Như tôi đã kể ở phần trên cuốn sách này, tôi và chị Nga, hai chị em chúng tôi xa nhau kể từ buổi sáng chị đi lấy chồng, và tôi lên đường nhập ngũ, đến tận mãi hai mươi bảy năm sau, khi cả hai đã bạc tóc mới gặp lại nhau. Quãng thời gian xa cách ấy, là quãng đời lưu lạc, cho đến khi gặp nhau cũng không phải ở quê nhà. Có biết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu biến cố mà chị dồn nén trong lòng, đem ra kể với đứa em là tôi.
Thì ra cái đêm chị dời Soi Vạt để trôi theo dòng sông Công về xuôi, không phải hai mẹ con chị ngồi trên cái mảng nứa, lềnh bềnh theo dòng lũ xiết như người ta đồn thổi lên. Chị kể với tôi rằng, Soi Vạt không phải là nơi trú ngụ suốt đời chị và thằng Hận con chị, và ngay cả cái làng Sơn Cốt của chúng tôi cũng không thể dung thứ chị. Phải ra đi, chị nhất quyết đã nghĩ như vậy. Nhưng đi bằng cách nào? Và sẽ sống ra sao?
Ở đây, suốt một thời gian dài, thằng Hợi, đứa trẻ chăn trâu cho hợp tác là sợi dây nối chị với bên ngoài, là kẻ tiếp tế gạo, muối, dầu đốt... cho hai mẹ con chị. Chị thương nó, giá như nó là con chị, thì chị cũng chỉ thương nó đến thế mà thôi. Khi quyết định ra đi, chị thoáng nghĩ hay là đem nó cùng đi. Đất trời, non nước này, với những gì chị biết được từ những bài địa lý mà chị đã dạy cho lớp học trò của chị sẽ dẫn bước chị đi. Còn thằng Hợi, thằng bé mục đồng đen nhẻm, côi cút nhưng khá thông minh, sớm láu cá sẽ phải để cho nó ở lại để nó gắn bó với cái làng nhỏ bé, đìu hiu của nó. Nó còn mẹ, còn các em, còn là nơi đi về của hương hồn cha nó. Chỉ có chị là phải ra đi.
Chị nghĩ thế, và chị cũng đã toan tính làm một cái bè bằng tre, ghép lại. Chị cũng định sẽ đặt thằng Hận nằm trên đó, chị sẽ một tay chèo chống, xuống hết quãng thác này, vực nọ, cho đến khi nào ra tới dòng sông Cái.
Thế rồi mùa nước lớn đã đến, cái mùa nguy hiểm của dòng sông, nhưng lại là một mùa xuôi bè thuận tiện nhất, vì lòng sông nở ra, dềnh lên mênh mông hơn. Nhìn con nước lũ ào ạt chảy, cuốn theo cơ man nào cây củi, cành khô, quấn quýt vào những bụi tre hai bên bờ rã rợi ngọn lá, chị thấy sợ hãi. Lòng can đảm được ấp ủ suốt một mùa đông giá, khô cằn, cạn hẹp bây giờ bỗng nhiên tan biến.
Nhưng nhất quyết phải ra đi!
Chị ngồi đếm lại số tiền nhỏ nhoi mà chị đang có bằng những đồng tiền lẻ. Chị vuốt lại cho chúng thẳng thớm, sạch sẽ, gói chúng vào một miếng vải mưa cũ kỹ. Xong xuôi, chị ngồi nhìn thằng Hận đang lồm cồm bò trên manh chiếu rách, rồi chị nhìn vào hai bàn tay mình, trống trơn. Bất giác chị nghĩ đến tôi, chị kể thế. Chị nhớ đến cái đêm trăng non trên đồi Chùa Phung mà chị đã nhìn vào bàn tay tôi mà dự báo, phỏng đoán cho cuộc đời tôi.
- Ngày ấy chị đã dự báo cho em rằng em của chị sẽ có một cuộc đời phiêu lưu phong phú. Thế mà khi ngồi nhìn hai bàn tay thô tháp đã bắt đầu nhăn lại của mình, mà chị không tài nào dự báo cho mình con đường trước mặt. Em hỏi chị có tuyệt vọng không ư? Không, chị không hề tuyệt vọng, nhưng cũng không thể hy vọng được. Chị chỉ nung nấu một ý chí băng qua, vượt lên chính cuộc đời mình... Dù có ra sao cũng được, dù có đi đến đâu cũng thế!
Một hôm, như lệ thường, thằng Hợi về xóm, chị bồng thằng Hận ngồi nhìn dòng lũ, thì bỗng có một cái mảng dài, trên đó lô nhô những tay thợ sơn tràng, đang trôi xuôi, chầm chậm, thế rồi nó quay ngoắt, ghé vào Soi Vạt. Người ngồi đầu, dáng như người chỉ huy mảng vít một nhánh tre ghì sát cái mảng dài như con thuồng luồng vào bờ đất, nhóng cổ gọi lên:
- Nhà chị có còn gạo không, để cho anh em tôi một bữa?
Chị Nga hơi bị bất ngờ:
- Các bác hỏi đong gạo?
- Vâng! Nhưng mà không cần nhiều đâu. Anh em tôi vừa hết gạo ăn, cần bữa tối nay thôi, sáng mai ra đến sông Cái thì lại có chỗ mua rồi...
Chị Nga ngần ngại một chút rồi, bỗng loé lên ý nghĩ táo tợn:
- Mời các bác lên đây một chốc. Em có gạo đấy, nhưng sợ không đủ để các bác nấu bữa tối.
Người thợ rừng nhảy phắt lên bờ:
- Độ hai đấu là đủ thôi mà!
- Thế thì may ra...
Chị chui vào trong lều, đem ra cái vại nhỏ sứt mẻ, đựng lưng lưng gạo ra, xoay xoay:
- Chỗ này cũng đến hai đấu, bác cầm lấy mà nấu. Hay là... sẵn có củi lửa đây, các bác lên nghỉ tạm, cơm nước xong thì xuôi! Chứ dọc bờ nước cả thế neo vào đâu?
Nghĩ ngợi một thoáng, bác san tràng gọi vóng xuống:
- Anh em ơi! Có gạo rồi! Lên đây thổi cơm ăn xong ta đi tiếp! Đoạn bác ta quay lại. Chị có cái xoong nào nấu đủ cho năm anh em tôi ăn, thì cho mượn. Mà cánh san tràng chúng tôi ăn khoẻ lắm đấy!
Chị Nga lúng túng:
- Nhà em chỉ có hai mẹ con, không có nồi to, chán thật.
- Thế thì thôi, không sao! Bác thợ nói với xuống mảng. Thằng Tĩnh cởi cái xoong to vẫn nấu cơm đem lên đây...
