Dịch giả: Văn hòa - Kim Thùy
Chương 18

Sáng thứ Ba trời nắng nóng vì đang tháng bảy, thời gian này trong năm, đất đai khô ráo và rừng cũng khô. Cho nên thường có nguy cơ hỏa hoạn, nhưng họ may mắn không gặp phải cảnh ấy. Trời nắng nóng rất hợp lý, vì ánh mặt trời chiếu trên sườn đồi giúp cho Charity mất hết cảm giác tởm lợm trong miệng do cảnh Buck gây ra cho cô vào ngày hôm trước.
Maude và Jenny đến đúng giờ, Charity kể cho họ nghe chuyện hôm qua, cô kể lại vắn tắt chuyện xảy ra trong nhà kho. rồi cô nói tiếp:
- Tôi không nghĩ gã nguy hiểm, nếu gã không say thì gã không nguy hiểm… nhưng mình cũng phải canh chừng gã.
- Cô nên tống cổ con dê già ấy vào tù. – Maude càu nhàu nói, còn Jenny đứng bên cạnh bà thì tủm tỉm cười.
Charity hỏi:
- Theo bà thì chúng ta có tìm ra người nào để thay hắn được không?
- Chúng ta có thể đăng quảng cáo trên tờ Klondike Sun, nhưng cũng phải mất một thời gian và chúng ta chắc phải tìm chỗ ở cho anh ta gần đâu đây.
- Mẹ kiếp!
- Nhưng có thể chúng ta không cần thuê thêm. mọi việc rồi sẽ yên hết. chúng ta đã có thêm Jenny để giúp việc rồi. Có lẽ chúng ta nên làm thử xem sao.
Charity ngẩng đầu:
- Maude, ta làm nổi không? Thiết bị dùng vét cát sạn rất nặng.
- Em thế này chứ khoẻ lắm – Jenny nói, đột nhiên cô có vẻ rất năng nổ - Còn nội em thì biết rất nhiều về công việc khai mỏ.
Charity cười:
- Tôi biết bà ấy rất rành – cô nhìn Maude – Theo bà chúng ta có thể làm được không?
- Cứ làm thử rồi sẽ biết làm được hay không.
Cô cười xoà:
- Thôi được rồi. Dẹp Buck Johnson sang một bên. Chúng ta khai thác Lily Rose.
Thế là họ bắt tay vào việc, và họ nhận ra ngay công việc không phải dễ như họ tưởng. Buck đã làm tất cả công việc nặng nhọc. Cái máy vét cát sạn rất nặng. Mặc dù máy có phao nổi trên nước, nhưng nó rất kềnh càng khó chuyển động mạnh, mà trong số họ không ai có thân hình hộ pháp hết. Cho nên đến nửa ngày là họ ướt mèm, mệt nhoài, áo quần tóc tai lấm đầy cát, đá mạt. may thay là trời nóng nên họ không mặc quần cao su lội nước.
họ đứng trên bờ suối tắm mình trong nắng một lát, và khi sắp sửa lội trong nước lại thì Toby xuất hiện trên đường đi.
Anh vẫy tay chào, bước nhanh đến phía họ, với dáng người thanh mảnh, tàn nhang lấm tấm hai má, miệng cười tươi. Khi đến bên họ trên bờ suối, anh nói:
- Tôi thấy quý vị làm việc ở đây, bây giờ không có Buck chắc quí vị cần người giúp việc.
Charity không hỏi làm sao cậu ta thấy họ được, cô có linh cảm cậu ta dùng ống nhòm của Call từ khi có Jenny đến.
- Hai người gặp nhau chưa? – Charity hỏi, cô thấy ánh mắt của Toby nhìn về phía cô gái và hai má cậu ta ửng hồng – Xin giới thiệu đây là Toby Jenkins và đây là Jenny Foote, cháu nội của bà Maude. Toby làm việc cho ông Hawkins và… hay ít ra là thế, theo chỗ tôi biết.
- Rất sung sướng được gặp cô Jenny, - Toby đưa tay, Jenny e lệ bắt tay chàng trai, rồi cậu ta quay qua nhìn Charity – Tôi đã làm xong công việc nhà ở bên kia rồi. Call nói nếu tôi qua đây giúp quí vị mỗi ngày hai giờ thì chẳng sao hết.
Charity ngước mắt nhìn trời, cười mừng rỡ.
