. Tôi đang chạy thể dục trong công viên, trời đã khuya. Ba người đàn ông nhảy vào tôi, hai người nắm tay, còn người kia đấm tôi, khi chúng thả tôi ra, tôi bị thương tích trầm trọng. - Vậy chuyện gì làm cho anh bỏ đi? Peter thở dài thườn thượt, mồ hôi lấm tấm trên trán - Vì chúng buộc tôi phải rời khỏi thành phố, phải bỏ ngang kế hoạch của Mega Tech. Chúng nói nếu tôi cứ tiếp tục, chúng sẽ hành hung Melanie như chúng đã đánh tôi. Một thằng nói, để bảo đảm, hắn túc trực canh chừng cô ấy ở nhà. – Anh ta nhìn Call, Charity thấy anh ta có vẻ lo sợ - Call à, chúng dám làm việc này lắm, chúng dặn tôi không được nói gì hết, chúng nói nếu tôi nói, cả hai chúng tôi sẽ bị chúng thủ tiêu ngay. Chúng không dọa đâu. Tôi biết chúng nói thật. - Và thế là anh câm miệng và bỏ đi. Held có vẻ bối rối hơn nữa, má anh dưới chỗ lành lặn ửng hồng. - Tôi nghĩ chắc ông đã đoán ra được tình hình rồi. Tôi tin khi ông đã đoán ra, thế nào ông cũng tìm giải pháp để đối phó với bất kỳ kẻ nào quấy phá chúng ta. Vì thế mà tôi không bỏ công việc, tôi không muốn bỏ dở kế hoạch. Anh ta bấu chặt thành ghế và nói tiếp: - Tôi thực hiện công việc gần xong rồi, ông Call à. Tôi biết công trình nghiên cứu gần xong rồi. Vừa rồi, chúng tôi đã thay đổi kỹ thuật một chút, chúng tôi dùng những phân tử hữu cơ cho tác dụng vào các nguyên tử đồng. Chúng tôi thu được những phân tử kim loại giống như số phân tử chúng tôi đã dùng, rồi phủ chúng lên bề mặt của lớp giấy mỏng silic, nhưng lần này chúng tôi phô bày chúng theo một khuôn mẫu quang học khác với khuôn mẫu chúng tôi dùng trước đó. Mỗi khi ánh sáng biến mất, sự phối hợp của phân tử tách rời ra, để kim loại đồng dính vào giấy mỏng Silic, rồi chúng tôi… - Peter, chuyện này rất phấn khởi – Call cắt ngang, chấm dứt phần trình bày kỹ thuật của anh ta - Điều bây giờ tôi cần biết là ai đứng sau vụ tấn công này? Peter chống hai khuỷu tay lên đầu gối, gục đầu xuống, mái tóc đen dày xõa trước trán. - Tôi không biết. - Bọn người ấy không ai nói gì à? Chúng không nói gì để chúng ta suy ra chúng làm việc cho ai à? - Không – anh ta nhìn lên – Chúng không nói gì hết… chúng chỉ đập tôi một trận nhừ tử, bảo tôi đi chỗ khác và dọa nếu tôi không làm thế, chúng sẽ giết tôi. Call thở mạnh. - Vậy là chúng ta vẫn dậm chân tại chỗ. Steve McDonald nhìn Held chăm chú: - Anh có biết Call đã bị hai lần suýt chết không? Held sửng sốt hỏi: - Sao? - Anh ấy và cô Sinclair suýt chết vì có kẻ phá hoại máy bay của anh ấy, và mới cách đây mấy hôm, nhà cô Sinclair bị kẻ nào đấy đốt cháy. hai người gần chết vì ngộp thở. – McDonald kể thêm nhiều chi tiết, còn Charity nhìn bộ mặt của Peter càng lúc càng khiếp sợ. - Ông Call, xin thề có Chúa tôi không hề nghĩ là chúng theo đuổi ông. Tôi nghĩ vì kế hoạch đã dẹp sang một bên, nên chắc chúng hoan hỉ rồi. Tôi cảm thấy chuyện này quá kinh khủng,thật đấy. Call nhích lui cho rộng chỗ để Peter đứng dậy, anh nói: - Tôi hiểu lý do tại sao anh làm những việc như vừa rồi. – anh nhìn về phía Charity, ánh mắt khó hiểu – Anh đang cố bảo vệ cho người anh yêu. Thỉnh thoảng khi chúng ta sợ, chúng ta thường không có quyết định chính đáng. - Melanie là lẽ sống của tôi, tôi không thể chịu được cảnh cô ấy bị đau đớn. Tôi chỉ ước sao tôi có thể làm được gì đấy để cứu thoát cô ấy khỏi đau khổ. - Có lẽ có việc để anh làm đấy – Call nói - Tôi muốn anh trở lại Hawaii và đệ đơn xin từ nhiệm với công ty Mega Tech. Khi anh đã đưa đơn, tôi sẽ thông báo trên mạng Internet tuyển người để thay thế anh. - Vậy ông sa thải tôi à? – Peter hỏi, vẻ mặt hơi đau khổ. – Tôi tạm đưa