Thế là trong chốc lát, “nhà” chị Nga bỗng rậm rịch khách khứa, lao xao tiếng người. Chưa bao giờ, và cũng chẳng bao giờ chị lại có thể hình dung ra cái cảnh này. Hình như cũng đoán ra hoàn cảnh éo le của chị, bác trưởng toán thợ rừng hết nhìn chị, nhìn thằng Hận rồi lại nhìn túp lều tùm hum, lè tè của chị ý chừng muốn hỏi một câu gì đó. Còn chị Nga thì lặng lẽ nhiệt thành giành lấy cái xoong từ tay người thanh niên tên Tĩnh vo gạo bắc lên bếp. Nếu bác trưởng tốp giữ ý không hỏi thì anh chàng Tĩnh xốc nổi hỏi ngay:
- Chị ở đây có một mình thôi à?
- Vâng! Có hai mẹ con tôi và thằng cháu. Nó về xóm...
- Xa làng, xa xóm thế này, ngỻ Cong Môi. Một lân dại dột thế nào đó, Phúc đã tặng cho một ông bạn khác của chúng tôi vốn là nhạc công thổi kèn của công an Hà Nội, bị thải hồi, một khẩu súng CKC đã chế tác lại theo ý Phúc, để ông bạn thổi kèn này bắn nát đến tận đùi một bên chân ông anh họ tôi là một giáo viên cấp hai, trong một vụ tranh chấp một tí đất rộng chừng một đường cày. Suýt gây ra án mạng, nhưng ông anh họ giáo viên của tôi chỉ bị tháo khớp đến háng, còn ông bạn cựu nhạc công đi tù. Phúc Trều ra sao, tôi không biết! Nhưng làng tôi cũng chưa có kẻ biết giết người!
Nếu là buổi sáng, trong ánh bình minh mờ đục, bạn sẽ gặp cụ Đồ Nham. Cụ Đồ cao to, vạm vỡ, theo đúng chân dung được mô tả "vai u, thịt bắp, mồ hôi dầu", đang vác một cái cày chìa vôi, mà bắp cày rất lớn, "phi" đến mười lăm xăng-ti-mét, làm bằng tre đực, kiêm luôn đòn gánh của cụ, giong một con nghé bé tí tẹo, chắc là mới vực. Trong khi đôi mắt kèm nhèm của cụ cúi xuống để tránh những vũng nước và những bãi phân trâu, thì con nghé con cứ hếch mũi lên mà ngửi trời, có thể cô ả đang tung tăng sung sướng vì lần đầu tiên được chính thức tham gia vào việc kéo cày, đem công điểm về cho chủ là cụ Đồ Nham. Cụ Đồ là người quê gốc ở Hà Đông, bằng chứng là tôi đã được nói chuyện với anh cháu gọi cụ bằng chú từ Hà Đông lên chơi với cụ. Anh ta tên là Da. Cụ là công nhân mỏ sắt Lăng Hít, rồi sau loạn lạc cụ đến ở nhờ làng tôi, cụ thể là trên mảnh đất nhà tôi, nguyên là cái vườn hoa cảnh của chủ đồn điền Sơn Cốt, tên là Đùi Gà (có lẽ là Dugas, nói chệch ra), để rồi lấy một bà vợ khét tiếng là chửi hay nhất làng. Mùi mồ hôi dầu của cụ đồ Nham danh tiếng đến nỗi, trong bất kỳ cuộc họp xã viên trong phạm vi đội sản xuất hay đại hội toàn thể, sự có mặt của cụ được người ta biết ngay. Thậm chí cách nửa cây số, người ta vẫn biết, nếu đứng xuôi chiều gió thì điều này càng được khẳng định.
Câu chuyện cụ Đồ Nham cưới vợ tôi biết, dù lúc đó tôi mới được sáu tháng tuổi. Khi cụ Đồ đến ở nhờ nhà tôi thì đã có một người khác ở nhờ, đó là ông Dư, người cùng làng tôi, nhưng gia đình tứ tán, không còn cha mẹ, hơn nữa ông Dư lại mắc bệnh động kinh. Bố tôi bằng lòng cho ông Dư và sau đó là ông Nham ở nhờ những ngày đầu vào một cái chái, dù rằng là tôi rất nhỏ. Thường thì ông Dư hay ngủ ngoài đống rơm. Người mà cụ Đồ lấy làm vợ đã có một đời chồng, mang tên chồng cũ, chứ tên thật của bà rất ít người biết. Khi có chồng bà mang tên chồng là bà Nham. Bà này có họ với bà nội tôi, nên chúng tôi gọi bằng bá, còn chồng bà lại gọi là ông. Chính vì lẽ đó mà sau này, vợ chồng cụ Đồ Nham không ở nhờ nhà tôi nữa, ông Dư bị chết sau một cơn co giật, vào một buổi trưa mùng một tết, bà bá của chúng tôi đã đứng trước cổng chĩa vào nhà tôi chửi suốt một buổi chiều, mà mãi sau này tôi mới hiểu bà chử "cái đứa đã lợi dụng chứa chấp em tao, lấy hết của cải của nó để chôn người sống, đống người chết". Lúc đó tôi và em tôi, theo lời chỉ dẫn của cụ Đồ, đứng ra bờ rào bắt nhại tiếng chửi của bà bá thân yêu, khiến bà chửi càng mãnh liệt hơn, đến phải đưa vào nhà hô hấp.
-Đ. mẹ con cái Rựng (Rựng là tên thật của bà bá chúng tôi), thằng Dư nhà mày thì trên răng dưới dái có cái đéo gì mà người ta lấy. Ăn nhờ hết bát lành, bát mẻ, ăn cả giải giút nhà người ta còn chết đói kia kìa. Có cặc tiền bạc đấy mà lấy! Đó là những lời lầm bầm rất nhỏ, có khi nghe như lời tâm sự của cụ Đồ Nham chửi vợ.
Bác Dư, chúng tôi vẫn gọi thế cho đến khi ông chết, là người tài giỏi trong nghề rừng. Suýt nữa thì bác Dư cũng thành một người anh hùng kiểu Tinh Tinh, nhưng tâm thần bác khá hơn, chỉ bị lên cơn co giật khi cần thiết. Có khi vài ba năm, không thấy cơn bệnh phát ra. Tôi ở với bác đã từng được bác cho ăn thịt ngựa, thịt hùm... có khi ăn sống, hoặc rửa bằng nước vo gạo, xào sơ, rất ngon lành. Năm mươi năm sau, mẹ tôi còn thấy khiếp khi nhắc lại chuyện con trai bà ăn thịt hùm sống.
Nếu vào buổi chiều tà, mặt trời tụt xuống sau dãy núi Tam Đảo, nhuốm màu đỏ quạch xuống các rặng tre, thì rất có thể gặp được giáo sư Thanh! Giáo sư là con người thấp lùn, lại xương xẩu, hom hem... rất có dáng của một người ăn mày. Dáng đi của ông như bay, chân không chạm đất như những cảnh chiếu chậm trong phim quảng cáo. Đầu cúi xuống đầy vẻ suy tư, hai tay cậu ôm lấy cái gì đó dưới bụng, có khi là bơ gạo, bọc sắn luộc, vài quả đậu đũa, mà cũng có khi chẳng có gì, giáo sư vẫn giữ chặt chẽ, cẩn thận. Và giáo sư Thanh vừa đi vừa máy mồm, như đang nhẩm một công thức, một phương trình hay một luận đề phức tạp, rất nhỏ. Nhưng chính tai tôi đã nghe thấy ông chửi, chửi ông anh rể tàn bạo đẻ toàn con gái, được mỗi một mụn con trai thì lại lác mắt, ông chửi con gà lao vào chân ông, ông chửi cái thằng đã giành mất của ông cái đầu gà lở toe toét, nham nhở từ năm bốn-nhăm, ông chửi cái mô đất suýt làm cậu ngã, vấp cái ngón chân trỏ đã bị mù vào, đau quá, đâu quá... Tuy nhiên, tôi chưa thấy ông chửi tôi, hay bất kỳ một người nào trong gia đình chúng tôi, dòng họ chúng tôi.