- Thật trời có mắt – cô nghĩ đến những giờ quá vất vả vừa qua của họ - Bà và cô em nghĩ sao? Chúng ta nhờ cậu ấy giúp một tay nhé?
Maude cười toe toét:
- Tôi rất mừng có cậu giúp sức.
- Còn Jenny?
Cô gái nhìn xuống hai bàn chân mình đáp:
- Tôi không ngờ công việc quá nặng nề như thế này.
- Tôi sẽ trả công cậu như Call trả, và hết sức cám ơn cậu đã giúp đỡ.
Toby gật đầu, rất sung sướng vì được mọi người niềm nở đón nhận.
- Tôi không biết nhiều về công việc vét cát sạn, nhưng tôi rất muốn học hỏi thêm cho biết.
- Tốt, vậy chúng ta bắt tay vào việc thôi – Bà Maude bước đến phía cái máy vét, mọi người theo bà để bắt tay vào việc.

*

Công việc buổi chiều tốt đẹp hơn buổi sáng rất nhiều. Có Toby giúp sức, họ đã xúc được nhiều thước cát sạn vào máy và cho vào thùng sàng.
- Tôi rất nôn nóng muốn biết chúng ta kiếm được gì không, - Toby nói, vẻ mặt hăm hở muốn biết công việc của anh có kiếm được ít nhiều vàng gì không.
- Đến thứ 6 chúng tôi mới chùi rửa thùng sàng vàng. Anh phải đợi đến hôm ấy mới biết.
Toby có vẻ thất vọng và Charity cố nín cười.
Ngày làm việc sắp hết thì bỗng trên đường có bóng người xuất hiện. Charity nhìn bước đi dài quen thuộc, cô biết ngay khách là Call, và đi bên cạnh anh là con chó lớn lông bạc. Call còn nắm trong tay sợi dây da dẫn theo một con chó khác nữa, nhỏ hơn Smoke, nhưng rất giống nó.
Charity nói với nhân viên của mình:
- Quí vị nghỉ việc được rồi. Hôm nay làm thế là quá nhiều rồi.
Toby có vẻ chán nản vì họ nghỉ việc sớm hơn mấy phút. Nhưng Charity không nín cười được, cô nói:
- Toby, hẹn ngày mai gặp lại cậu.
Nghĩ đến chuyện ngày mai cậu sẽ làm việc, nên Toby vui vẻ, vẫy tay chào mọi người rồi ra về, gặp mặt Call trên đường về.
Charity bước đến gần Call, mắt nhìn vào mặt anh, cố giữ bình tĩnh để tim khỏi đập mạnh. Đôi lúc cô ước gì anh đừng có vẻ dễ thương như thế này.
- Chào anh – Cô nói, cố nói năng rất tự nhiên, nhưng khi mới gặp anh, cô thường hơi lúng túng, khó mở môi để nói.
- Chào em – Anh không nói gì nữa, chỉ nhìn cô, cô tự hỏi phải chăng anh cũng cảm thấy khó ăn nói như cô. Nhưng cuối cùng anh nói tiếp – Anh mang tặng em một món quà. Sau chuyện xảy ra với Buck, anh nghĩ em rất cần có con chó thật tốt để canh chừng em, mặc dù đây chưa phải là biện pháp hữu hiệu.
Anh giật mạnh sợi dây, con chó nhỏ đang đánh hơi con bọ hung bèn quay lui, chạy đến phía cô. Nó nhảy lên nhảy xuống như cẳng cà khêu bằng lông xù, để hai chân lên đầu gối cô. Nó trông rất giống Smoke, nhưng cái đuôi uốn cong lên tận lưng và bộ lông dài rậm màu nâu có sọc đen chứ không phải màu bạc.
Charity vuốt tay lên bộ lông dài ấm áp.
- Ồ Call, nó đẹp quá.
- Nó là giống chó Eskimo. – Call cười, đáp – Anh không tìm cho em chó sói đâu.
Nụ cười biến mất trên môi cô, cô nói:
- Con chó thật đáng yêu, em rất thích có nó. Nhưng em không thể giữ nó được đâu. - Tại sao không?
- Ở các chung cư nơi em ở, người ta không cho phép nuôi chó đâu. Em sẽ tính sao với nó sau khi em về lại Mahattan?
Mặt Call có vẻ buồn, thái độ gượng gạo, anh đáp:
- Anh không biết em có ý định ra về.