anh ra ngoài vòng nguy hiểm một thời gian. Trong lúc đó, tôi sẽ mở văn phòng làm việc ở Seattle, tập trung làm việc trọn giờ ở Mega Tech. Charity cảm thấy lo sợ. - Ý kiến này nghe không ổn đâu – Steve McDonald nói, phản ánh rất chính xác ý nghĩ của cô. - Tôi chán cảnh kẻ thù rình mò ám hại tôi – Call đáp - Chắc chắn hiện tôi đang có kẻ thù rình mò ám hại, và kẻ đó chỉ có việc ngồi yên để đợi thời cơ. Chúng có thể không làm gì được tôi khi tôi sống chui rúc ở nhà như con chuột ở trong hang, tôi sẽ tạo cơ hội dễ dàng cho bọn con hoang tìm tôi. Khi chúng tìm đến, chắc tôi sẽ thấy thú vị hơn là khi đợi chúng. Charity rất lo sợ, bồn chồn trong dạ. cô nói: - Anh định quăng bẫy và dùng anh làm mồi bẫy? Anh quay qua nhìn cô. - Gần gần như thế. Anh sẽ không ẩn mình nữa để xem chúng hành động ra sao. - Tại sao anh không mang tấm biển sau lưng, đi quanh khắp phố Seattle cho đến khi có kẻ bắn vào anh? Anh mím miệng đáp: - Anh phải làm đủ cách để chấm dứt tình trạng này. - Có lẽ ông nói đúng đấy – McDonald nói, vừa chùi cằm - Cứ cho chúng sợi dây, có lẽ chúng sẽ tự treo cổ chúng. - Đúng như kế hoạch của tôi. Khi tôi đến Seattle, chúng ta sẽ vạch ra chương trình chi tiết. - Khi trở về, tôi sẽ bắt tay vào việc ngay – McDonald nói. Còn Call quay qua nhìn Charity. - Bây giờ thì chúng ta biết chắc chắn em không có liên quan gì đến việc này, nên anh nghĩ em về Mahattan thì chắc yên ổn hơn… ít ra cho đến khi việc này chấm dứt. Em có thể đi hôm nay, đáp chuyến bay đầu tiên rời Vancouver đi NY. Cô nuốt nước bọt, lòng rối như tơ vò. - Anh nói gì lạ thế? Còn Kodiak thì sao? Mỏ Lily Rose thì sao? Em còn phải chăm sóc đến nhiều thứ. Ánh mắt của Call có vẻ dịu bớt gay gắt. - Anh sẽ chăm sóc Kodiak, còn những việc khác em sẽ giải quyết sau. - Còn bạn bè của em nữa, những người em phải lo cho họ, bộ anh muốn em đi không nói lời giã biệt à? - Charity, em hãy nghĩ đến việc bảo đảm an toàn cho em trước hết. Cô rát cả cổ. - Còn anh thì sao? Anh có về nhà không? - Anh phải về. Anh có chương trình phải hành động, đã có kế hoạch thực hiện rồi. - Vậy thì em cũng về nhà. Em không thể ra đi mà không nói lời giã biệt với Maude, Jenny và Toby – Charity vòng tay trước ngực, hếch cằm lên. Cô hy vọng môi cô không run. Lạy Chúa, cô không muốn ra đi. Cô chưa muốn bỏ cuộc, chưa muốn bỏ cuộc phiêu lưu ngàn năm một thuở này để quay về với cuộc sống nhàm chán ở Mahattan. Cô không muốn giã biệt Call! Ngực cô nặng như đeo chì, tự thâm tâm cô hy vọng anh muốn cô ở lại. Cô nhìn anh, nhưng không đọc được tư tưởng của anh. - Call, em sẽ về lại Dawson city – Cô nói thật mạnh mẽ - Anh phải đồng ý với em thôi, Anh cào ngón tay lên tóc. - Thôi được rồi, nhưng anh muốn em hứa là em phải ra đi chậm lắm vào ngày mốt. Cô gật đầu, lòng tự hỏi anh có dễ dàng để cho cô ra đi hay không, cô đáp: - Tốt, nếu anh muốn như thế. - Anh không muốn thế, mẹ kiếp! Anh muốn bảo vệ em thôi. Charity không trả lời, cổ cô nghẹn ngào không sao thốt nên lời. Call cũng không nói gì nữa nhưng anh nhìn mặt cô chằm chằm một lát mới quay đi. Anh nói với Peter: - Bây giờ cứ như thế mà làm. Tránh đi một thời gian cho yên ổn, khi nào đến lúc anh cần về lại Seattle, tôi sẽ báo cho anh biết, - Cám ơn ông Call – Peter bắt tay anh. Charity nhìn người thanh niên đi ra khỏi phòng với Steve McDonald và cô nghĩ rằng nếu trước đây Call không có nhân viên trung thành, thì bây giờ chắc anh sẽ có một người. Charity đoán chắc anh tin tưởng công việc ở Mega Tech, sẽ thành công trong một ngày rất gần đây. Cô hy vọng việc thành công này sẽ làm cho anh hạnh phúc.