Khác với dân làng Sơn Cốt, anh em chúng tôi gọi giáo sư Thanh là "cậu giáo", sở dĩ chúng tôi gọi bằng cậu, có lẽ vì ông ngoại tôi với bố cậu Thanh cũng là dân ngụ cư đến sau, không có ruộng, ông tôi làm thợ bạc, còn ông già giáo sư là người làm mướn, hay đến trú rét nhờ cáo bễ thợ bạc phì phò của ông. Giáo sư chỉ co một người chị gái và cậu gọi mẹ tôi là chị. Khi hoà bình, cậu cũng là xã viên, cũng lấy vợ, cũng ly dị về nhà ở nhờ nhà chị gái. Một sự không ăn ý nào đó, cậu đi lang thang trong làng, và cuối cùng, lại đến ở nhờ trong nhà tôi.
Cậu giáo là người đã từng đi ăn mày có thâm niên. Cậu đã kể cho chúng tôi nghe những chuyện mà cậu đã trải qua, đã nghe được trong những năm đi ăn mày. Đàn ông thế nào, đàn bà ra sao, cán bộ, bộ đội, mụ hàng cơm, bà hàng xén, tất tần tật cái gì cậu cũng có thể kể ra vanh vách, lại có phần khúc chiết, đoan trang. Tôi vô cùng khâm phục vốn sống của cậu, thậm chí phát thèm lên vì những mảnh bánh mỏng dính nằm trong kẽ lá gói bánh, cái vị thơm nồng, béo của khúc xương đầu gối đùi gà luộc đã trải qua một đêm trong sọt rác, cái giấc ngủ mê mòng trên manh chiếu rách vỉa hè ngậy mùi nước đái...
Xin lỗi bạn đọc, tôi đã đùa! Không, không phải tôi, mà chính là dân làng Sơn Cốt chúng tôi đã đùa, khi dùng hai danh hiệu đáng kính là Cụ Đồ và Giáo Sư để gọi hai con người khốn khổ không biết chữ là ông Nham và ông Thanh! Không biết xuất phát từ đâu, từ ai đã phong hai cái danh hiệu đó? Tôi nghi ngờ bố tôi, ông có nỗi buồn, có nỗi thất vọng mà chỉ sau khi bố tôi chết, tôi lớn lên và già đi tôi mới phần nào hiểu được, nhưng lúc nào bố tôi cũng vui vẻ. Sự rộng lòng và vẻ hài hước của ông đã được mọi người, mà nếu không phải tất cả thì cũng là cụ Nham, ông Thanh, bác Dư... thừa nhận!
Nhưng gia đình chúng tôi còn cưu mang một gia đình nhỏ nữa, một thầy giáo dạy vỡ lòng thôi, không phải ông đồ hay giáo sư, và cô con gái bé bỏng của ông. Đó là thầy giáo Hoan và con gái của thầy, chị Nga.
Thầy Hoan, trong cuộc đời tôi, thầy là một người thầy theo đúng nghĩa nhất, vừa cụ thể nghĩa đen, đồng thời lại vừa trừu tượng theo cả nghĩa bóng, mặc dù thầy chỉ dạy tôi lớp vỡ lòng, cái lớp làm quen với chữ cái, chữ i, chữ tờ, tập đánh vần và những câu chuyện cổ tích huyền bí. Hồi bé, tôi là một đứa trẻ nhát học. Những ngày đầu đến trường của tôi, không biết bao nhiêu là nước mắt đã chảy, mỗi khi nghe tiếng kẻng gọi học trò. Tiếng kẻng phát ra từ một quả bom lép treo ở nhà ông cụ Khuê, ngân nga, réo rắt một hồi sáu tiếng làm tôi hoảng sợ. Sợ học. Sợ đi học cùng với những tay học trò lớn lồng ngồng, ngổ ngáo tôi dễ bị bắt nạt, mà từ đó biến thành sợ cái tiếng "keng... keng" của quả bom.
Trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt, tôi đồ rằng từ "kẻng" là một danh từ hoàn toàn mới, nó chỉ xuất hiện sau những loạt bom của đế quốc Pháp thả xuống cánh đồng, làng mạc, rừng núi Việt Nam. Đáng lẽ nó phải nổ tung để tàn phá cầu cống, nhà cửa, kho tàng, trường học, hầm hố và phanh thây xé xác con người thì lại bất ngờ có một vài quả lép. Cái quả lép ấy, được các chiến sĩ du kích quân Việt Minh tháo ngòi nổ, lấy thuốc ra dùng vào nhiều việc, trong đó có cả việc đánh lại người Pháp, thì cái vỏ của nó được dùng làm cái thứ để gõ, phát ra tiếng để báo hiệu, thông tin. Rất có thể cái âm "keng, keng" của nó mà có có tên là kẻng! Trước đó, người Việt Nam chúng ta chỉ có tiếng mõ "cốc cốc", tiếng trống "tùng tùng", và sau này người ta dùng nhiều vật phát ra tiếng khác nữa như vành (tang trống) bánh ô tô, thanh tà vẹt... nó chỉ phát ra những âm thanh ồm ồm, rè rè, buồn bã...
Cái kẻng treo ở cây mít trước cửa nhà ông cụ Khuê là một quả bom cỡ năm mươi cân, nó tròn và thuôn đẹp như một con lơn thoai, bóng nhẫy, mập mạp. Cùng với hình dáng của nó, âm thanh nó phát ra trở thành thân thuộc, đáng yêu đến nỗi không ai nghĩ nó vốn là một tên giết người dã man.
Thầy Hoan cũng dữ đòn như nhiều thấy giáo làng thời bấy giờ. Thầy có một cái roi làm bằng cành dâu, trắng phau dài độ hơn sải tay, lúc nào cũng giắt sẵn trên mái gianh để thị uy đám đệ tử mũi giãi của mình. Mỗi bài học vỡ lòng dạy chúng tôi bao giờ cũng ngắn ngủi, giản đơn và cuối mỗi buổi học, bao giờ cũng là một câu chuyện cổ tích vừa hấp dẫn, vừa ghê rợn, đầy tính răn dạy. Hình ảnh thầy Hoan đứng trước ô cửa đầy ánh nắng giả đò theo động tác của cậu Bé Tròn hái quả cho cha mẹ ăn một cách khó nhọc, cứ in mãi, lắng mãi vào trái tim non nớt của tôi...