- Bây giờ thì chưa, cuối tháng 10 mới về. Em không có ý định sống mãi ở đây. Em nhượng lại căn hộ của em cho em gái em 6 tháng thôi. Khi hạn cho thuê hết, em sẽ về lại New York.
- Thì ra thế.
Giọng anh như hồi chuông báo tin mãn cuộc. lần đầu tiên cô nhận ra nữa phần trong cô muốn ở lại, nửa phần trong cô không muốn rời bỏ xứ sở xinh đẹp này hay rời bỏ người đàn ông mà cô đã cố hết sức để khỏi yêu anh ta.
Cô cố gượng cười.
- Em đã định nói cho anh biết, độ gần đây anh đã lo sợ vì chuyện chúng ta gắn bó mật thiết với nhau. Bây giờ em nói cho anh biết chuyện này không có gì phải lo lắng hết. – Cô nhìn chằm chằm vào mặt anh, nhưng cô cảm thấy nghẹn ngào trong cuống họng.
- Phải, không có gì phải lo lắng hết.
Không lo lắng cho anh, nhưng cô thì lại rất lo.
Anh đưa sợi dây buộc chó cho cô.
- Khi nào em ra về anh sẽ lấy lại con chó. Còn hiện tại, như anh đã nói, nó sẽ canh chừng nhà cửa cho em.
Charity nhìn con chó đẹp đẽ, cổ nàng nghẹn ngào hơn nữa.
- Nó tên gì?
- Em muốn đặt cho nó tên gì cũng được.
Cô quì xuống bên cạnh con chó, úp mặt vào bộ lông của nó.
- Nó giống như con gấu nhỏ rậm lông. Em đặt tên cho nó là Kodiad… nếu anh bằng lòng.
cặp mắt xanh trong suốt nhìn xuống cô.
- Kodiad – Call lập lại, giọng hơi cáu kỉnh – Tên như thế này quá hay cho một chú chó Eskimo – Anh quay nhìn về nhà anh – Em có sang làm việc không?
- Có lẽ phải sang.
- Hẹn gặp em bên nhà anh – Không đợi cô trả lời, anh đi về nhà.
- Call này.
Anh dừng bước, quay lại – gì thế?
- Cám ơn anh đã cho con chó. Em đã yêu nó rồi. 
Cô thật sự đã yêu nó.
Thêm một thứ nữa phải chia tay khi cô về nhà.
Thêm một thứ nữa sẽ làm cô đau lòng.
Call thò đầu vào trong cửa ở phòng làm việc của anh và hỏi:
- Em cần gì ở dưới phố không?
Phòng làm việc của anh là nơi anh thường ngồi một mình, là nơi anh thư giãn và suy nghĩ. Bây giờ không được như thế nữa.
Charity quay người khỏi máy tính. Cô hỏi:
- Khi nào anh đi?
- Quãng 10 phút nữa anh sẽ đi - Thứ 7 rồi, chắc Charity sẽ làm việc cả ngày. Như thế tức là anh phải đi ra khỏi nhà.
Cô dựa người ra sau ghế xoay ở trước máy vi tính.
- Em cần rất nhiều thứ. Tại sao em không đi với anh?
bắp thịt ở quai hàm của anh căng ra, mẹ kiếp, tại vì em là nguyên do khiến anh đi! Anh đáp:
- Anh tưởng chắc em muốn làm việc.
- Em đã ngồi mấy giờ liền mà chẳng tìm được thêm gì mới, mắt nhìn mãi vào màn hình, mỏi quá – Cô nói rồi đứng dậy, ngửa đầu ra sau, vươn cổ và hai vai cho bớt mỏi, bộ ngực nẩy ra phía trước và chiếc quần jean căng cứng.
Chó đẻ thật!
- Thôi được …, thì đi. Chúng ta không đi lâu, chỉ hai giờ thôi.
Từ khi cô nói cho anh biết cô sẽ không ở mãi tại Yukon, Call thường tìm cách xa lánh cô. Anh tự nhủ việc này rất hợp với lòng mong muốn của anh, anh nhủ thầm điều này là câu trả lời cho sự cầu mong của anh. Trog vòng hai tháng nữa là Charity sẽ ra đi, về lại với cuộc sống cũ của cô ở chốn phồn hoa đô hội. Anh lại được yên ổn, khỏi lo cho tình cảm bị lung lạc.
Thật là giải pháp hoàn hảo.
Điều đáng ngại nhất là anh có thể lôi cô vào giường bất cứ lúc nào. Anh biết cô sẽ để cho anh làm thế. Khi anh nhìn cô, anh thấy sự khao khát hiện ra trong mắt cô cũng như cô thấy trong mắt anh vậy. Tuy nhiên, sự quan hệ thuần thể xác thôi xem ra không ổn chút nào hết.
Kết quả là anh tìm cách xa lánh cô nhiều chừng nào hay chừng ấy, đi loanh quanh đâu đó gần hết ngày. Không chóng thì chầy cũng sẽ xảy ra chuyện ấy, nhưng hôm nay anh hy vọng không xảy ra.
Anh nhìn vào màn hình máy tính qua vai Charity, tay anh muốn sờ vào ngực cô. Anh hỏi:
- Em không tìm được gì thêm à?
Cô quay ghế, nhìn anh:
- Thật ra em tìm được rất nhiều thông tin – Cô quay lui, bấm nút cho màn hình hiện ra đồ biểu mà anh đã lập nên cho cô - Hơn nữa số ô trong đồ biểu đã được ghi đầy hết. Em đã tìm ra phía bên gia đình bố em lui tới thập niên của năm 1880. Họ là dân Anh, rất ngay thẳng, trung thực, cho nên rất dễ lần theo dấu vết của họ. Walter Sinclair là ông sơ của em, người thế hệ đầu tiên sinh trưởng ở nước này. Họ bên mẹ của bố em là Ross, sống ở Miền Đông từ những ngày đầu xứ này còn thuộc địa và không có chỉ dẫn gì cho thấy họ đã bỏ xứ ra đi.
- Còn gia tộc bên mẹ em thì sao?
- Hiện em đang sưu tầm, nhưng thông tin rất sơ sài. Không có thông tin nào có vẻ chắc chắn đáng tin.
- Có thể rồi em sẽ tìm ra được manh mối.
- Có thể - cô cười, nhưng anh thấy cô có vẻ thất vọng. Anh nhận thấy việc sưu tầm này đối với cô rất quan trọng. Cô muốn biết tại sao cô cảm thấy thôi thúc phải đến đây, cô muốn biết phải chăng cô có ký ức về nơi này từ thời xa xưa.
- Em chuẩn bị đi chứ? – anh hỏi.
Cô gật đầu, tắt máy. Anh thấy cô vẫn còn suy nghĩ về việc tìm kiếm của mình, thấy trán cô hơi cau lại vì suy nghĩ.
- Nếu ra phố mà em thích xem cine hay xem cái gì, chúng ta đi xem cho vui. - Mẹ kiếp, tại sao anh nói như thế? Anh đã tính đến chuyện xa lánh cô kia mà. Không phải thế hay sao?
Anh theo cô đi ra cửa, lòng ước chi anh đừng mở miệng nói gì hết. anh lấy máy điện thoại di động mang theo trước khi ra nhà xe lấy xe jeep. Khi anh bỏ điện thoại vào túi, bỗng điện thoại reo. Anh lại lấy ra, mở máy nghe.
- Tôi Hawkins đây.
- Call à, tôi là Peter. Có chuyện xảy ra.
- Giọng anh nghe sao tức cười thế? Cảm lạnh hay sao?
- Lỗ mũi bị dập… trong số nhiều thứ khác. Có chuyện không hay vừa xảy ra.
Call bóp mạnh chiếc máy
- Chuyện xảy ra thế nào?
- Có thằng đòi lấy ví của tôi. Tôi không đưa cho hắn. Thế là hắn hành hung.
- Có nặng không?
- Không có gì nguy hiểm. Hai xương sườn bị gãy, nhiều vết rách và bầm da. Tôi cần nghỉ một thời gian.
- Không sao. Anh cứ nghỉ ngơi cho lại sức.
- Cám ơn.
- Chuyện xảy ra ở đâu?
- Ở công viên. trời đã tối. Tôi đang chạy thể dục, quá ngốc phải không?
- Ồ, tôi không biết. Anh đã giữ được ví, thế là quan trọng rồi.
Anh nghe Peter cười từ bên kia đầu dây, tiếng cười trịt trịt qua lỗ mũi bị băng bó.
- Peter, hãy cẩn thận đấy nhé, và tiếp xúc với tôi thường xuyên. Hãy cho tôi biết có gì anh cần không.
Peter chào tạm biệt. Call tắt máy.