Năm 1975, từ chiến trường trở về, tôi đến thăm thầy. Năm ấy tuy đã ngoài sáu mươi, nhưng thầy hãy còn quắc thước và đĩnh đạc lắm. Thầy sống một mình với câu chuyện buồn về người con gái duy nhất của thầy. Ngoài con chó già và một bẫu vườn chỉ có hai loài cây đơn mặt trời và ngải cứu, thầy không còn ai làm bầu bạn.
Tôi nhìn quanh ngôi nhà lợp lá cọ dặm thêm lá mía, vách đất mà mưa đã bào mòn trơ ra những thanh nứa cắm vách ngả màu bạc. Bờ vách ấy, đối với tôi chứa đầy kỉ niệm mà giờ đây, cả tôi, cả thầy Hoan đều im lặng dằn nó xuống một khoảng sâu thẳm trong đáy lòng. Sợi dây thép chăng từ một dảnh kèo nối với cây xoan đào từ lâu quá rồi, khiến cây xoan thắt một cái ngấn sâu vào tận thớ gỗ, vẫn còn đó. Tôi lặng đứng và hình dung nhớ lại trên sợi dây ấy phất phới bay một tà áo sơ mi thiếu nữ màu xanh trứng sáo tỏa ra cái mùi xà phòng nằng nặng khi chưa bén hơi người. Tấm áo ấy giờ chắc đã rách và thiếu nữ, người chủ của nó giờ đây đang lưu lạc nơi đâu? Tôi vịn tay lên thân cây xoan đào, muốn khóc quá! Nhưng thầy Hoan đã cầm con dao cùn, dụng cụ làm vườn của thầy đến sau lưng tôi:
-Bây giờ hết đánh nhau, hòa bình rồi, anh định làm gì? Thầy Hoan hỏi tôi một câu hỏi mà chính tôi cũng đang muốn hỏi thầy, và cũng là câu hỏi mà thấy mình hãy còn sống sót sau cuộc chiến tranh, tôi đã không nguôi tự hỏi mình.
Tôi làm gì ư? Quả thực trong lúc đánh nhau với quân thù, tôi và các đồng chí của mình chẳng bao giờ có thời gian, hay một khoảng trống tương tự trong lòng để đặt ra câu hỏi: hết chiến tranh anh sẽ làm gì? Câu hỏi chúng ta sẽ làm gì thì có, và có hẳn một câu trả lời tuyệt đẹp. Thế nhưng đối với mỗi con người, mỗi anh lính cụ thể thì lại không có câu trả lời cụ thể. Tôi nói điều này hẳn nhiên có người chê trách, tôi không cãi. Nhưng, một thế hệ như chúng tôi lúc bấy giờ dễ nhận ra lắm, nó chói sáng, nó lừng lững và cả nó công thần nữa. Nhưng từng cá nhân cụ thể và nhỏ nhoi, rất khó nhận ra. Anh lính chiến thắng thì có, nhưng còn anh A, anh Z, anh Bình, anh Lạc... thì khó tìm lắm, khó thấy lắm, họ đã chìm nghỉm vào trong rừng vinh quang.
Vậy là tôi sẽ làm gì sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn là câu hỏi thường trực. Tôi đem đến hỏi người thầy thuở còn mũi giãi của mình, vì tôi tin thầy sẽ có câu trả lời đúng. Câu trả lời ấy thầy Hoan sẽ lấy ra từ những câu chuyện cổ tích, mà bao giờ nó cũng có hậu.
Quay về nghề cũ! Đó là những người có nghề, có cơ quan, có xí nghiệp. Quay về trường cũ! Là những sinh viên, học sinh đang học dở dang. Quay về cố hương, nơi chôn rau cắt rốn! Hãy nối nghiệp ông cha từ các đời Vua Hùng truyền lại, mà nhiều người trong số chúng tôi nghĩa là "theo đít con trâu", "một mái nhà tranh, một bà vợ - hoặc là lắm điều, hoặc là không nói gì - và một lũ con quanh năm đói khát, thò lò mũi xanh".
Tôi đi bộ đội trong khi đang học dở dang năm thứ ba trường trung cấp sư phạm. Nếu không có chiến tranh, nếu không phải vào quân đội thì tôi đã là một anh giáo làng dạy cấp hai, mà có ít ai ngờ được là dân "trí thức xã", cày ruộng, gieo mạ, phát bờ... còn tinh thông hơn cả cầm phấn viết bảng. Như vậy là, nếu muốn, tôi sẽ quay về trường cũ, học nốt nửa năm để tiếp tục sự nghiệp "trí thức nửa mùa" của mình. Nhưng..., ở đời này tôi thấy con người ta toàn gặp phải những cái "nhưng" oái oăm, oái oăm thôi, còn hay dở thì chưa biết, có nhiều cái nhưng may mắn kia mà. Nhưng, khi tôi trở về trường cũ thì không còn cái hệ "bảy công ba", là cái hệ mà tôi đã học. Trường đã thành trường cao đẳng, hệ trung cấp đã chấm dứt. Lúc này tôi mới hiểu ra rằng: thầy Hoan của tôi chưa từng qua một trường đào tạo nào, không trung cấp và cũng không sơ cấp sư phạm nào cả, những bài học của thầy dạy cho chúng tôi chỉ là một chút chữ nghĩa i tờ và tấm lòng mà thôi. Những con ma, những thằng quỷ và cả những ông Bụt, ông vua... trong câu chuyện cổ chan chứa tình người, là do thầy nhặt nhạnh trong cuộc đời, được rây lọc qua bao nỗi buồn vui, cay đắng. Người ta có thể trở nên người tài nhờ những bài toán đạo hàm, toán cao cấp và vật lý lượng tử, nhưng khó mà nên người khi thiếu đi những Bé Tròn và cả những thằng Cuội suốt đời nói dối ngồi gốc cây đa.
-Đồng chí về trường sẽ nhận công tác là cán bộ chuyên trách Đoàn trường. Thầy Ninh dạy sử tôi năm thứ ba, giờ là trưởng phòng giáo vụ nói với tôi như thế.
-Thưa thầy, em muốn được dạy học...
Dĩ nhiên là thầy Ninh và cả nhà trường khó có thể đáp ứng nguyện vọng của tôi, dù lúc ấy tôi đang là một công thần, có Huân chương trên ngực áo quân phục.
Tôi không kể cho thầy Hoan nghe câu chuyện trên, mà chỉ nói:
-Thưa thầy, cháu sẽ... về quê!
-Làm gì?