Charity hỏi: l
- Lại thêm chuyện rắc rối à?
- Peter Held bị trấn lột.
- Nhà hóa học bạn anh ở Seattle phải không?
- Phải, anh chàng đang nghiên cứu ở Mergatech.
- Anh ta có sao không?
- Bị nhiều vết thương. Anh ta cần nghỉ ngơi một thời gian cho khỏe đã.
- Em đoán chắc sẽ có nhiều người gặp rắc rối khi anh ta bị tai nạn như thế.
- Phải – Call đáp, nhưng anh nghĩ gần đây anh đã gặp nhiều chuyện rắc rối rồi.

*

Toby không tin mình may mắn như thế. Cả tuần, cậu muốn mời Jenny đi chơi, nhưng thấy cô lạnh lùng quá nên sợ nếu mời chắc cô gái sẽ không nhận lời. Thế rồi sáng sớm hôm ấy, Jenny và Maude đến tiệm kim hoàn Mỏ Vàng của mẹ cậu. Jenny muốn bán số vàng nho nhỏ tiền lương của cô, phần chia hàng tuần của Buck trước đây.
Toby cầm số lượng của mình. Cậu không làm sao quên được nỗi vui mừng của cậu khi họ chùi rửa thùng đãi vàng vào chiều hôm qua, cậu thấy những cục vàng nho nhỏ sáng lấp lánh mắc kẹt giữa những hàng đinh nhựa ở giữa đáy thùng. Nhưng Jenny đem bán phần vàng của mình, và sau khi bán xong, Toby tình cờ mời cô đi ăn.
- Tôi không biết… tôi nghĩ chắc bà nội cần tôi giúp bà đi mua các nhu yếu phẩm.
- Đừng ngốc – Bà Maude nói – bà đã tự đi mua sắm một mình gần 70 năm nay rồi. Hai cháu cứ đi chơi với nhau cho vui.
Jenny vẫn còn có vẻ nghi ngại, nhưng Toby nghĩ là cô muốn đi chơi, nên cậu nắm tay cô, dẫn cô ra đường.
Cậu nghĩ: cô xinh quá, lại còn hấp dẫn nữa, cho dù cô đeo cái vòng nơi lỗ mũi, nhưng cậu vẫn cảm thấy tâm địa cô vẫn dịu dàng. Có lẽ cô đeo cái vòng mũi và xăm hình lên người như thế để trông có vẻ quái đản hơn một chút mà thôi. Nếu cô nghĩ như thế là cô lầm rồi.
- Vậy… ta đến ăn quán Grubsteak nhé? Cô có thích ăn món Pizza không?
Cô gật đầu.
- Nghe món Pizza ngon lắm.
Cậu ta vẫn nắm tay cô. Cậu thích cảm giác êm ái, mềm mại trong tay cậu. Cậu phân vân không biết môi cô có êm ái như thế không? Nghĩ đến chuyện hôn hít còn quá sớm, nhất là với cô gái như Jenny, nhưng caí ý ấy cứ hiện ra trong óc cậu, cùng với ý khác, những ý nghĩ bất khả thi mà cậu cố xua đuổi chúng đi.
Thực ra thì Toby chú ý đến Jenny không phải chỉ vì dục tính mà thôi. Cái vẻ e thẹn của cô làm cho cậu chú ý. Cậu còn nghĩ rằng cô thông minh, cậu muốn tìm hiểu cô, muốn biết lý do tại sao cô gái đến Dawson, muốn biết cô có đi học Đại học không, và nếu có đi, cô sẽ đi học trường nào.
Cậu muốn biết đủ thứ về cô.
Nhưng nhất là cậu muốn biết tại sao cô có vẻ buồn rầu như thế.
Lái xe đi phố thật thoải mái. Ánh nắng mặt trời chiếu lên nóc xe lợp vải bạt khiến không khí trong chiếc xe jeep màu đen xinh xắn của Call trở nên ấm áp. Charity ngồi dựa lưng trên chiếc ghế bọc da thư giãn. Khi xe họ lắc lư trên đoạn đường đầy ổ gà, bụi tung đầy trời, cô bèn lục túi xách lấy ra tờ giấy.
- Cái gì thế - Call hỏi.
- Trong lúc em mày mò trên máy tình để tìm ra bà con cật ruột đã chết lâu đời của em, em đã tìm ra trên mạng một số thông tin tài liệu.