Tôi im lặng, bởi vì vừa không muốn trả lời thầy, vừa không thể trả lời được. Thầy tiếp:
-Làm ruộng thì anh có làm được không? Một thứ lao động truyền đời, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất. Không, tôi không nói đến cái gian khổ, gian khổ đối với anh chắc không thiếu. Tôi nói đến cái sự tù túng, quẫn bách của thói nhà nông hãnh tiến. Làng này anh thấy chứ? Giàu có như ông Sử Quốc cũng có bao giờ dám bỏ ra năm đồng để mua một đôi pin không hay là lại phải chạy vạy, chầu trực để được phân phối. Chuyện cũng nực cười, thấy tôi bỏ ra năm đồng mua đôi pin Con Thỏ của bà hàng xén, ông ấy nhìn tôi kinh ngạc: Ông giáo mà cũng phải mua ở đây à? Tôi hỏi lại: Thế mua ở đâu? Mậu dịch không bán cho tôi vì tôi không có phiếu đài cán bộ, muốn soi con gà con qué, con rắn con rết... thì phải ra đây mới có. Ông ta lặng im và rồi chỉ nửa ngày sau cả cái làng này biết tôi "dám" bỏ ra năm đồng để mua đôi pin Con Thỏ!
Tôi cười hơi có cái vẻ hiểu đời, nhưng không phải là vô lễ với thầy Hoan:
-Năm đồng là to lắm rồi, thưa thầy!
Bất ngờ thầy đổi giọng:
-Hay là đi buôn? Quê ta cũng có nghề đi buôn đấy! Nhưng muốn đi buôn phải có hai điều kiện, mà ở anh tôi nghĩ không có...
Tôi chăm chú chờ đợi thầy Hoan giải thích tiếp, nhưng thầy chỉ im lặng. Tôi đành vô phép hỏi với giọng sốt ruột:
-Thưa thầy, hai điều kiện đó là gì ạ?
-Một là phải học dốt. Hai là phải biết nói tục! Thầy nói một cách nghiêm túc. Nói tục thì có thể rèn mãi cũng thành. Chứ còn học dốt thì khó đấy... Khó không kém gì học giỏi đâu!
Trong cuộc đời ngắn ngủi của con người ta, tôi nghiệm ra rằng có những điều mà mình chỉ nghe một lần thôi, để rồi không tin không được, nhưng tin thì lại không biết vì sao mình tin, không hề có cơ sở khoa học, nó y hệt như một tôn giáo mầu nhiệm. Cái điều thầy Hoan nói với tôi hôm ấy, tôi cũng láng máng tin là đúng bởi những trải nghiệm của mình, nhưng rồi hơn mười năm sau khi vào học Khoa thương mại, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh tôi mới tin là thật. Vị giáo sư - tiến sĩ giảng bài marketing đưa ra cho chúng tôi một công trình trắc nghiệm của người Mỹ, xem anh có phải là nhà kinh doanh giỏi không, bằng một loạt các câu hỏi trắc nghiệm, trong đó có câu: "Khi còn đi học ở bậc phổ thông, anh học có xuất sắc không?". Nếu trả lời vào ô "có" anh được ba điểm; còn ô "không" anh được tám điểm!
Tôi không hiểu sức học của mình tới tầm cỡ nào, nhưng thường thì tôi không có điều kiện học bài ở nhà, mà chủ yếu tiếp thu trên lớp. Nhưng may mắn thế nào đó mà tôi vượt qua được tất cả các kỳ thi, để rồi được tuyển vào đội học sinh giỏi của tỉnh đi thi toàn miền Bắc (lúc ấy gọi thế vì chưa thống nhất đất nước). Đến đây thì tôi không vượt qua được, nhưng như thế thì cũng là vinh quang lắm rồi. Vinh quang cho làng tôi, cho trường tôi và họ hàng tôi. Chú tôi bảo: thằng này có thể học được tới tiến sĩ! Nhưng... (lại nhưng), cái ngày mà bọn bạn tôi lên huyện nộp đơn xin vào học cấp Ba, thì chúng gặp tôi trên đường gánh phân ra đồng!


ĐOẠN 2

Sau khi vãi nốt gánh phân cuối cùng để có được năm điểm ghi vào sổ hợp tác, tôi quẳng đôi quang gánh vào đâu đó rồi lên đồi nằm vật vờ trên vạt cỏ mua đất. Bên cạnh tôi, những ngôi mộ cũ cùng những bụi sim chằng chịt dây tơ hồng. Trời càng lúc càng tối sẫm, văng vẳng tiếng người gọi nhau trở về từ phía làng, nghe như tiếng gọi của những con người lạc nhau trong chiều hôm. Từ một ngôi mộ nào đó rất gần cất lên tiếng kêu đơn điệu, cô độc của một con dế. Tiếng kêu nghe lúc xa như kẻ hụt hơi, lúc gần đến chói tai. Cánh đồng tháng tám, cánh đồng có cái tên nghe muốn rớm nước mắt, trải ra một vùng tím ngát nối vùng đồi với dòng sông ngầu đục, con sông chảy cắt đôi làng tôi làm hai nửa không đều nhau, bên tả ngạn đang bồi, còn bờ kia đang lở. Phía bờ ngòi, một người đàn bà nách cắp chiếc rổ, xắn quần ngang đầu gối, hối hả chạy, bước thấp bước cao như có ma đuổi. Tôi bứt một quả sim muộn bỏ vào miệng nhai, vị chát ngấm dần vào lòng. Nỗi buồn tạm lắng, lại được dịp trào lên, tôi úp mặt vào hai cánh tay, nằm sấp trên cỏ... Trước mắt tôi hiện ra cánh đồng đục nước, và sau khi gặt lúc ba giăng (ba trăng - tức ba tháng, cấy xen vào giữa hai vụ chiêm mùa), tôi đùn chiếc cầy quấn đầy rạ tươi, đến bờ không nhấc nổi, nỗi nghẹn ngào muốn rơi nước mắt. Trong túi tôi còn một củ khoai. Tôi có ba củ khoai của bữa sáng. Một củ tôi ăn trước cửa chuồng trâu, chờ cho con trâu thức dậy. Một củ, tôi ăn trên đường ra đồng trong ánh trăng già hạ huyền, bước thập thõm trên bờ ruộng gầy ngặt. Khi nào thả cầy, con trâu tìm gặm cỏ là lúc tôi ăn nốt củ khoai cuối cùng của mình. Thế là tôi đã chấm dứt quãng đời niên thiếu tuổi học trò của mình, vương vấn quá!
Trời càng tối sậm khi lưỡi trăng non như một cái lá cỏ bay dạt trong sương xanh lành lạnh. Cả một trái đồi lừng lững in vào góc trời đen thâm như một ngôi mộ ngàn kiếp im lìm hoang vắng. Chợt tôi rùng mình khi có người vỗ vai. Ai? Bàn tay vỗ nhẹ và dừng lại, truyền cho tôi một chút hơi ấm. Nếu không có cái hơi ấm ấy, chắc chắn là một hồn ma nào đó vừa từ dưới một ngôi mộ gần đấy chui lên. Tôi từ từ ngẩng lên và nhận ra khuôn mặt một người con gái, lờ nhờ trắng trong chiều tàn. Mái tóc đen và dài chảy xuống cổ và mặt tôi, toả một mùi hương dịu ngọt rất lạ lùng, nhưng lại đầy vẻ quen thuộc. Tôi vùng dậy ôm choàng ấy người con gái ấy và khóc. Mãi lâu sau, để cho tôi nguôi bớt cơn khóc, giọng người thiếu nữ thoang thoảng:
-Nín đi, em! Khóc thế đủ rồi...
Tôi ngước lên lóa mắt trong ánh trăng chiều, rồi gục đầu vào ngực người thiếu nữ ấy:
-Em buồn quá, chị Nga ơi!...
Chị Nga nhìn tô bằng cái nhìn của người đang nhìn một con thú bị thương, cái nhìn đầy thương cảm, nhưng bất lực. Tôi tiếp tục nức nở:
-Em biết làm thế nào bây giờ?... Bố mẹ em cũng buồn, nhưng em phải nghỉ học thôi!
-Cả chị, cả bố chị cũng buồn cho em... em trai của chị! Chị không biết làm gì khi biết em phải bỏ dở chuyện học hành. Bố chị thì tiếc cho em lắm...
Chị Nga là con gái thầy Hoan. Mẹ chị mất sớm, mất ngay từ khi chị mới lọt lòng. Chị không biết gì nhiều về người mẹ của mình, chỉ có thầy Hoan biết, nhưng thầy một mực giữ kín trong lòng. Đó là một câu chuyện tình của người xưa, thấm đẫm máu và nước mắt. Tôi ước gì có thể kể cho bạn nghe!
Thầy Hoan bế chị trong một cái áo chàm được bọc thêm bằng một cái áo trấn thủ, may chần chéo những hình quả trám, loại áo của các anh Vệ quốc đoàn. Chị im lặng, không khóc, và cũng rất ít cười mà cứ lớn lên bình thản. Lúc ấy thầy Hoan mới ngoài ba mươi tuổi, và cái lý do khiến thầy đậu lại ở làng tôi (cũng như cha ông tôi đã đậu lại trên mảnh đấy khó nhọc này) là thầy gặp bà ngoại tôi. Thầy gọi bà ngoại tôi bằng bá, vì bà người cùng làng quê với thầy. Cuộc trường chinh tha hương của thầy không hẳn là cầu thực. Có thể là một niềm say mê rủ rê con người ta ra đi, và cũng như thể để trốn tránh một cái gì đó của riêng họ, để rồi đến một tuổi nào đó, họ nhận ra mình đầy rẫy những nỗi niềm lầm lỗi. Những người có chức sắc làng tôi cũng vui vẻ chấp nhận thầy, và thầy Hoan được đề nghị trân trọng làm thầy giáo dạy đám học trò học chữ sau ngày hoà bình. Căn nhà rạ một gian hai chái của cha con thầy giáo làng nằm trên cùng với một mảnh đất nhà tôi, lẩn khuất sau bóng cây si già bên bờ ao Sen.
Lúc nhỏ, chị Nga là một đứa bé sài đẹn, ốm yếu. Nhưng chi cứ thản nhiên lớn dần lên trong sự lãng quên của làng xóm.
Một lần tôi nghe được câu chuyện giữa thầy Hoan và bà ngoại tôi:
-Anh giáo xa làng lâu chưa? Bà ngoại tôi hỏi.
Thầy Hoan im lặng một lúc, hai tay mân mê cây cời bếp:
-Cháu không nhớ nữa, nhưng hình như từ lúc cháu còn bé. Cứ thế theo người ta đi, cũng chẳng biết đi đâu. Sau được làm con nuôi một gia đình khá giả. Nhờ thế, cháu cũng được đi hoc, bá ạ! Cứ tưởng đời mình được may mắn, nào ngờ, tạ hoạ ập đến…
Đó là một câu chuyện thê lương. Trong cuộc chạy đua vào chức phó lý, gia đình bố nuôi của thầy Hoan trở thành khánh kiệt. Hơn thế nữa, họ đã gây ra mối oán thù giữa những kẻ có của, hãnh tiến. Ông cụ bố nuôi của thầy bị hàm oan, và đã chết trong nhà lao. Rồi bà mẹ cũng ốm đau dặt dẹo rồi qua đời. Anh em ly tán, tất nhiên thầy Hoan cũng phải tìm đường bán xứ. Tóm tắt là thế, nhưng đó là những tháng ngày tuyệt vọng dài đằng đẵng của một anh học trò trường làng. Năm ấy thầy mới mười lăm tuổi, bắt đầu cuộc hành trình lưu lạc mới.
-Cuối cùng thì thị xã Phú Thọ là nơi cháu dừng lại. Quãng hai năm sau, cách mạng nổ ra, cũng nhờ công ơn ông bà cha mẹ nuôi, có được ít chữ, cháu trở thành anh giáo bình dân học vụ…
-Thế ra anh giáo cũng là người trôi lạc, bôn ba nhỉ? Mà nghĩ cho cùng, cái thời buổi ấy, trăm người được mấy ai thoát khỏi cảnh tha hương, bán xứ. Nghĩ mà tủi, biết bao giờ mới ngó lại được nơi chôn rau, cắt rốn…
-Cháu cũng muốn về làng một lần, bá ạ! Cái làng Sen Hồ của mình ấy, không biết bá có còn ai không, chứ cháu chỉ còn một người anh cùng mẹ. Năm nọ nghe anh ấy gả chồng con gái, là nghe mấy người đi buôn họ nói thế...
-Anh giáo là đàn ông, còn có thể đi đây đi đó, tôi là đàn bà, theo phận nhà chồng, lại già cả rồi, nào dám nghĩ đi được đến đâu...
Bà ngoại tôi lẳng lặng đem ra một bát bánh đúc tấm và một bát tương:
-Anh ăn đi. Tôi hỏi nhá, thế mẹ cháu Nga người ở đâu ta?
-Người Trại! Ở bên trên Phúc Thuận một quãng. Chỗ nông trường bộ đi vào...
-Thế anh cứ định ở vậy mãi à? Tôi nghĩ có đám bên Thống Hạ...
Thầy Hoan xắn một miếng bánh đúc bỏ vào bát tương, chống đũa:
-Thôi bá ạ, cháu có con Nga là đủ lắm rồi. Đèo bòng làm gì cho khổ thêm mình, lại khổ cả cháu. Bá còn lạ gì thói đời dì ghẻ con chồng, bánh đúc nào có xương...
Bà ngoại tôi cười:
-Có đấy! Năm nay thóc ao gạo kém, tôi nấu bằng gạo đầu, ăn thì để ý mà nhằn, kẻo lại hóc. Cháu Nga rồi nó lớn, cũng phải đi lấy chồng. Lúc bấy giờ còn mình anh, ai đỡ đần, nâng giấc? Năm nay cháu mười mấy nhỉ? Mười sáu à? Cũng sắp sắp rồi đấy. Trông trẻ nó lớn mà thấy mình già...
-Bá nấu bánh đúc( ) ngon quá! Cứ như thể là ăn ở làng mình ấy! Bá nói sao? Cháu Nga nó lấy chồng thì cháu chọn thằng nào ở rể. Cháu thành dong thế này cũng chả đến nỗi khó tính. Ăn uống kham khổ, đạm bạc quen rồi, chẳng cầu kỳ...