- Tài liệu nói về cái gì thế?
- Tài liệu nói về ký ức được di truyền, em in trong mạng ra đây. Trước đây em có đọc một số bài viết này đã làm cho em suy nghĩ mãi. Em tự hỏi nếu em cố tìm trong mạng Internet, chắc em sẽ tìm được tài liệu nói về vấn đề này. – Cô mở tờ giấy ra để đọc.
- Tài liệu nói sao?
Cô nhìn qua phía chỗ ngồi của tài xế. cô hỏi:
- Có bao giờ anh đọc những chuyện nói về người được ghép cơ quan nội tạng chưa? Call liếc nhìn cô, hai tay to tướng ôm chặt tay lái bọc da.
- Ghép cơ quan nội tạng thì có liên quan quái gì đến ký ức?
- Này nhé, giả dụ anh được ghép tim đi. Người nhận tim thỉnh thoảng có những thay đổi về cá tính. Trước đây anh ta ghét bơ đậu phộng thì nay anh ta lại rất thích. Lý do là người cho tim thích bơ đậu phộng. Người nhận tim bây giờ có thêm DNA khác, khiến cho họ thay đổi tính tình.
- Vậy em nói… sao?
- Em nói nếu đã có tình trạng chất DNA của người cho tim gây cho người nhận tim sở thích ăn bơ đậu phộng, thì có thể chất DNA mà mình đã nhận của người khác cũng khiến cho mình quan tâm đến những việc khác… như việc đổ xô đi tìm vàng… vì người cho DNA – một trong số tổ tiên của em – đã đến Yukon tìm vàng.
- Thế không có nghĩa là em sẽ có cùng ký ức.
Cô nhìn xuống tờ giấy.
- Anh có biết những con bê mới sinh không chịu bước qua một đám đường vạch sơn màu giống con chó chăn bò, mặc dù chúng chưa bao giờ thấy con chó chăn bò không? Hay là một con mèo,mặc dù không có mẹ nó dạy bảo, nó vẫn biết cách chải lông rửa ráy cho nó không?
- Đấy là bản năng, chứ không phải là ký ức.
- Bài báo cho rằng trí nhớ di truyền và bản năng là một, giống nhau. Chất DNA được xem như ống dẫn dùng truyền lại cho hậu thế trí nhớ di truyền. bài viết nói rằng chúng ta truyền cho con cháu nhiều thứ chứ không phải màu mắt và màu tóc thôi, mà vào khoảng 40% của ta di truyền lại cho con cháu.
- Còn gì nữa?
- Có những nhà khoa học tin trí nhớ di truyền có thể truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác theo dạng ký ức – Cô đọc trong bài viết - những loại ký ức ấy giúp người ta nhớ lại những nơi chốn, những biến cố từ một thời điểm khác, nhiều trường hợp như thế này đã được chứng minh rất rõ ràng, cụ thể.
Call có vẻ không tin. Anh nói:
- Hay, nhưng cho dù chuyện này có thực đi nữa, thì em vẫn phải tìm cho ra người nào trong gia tộc em đến đây 100 năm. Em làm thế cho được, anh mới có thể tin vào giả thuyết của em.
Dĩ nhiên anh nói đúng, Charity im lặng, phân vân không biết liệu có tìm ra đường dây mối nhợ gì không. Bên ngoài cửa xe, rừng cây lặng lẽ trang nghiêm, một con diều hâu khổng lồ lượn quanh trên đầu họ, rồi nhào xuống và biến mất trong hàng thông bên vệ đường, bầu trời xanh ngắt chói chang, phải nheo mắt khi nhìn lên.
Điện thoại di động reo, vì xe đang chạy chậm nên anh không dừng xe, mà chỉ mở máy áp vào tai.
- Hawkins nghe đây.
- Bob Wychek đây. Hôm nay ông cố tranh thủ ghé vào xưởng của tôi được không? 45 phút nữa nhé?
- Được rồi, tôi sẽ đến – Call đáp, rồi cúp máy.
- Bạn gái của anh phải không? – Charity hỏi, nhìn anh, ánh mắt nghi ngờ.
Call cau mày, anh thấy cô có vẻ ghen tuông. Anh nói:
- Bob Wychek, người đang sửa máy bay cho anh. Anh nghĩ chắc anh ta đã tìm ra nguyên nhân làm cho máy bay hỏng.