Câu chuyện của thầy Hoan và bà ngoại tôi ngày đó mà tôi nghe hóng được tôi đem khoe với chị Nga. Chị bảo chị chẳng thèm lấy chồng, cứ ở nhà với bố. Tôi cũng tin như thế. Lúc này đây, trong ánh trăng mờ, tôi thấy chị thánh thiện quá. Nhớ lại câu chuyện cũ, tôi hỏi:
-Thế chị có định lấy chồng không?
-Không! Chị đã nói với em một lần rồi mà. Này, nhưng sao em không là con gái nhỉ? Để chị em mình cùng... không thèm lấy chồng! Nhưng mà thôi, em cứ là con trai cũng được, để chị còn thương em...
Tôi vùi sâu mái tóc khét nắng của mình vào lòng chị Nga. Trái tim tôi dần dần nóng lên một cách khó hiểu. Tôi nghe thấy cả tiếng đập của nó, nặng nề ở đâu bên thái dương. Tôi nói mà nghe thấy tiếng nói của mình như giấu kín trong tà áo chị Nga:
-Chị em mình mãi mãi bên nhau nhé?
Chị im lặng, không nói. Bàn tay chị lùa vào mái tóc tôi, những ngón tay chị cứ ngập ngừng, như muốn nói "ừ!", mà cũng có thể là "không!".
Tôi làm sao hiểu được chị? Không, sẽ chẳng bao giờ tôi hiểu! Tôi thì trẻ thơ mà giờ đây chị đã là một thiếu nữ, là người chị, người bạn cuả tôi, hơn thế nữa, chị còn là cô giáo dạy tôi môn địa lý lớp bảy. Đây là lần đầu tiên từ khi tôi lớn lên, trong cơn tuyệt vọng, tôi gục đầu vào ngực chị để được khóc. Chị cứ để yên như thế, để mái đầu khét nắng và trái tim của một thằng trai mới lớn ngủ yên trên ngực chị. Tiếng dế đàn lập tức từ các kẽ đá của những ngôi mộ đồng loạt cất lên, nghe hào hứng và rạo rực lạ thường. Tôi từ từ tĩnh tâm lại, ngước lên nhìn vào mắt chị Nga:
-Chị ơi! Sao người ta không thể làm chủ số phận của mình được nhỉ?
Chị không trả lời mà âu yếm bảo tôi:
-Đưa bàn tay của em đây, bàn tay kia, tay trái ấy...
Chị Nga nắm lấy bàn tay tôi đưa ra dưới ánh trăng. Trăng non mờ quá lại sắp lặn, tôi nhìn bàn tay mình mà chẳng thấy gì cả. Nhưng chị vẫn lấy ngón tay của mình chỉ vào lòng bàn tay tôi, giọng xa vắng:
-Bàn tay em đẹp lắm, không phải của người cầm cày, cầm cuốc mà là có dáng của một thư sinh cầm bút. Nhưng đường học vấn bị đứt ngang, như vậy là chuyện học của em có nhiều dang dở...
-Hay là tại số hả chị?
-... Có học được cũng chật vật lắm, mà rồi cũng chẳng đi đến đâu, học nghề này lại đi làm nghề khác! Em còn muốn học không?
-Muốn lắm! Tôi ngồi thẳng dậy, hào hứng như một cậu học trò thuộc bài, tự tin.
-Có cách này. Em làm hồ sơ xin vào học trung cấp sư phạm, như chị ấy. Được học văn hóa, lại có học bổng, gia đình không phải lo...
Tôi không tiếp lời chị Nga, chỉ im lặng cắn một ngọn cỏ đắng. Học hết lớp bảy phổ thông trường huyện (ngày ấy cả huyện tôi chỉ có một trường cấp 2 - 3) chị Nga vào học trung cấp sư phạm. Ra trường chị được một sự ưu tiên vô cùng quý giá là về dạy ở quê nhà, để trông nom cha già là thầy Hoan, cũng là một nhà giáo đã nghỉ dạy. Ở trường chị dạy tôi môn địa lý. Buổi học cuối cùng chấm dứt, ngày mai chúng tôi thi tốt nghiệp, ra trường và ngày kia, ngày kia nữa... để rồi câu chuyện học hành của tôi chấm dứt buổi chiều nay.
-Có học toán, học văn không hả chị? Tôi lạnh lùng hỏi lại chị Nga.
-Có chứ! Nếu em học ban tự nhiên, em sẽ học toán lý hoá, còn ban xã hội, sẽ được học văn-sử-địa, như chị ấy!
-Em học văn! Em sẽ làm nhà thơ!
Tôi hồn nhiên hào hứng. Chị Nga cúi xuống nhìn tôi:
-Em cũng làm được thơ à? Đọc nghe nào!
Tôi ngồi lên đọc bằng một giọng ngân nga:
"Dù anh đi một ngàn đêm sương gió
Vẫn thương em khi nhạt ánh chiều
Anh sẽ đi làm màu xanh bãi cỏ
Cho em ngồi tình tự với người yêu!"
Đọc xong, tôi ngước nhìn chị Nga, chờ đợi những lời khen ngợi, thán phục. Nhưng chị chỉ ngồi im nhìn xa vắng về phía giòng sông, yên lặng. Mãi sau chị nói nhỏ, bâng quơ:
-Yếu đuối quá! Thôi, chị em mình về đi, chị lạnh rồi!
Tôi đứng dậy theo chị Nga. Chị cuốn mái tóc xõa xuống lưng, vuốt lại tà áo. Lúc này, nhìn chị tôi mới nhận ra chiếc áo chị mặc, không phải chiếc áo trắng chị vẫn mặc. Cái áo hôm nay chị mặc cũng màu trắng nhưng nhuộm đẫm màu biếc của trăng non, và hình như ánh lên màu sáng xanh của ánh lân tinh, nhìn như trong suốt. Tôi cứ bước thấp, bước cao trên bờ ruộng, còn chị Nga cứ băng băng như lướt trên cỏ, trên đồng và trên cả ánh trăng giãi tràn xuống đôi chân trần của chị. Đến đầu làng, nơi có cây gạo già nua, chị bảo tôi:
-Em về trước đi, chị đi có tí việc rồi chị về sau!
Tôi chưa kịp nói gì thì bàn tay chị đã rời khỏi tay tôi. Tôi quay lại nhìn cái bóng trắng có pha màu dạ quang lướt nhẹ về phía góc làng. Ở đó, ban ngày dưới bóng mát của ngôi mộ đá Chúc Anh Đài (thật ra là mộ của một người Tây) và những cây dứa ma, đám trẻ vẫn thường tụ nhau đánh chuyền, đánh chắt...
Hôm sau, không chờ được đến tối, sáng ra tôi đến trường tìm chị Nga. Thấy tôi chị hỏi:
-Em đi đâu đấy? Tìm chị à, có việc gì vậy?
-Về việc tối hôm qua...Em... em muốn đi sư phạm!
-Được để chị hỏi Ban tuyển sinh cho em. nhưng mà muộn rồi. Đã khai giảng khóa mới, có lẽ phải chờ sang năm...
Tôi chạy ào về nhà, lòng cay đắng hờn trách chị Nga, dù tôi biết chị chẳng có lỗi gì.