- Em biết nguyên nhân làm cho máy bay hỏng rồi. Nó hục hặc hai lần rồi tắt, chong chóng ngừng quay.
- Rất tếu – Anh châm biếm, nhưng cả hai đều bật cười.
Một lát sau, họ rẽ vào xa lộ Klondike, con đường chính dẫn đến Dawson, qua cầu, rồi vào phố Front.
- Em đói rồi. Không biết chúng ta ăn rồi đến gặp ông bạn sửa máy bay của anh có được không?
Call chạy qua tấm biển ghi đường phố, đường Midnight Dome và cứ cho xe chạy tiếp.
- Anh nghĩ ta nên ăn trước. Để anh gọi Wychek, báo cho anh ấy biết ta đến trễ một chút.
Anh gọi điện thoại nhưng Bob đi đâu có việc một lát, nên anh để lại tin nhắn.
- Ta đến quán Klondike Kate chứ? – Charity đề nghị - Ở đấy có thức ăn ngon nhất Dawson.
- Em muốn đến quán Kate à? – Call có vẻ không ưa – Theo anh ta nên đến quán Grubstake.
- Em nghĩ bánh sandwich ở Kate chắc ngon.
- Anh công nhận thức ăn ở đấy ngon,nhưng…
- Ngon là tuyệt rồi, ta đi thôi.
Call cau mày nhưng vẫn cho xe chạy tiếp rồi rẽ vào đường King đến đường thứ 3, và dừng xe trước mặt ngôi nhà khung gỗ, hai tầng, sơn màu vàng và trắng nằm ở ngã tư đường. Họ bước ra khỏi chiếc jeep vào quán. Call giới thiệu mình với bà chủ quán. Quán đông đúc. Cô nghe quán thường đông khách như thế, ngay cả mùa đông.
Thế nhưng, họ không đợi lâu, họ được mời đến ngồi ở bộ bàn vuông nhỏ. Chàng trai làm việc vào ngày nghỉ mang ly nước đá đến, rồi một cô hầu bàn tóc đỏ xinh đẹp đến để lấy thực đơn họ gọi. Cô ta nhìn Call và trong nụ cười của cô ta khi nhìn anh, có cái gì bỗng làm cho Charity lo lắng.
- Chào Call. Lâu rồi không thấy anh – Cô ta trẻ hơn Charity, có lẽ mới 21 hay 22 tuổi, miệng rộng, mắt xanh long lanh, và thân hình thì rực lửa. Cô ta làm ra vẻ thân thiện với Call, như thể cô đã quen biết Call lâu rồi.
Anh trở người trên ghế một cách khó chịu, và đáp:
- Tôi bận công việc.
Cô tóc đỏ nhìn Charity.
- Tôi hiểu rồi – Cô ta không nói gì nữa và Call cũng không. Cô hầu bàn lấy thực đơn của họ, đi xuống bếp, Charity cố mỉm cười.
- Em thấy cô ta tấn công anh kịch liệt đấy.
Call ho, anh vừa bưng ly nước liền để xuống lại. Anh nhìn quanh để xem có ai nghe thấy gì không, và khi thấy không có ai để ý anh mới nhẹ người.
- Phụ nữ quí phái mà ăn nói như vậy sao?
- Chính anh là người nói câu ấy đầu tiên.
- Phải, nhưng anh là đàn ông.
- Buck Johnson cũng thường nói như thế.
Anh nhếch một bên môi, đáp.
- Nhất trí.
Mấy phút sau, cô tóc đỏ quay lại, mang bánh sandwich làm bằng bột mì mới nướng, chất lên trên rất nhiều phó mát và thịt, rau thơm thòi ra hai bên ổ bánh, và khoai chiên chất quanh dĩa. Cô hầu bàn nhìn Charity, rồi nhìn Call, ánh mắt mời mọc.
- Anh làm xong… công việc, nhớ cho em chiếc nhân nhé – Cô ta nói.
Call khéo léo không trả lời.
Một giờ sau họ ra khỏi quán, đang đi trên vỉa hè lát gỗ để đến chiếc jeep thì Charity thấy Toby và Jenny đang đi về phía họ.
- Kìa, chào ông bà – Toby vẫy tay chào họ, miệng cười toe toét nhưng Jenny thì có vẻ bối rối – Hai ông bà làm gì ở phố.
- Chúng tôi đi mua ít đồ lặt vặt – Charity đáp - Và Call muốn kiểm tra máy bay xem sao.
- Máy bay ra sao rồi? – Toby hỏi anh.
- Bây giờ đi đến xem ra sao đây.
Charity nói:
- Chúc cô cậu đi chơi vui vẻ. Hẹn gặp lại vào thứ hai.
Họ leo lên xe jeep, Call nổ máy. Mấy phút sau xe họ chạy qua chiếc cổng chắn song sắt cao của xưởng máy bay Superior Air West, nơi đang sửa máy bay của Call. Call đỡ cô xuống xe, hai người đi qua những cánh cửa rộng ở nhà kho, ngôi nhà kho bằng sắt rộng lớn. Anh nói với người thợ máy mặc quần áo lao động màu xanh đen lấm đầy dầu mỡ.
- Tôi tìm ông Wychek.
- Tôi đây! – Wychek gọi lớn. Ông ta thấp, đầu hói, người tròn trịa, hai má hồng hào, mắt xanh, nếu có bộ râu quai nón rậm thì chẳng khác gì ông già Noel – Tôi mới nhận tin nhắn của ông cách đây mấy phút thôi. Tôi sợ ông không đến được.
- Nghe như có chuyện gì quan trọng thì phải.
Wychek gật đầu
- Rất quan trọng – Ông dẫn họ đến thân chiếc Beaver, chỉ cho họ thấy bộ máy được tháo rời nhiều mảnh, nhiều bộ phận, nằm rải rác quanh đấy.
- Mới đầu tôi không thấy. Tôi không ngờ có chuyện như thế này được, đúng không?
- ông tìm ra cái gì?
Người thợ cơ khí nhìn Charity như thể ông không nên nói chuyệnnày trước mặt cô.
- không sao đâu. Cô đây ở trên máy bay khi nó hỏng máy. Tôi nghĩ cô ấy có quyền biết.
Wychek gật đầu. đưa bàn tay lấm dầu mỡ vào một chỗ nơi bộ máy, ông lấy những mảnh vỡ còn lại của một hộp kim loại nhỏ.
- Cái gì thế?
- Cái hộp đựng một lượng chất nổ nhỏ - Ông ta đặt cái mảnh kim loại ra chỗ sáng – Chắc ông thấy cái hộp phát nổ từ bên trong chứ? Có lẽ trong hộp có gắn bộ phận định giờ để nổ. Khi cái hộp nổ, đường dẫn ống nhiên liệu bị đứt và máy không có xăng để chạy.
Call lấy miếng kim loại trên tay Wychek.
- Bob, ông tin chắc đây là cái hộp đựng chất nổ chứ?
- Quá chắc, lửa làm cho ống dẫn nhiên liệu bằng cao su chảy ra, ông nhìn đây thì thấy… - Ông ta chỉ một đoạn ống - Lưới thép trong ống bị vỡ toang ra, còn miếng thép nhỏ dính vào ống đây nè, thấy không - Bộ mặt tròn trịa của Bob trông có vẻ giận dữ - Ông Hawkins à, có người muốn làm máy bay rớt. Bằng chứng rất rõ ràng.
Không ai nói một tiếng!
Bỗng Charity thấy bụng cồn cào, buồn nôn. Cô không muốn nghe thêm nữa. Cô nói với Call:
- Em đợi anh ngoài xe, nếu anh không phiền.
Call gật đầu:
- Em ra ngoài đi. Anh sẽ ra sau.
Mấy phút sau, anh đi ra với cô, cô thấy mặt anh cũng tái mét như mặt cô vậy.
- Em không tin nổi – Cô nói – Có người âm mưu giết chúng ta.
Call cho máy xe nổ.
- Nói cho đúng là chúng muốn giết anh, chứ không phải em, và anh đã nghĩ đến kẻ nào muốn giết anh rồi. Nhưng khổ thay là anh không biết có chắc không. Khi về nhà, anh sẽ gọi ngay cho Steve McDonald. Anh ấy là thám tử tư rất có tài. Anh ta sẽ tìm ra ai là kẻ muốn ám hại chúng ta.
Charity quay mặt nhìn ra ngoài cửa sổ xe. Có người muốn giết Call. Nghĩ đến chuyện này cô thấy đau đớn trong lòng. Họ mua vài thứ lặt vặt rất nhanh rồi ra về. cảnh vật trên đường đẹp đẽ như khi họ ra phố, nhưng lần này Charity không chú ý đến cảnh vật.