Tôi còn phải ở nhà một năm nữa với ba củ khoai của mình trên cánh đồng Lưu Lạc cấy lúa ba trăng và vụ màu tái giá. Năm sau,vào một buổi trưa cuối hè, anh Định Khiểng, người giao thông xã đút qua hàng rào cho tôi bức thư đặc biệt- nó to hơn những lá thư mà tôi thường thấy, lại được làm bằng giấy báo, và được dán lên một mảnh giấy vuông vuông màu vàng đề tên và địa chỉ người nhận là tôi. Tôi giật thót tim: giấy gọi vào học trường trung cấp sư phạm! Tôi chạy ào qua vườn, qua dõng sắn, băng trên những chà gai xấu hổ, xộc thẳng vào phòng chị Nga. Chị đang ngủ, vầng trán thanh tú của chị giãn ra nhẹ nhõm. Dưới lớp chăn mỏng cùng với nhịp thở đều đều, vòm ngực nhỏ bé của chị cũng nhịp nhàng dâng lên, hạ xuống thanh bình. Tôi đứng lặng đi trong một giây, giùng giằng, nửa muốn xộc vào đánh thức chị, nửa muốn quay ra. Sau cùng tôi xoay bước, khẽ khàng không làm động giấc ngủ trưa thanh thả, hiếm hoi của chị. Tôi vừa quay ra thì có tiếng chị:
-Này, nhà thơ! Em có chuyện gì thế?
Tôi ngoảnh lại và thật kinh hoàng khi nhìn thấy một bên vai áo chị trễ xuống, một vòm ngực sáng và mịn như được nặn bằng đất sét thạch cao màu ngà lóe lên. Tôi từ từ tiến đến, chìa ra trước mặt chị cái giấy báo nhập học. Chị hất mái tóc ra sau, xốc lại áo, rồi nắm tay tôi, kéo ngồi xuống bên cạnh. Chị đọc xong, liếc nhìn tôi, mỉm cười:
-Mừng không?
-Em cũng không biết nữa. Chị có mừng không? Là em hỏi cái ngày chị nhận giấy báo nhập học, chị có mừng không?
-Thích lắm. Nhưng chị lại thương bố. Chị đi rồi bố ở nhà một mình...
Tôi hào hứng:
-Em chẳng phải nuôi ai. Thế mới thích. Ừ mà em mà lại làm được thầy giáo, chị nhỉ?
-Làm được chứ có gì mà không làm được. Ở nhà, đã ai biết chưa?
-Chưa!
-Về đi, về báo cho bố em biết!
Lần đầu tiên tôi được đi ra khỏi cái làng Sơn Cốt bé bỏng và đầy những nghịch cảnh của mình. Theo lời dặn trong giấy, mẹ tôi phải bán hơn bốn chục cân thóc, lấy giấy chứng nhận của phòng lương thực huyện đem lên trường ăn gạo nhà nước. Cũng theo lời ghi chú trong giấy báo, học sinh phải đem theo một loại vũ khí thô sơ: dao găm hoặc mã tấu, tôi lôi ra thanh kiếm cùn trong đống đồ nghề thợ bạc của ông ngoại tôi. màn đi mài lại cho đến sáng loáng. Tôi được mẹ sắm thêm cho một cái quần gụ may theo kiểu chân què. Khốn nỗi, phiếu vải không còn, mẹ mua ngoài chợ của ai đó một tấm vải đầu cây, còn ghi những con số khó hiểu đánh dấu mẫu mã của xúc vải. Chỗ ấy được bà An may xuống gấu quần, những hàng số bằng sơn màu vàng, không thể nào giặt sạch trông như số của người tù. Kệ nó, tôi tự nhủ! Trước ngày lên trường chị Nga ngồi với tôi một buổi chiều, chị dặn dò từng li, từng tí, ăn ở ra sao, nói năng thế nào, những thầy nào, cô nào, tính khí ra sao chị cho tôi nghe bằng hết. Đến lúc tôi đem ra khoe vói chị cái quần có số, chị cười:
-Em mặc vào cho chị ngắm xem nào!
Tôi vào trong buồng một lúc rồi trở ra lùng thùng trong cái quần có số màu gụ, chị Nga tự dưng cứ rũ ra mà cười:
-Trông em như người Cao Lan ấy. Thôi, không sao, càng đỡ phải giặt xà phòng...
Nhìn tôi lúc đó, chắc phải buồn cười lắm. Nặng bốn mươi mốt cân, cao một mét bẩy mươi, diện một cái quần "âm lịch" có đánh số dưới gấu, lếch thếch cái hòm gỗ - nguyên là cái hòm đựng xà phòng của Liên xô và lủng lẳng bên hông một thanh gươm... ra đi học làm anh giáo, gõ đầu trẻ. Và đúng như ước muốn của tôi, tôi học ban xã hội với các môn văn-sử-địa.
Đến nửa năm thứ ba, nghĩa là còn một học kỳ nữa, qua một đợt thực tập là ra trường, tôi đã kịp hình dung ra tôi, một anh giáo làng, cần mẫn và an phận. Nhưng, một hôm người ta đánh xe ô tô đến, họ chở nào cân, nào túi thuốc, nào bảng chữ cái khám mắt đến dựa ngổn ngang cạnh các gốc cây. Tỉnh đội đến khám sức khỏe, tuyển bộ đội! Chúng tôi được thông báo, và được gọi đến khám tuyển. Tôi đã trúng tuyển ngay lần khám đầu! Dĩ nhiên là chúng tôi rất hào hứng. Lòng hân hoan, những miền đất xa xôi, đầy hứa hẹn và lãng mạn đã cuốn hút tôi, mà không hề hình dung ra những gian nan, cực khổ của cuộc chiến tranh đang chờ đợi.
Trong khi tôi đang hí húi viết những giòng lưu niệm cho bạn bè thì nhận được thư chị Nga. Chị lấy chồng! Tôi phải về, phải về ngay! Không thể nào chần chừ được nữa. Lúc này, tôi đã đủ lớn, đủ sức suy nghĩ để hiểu rằng, không có hạnh phúc nào lớn lao bằng tình yêu đôi lứa. Rằng, người con gái phải lấy chồng, họ phải có một gia đình riêng, một cuộc sống riêng. Nhưng sao, lại là chị Nga của tôi? Chị lấy ai? Người chồng của chị có yêu chị không? Chị có yêu anh ta không? Và, cả tôi nữa, anh ta có làm cho tôi yêu mến không hay cũng lại là những tay đàn ông đầy lòng tự ái, vũ phu, gia trưởng và ngu xuẩn mà tôi đã thấy? Cái cảm giác mất chị tràn ngập trong ý nghĩ. Buổi chiều, tôi ra nhà bố Tiễu, - bố nuôi tôi, theo quy định của nhà trường, chúng tôi kết nghĩa làm con nuôi một gia đình nào đó trong địa phương nơi trường đóng chân, tôi làm con nuôi ông bà Tiễu người Thái Bình lên khai hoang - mượn được một chiếc xe đạp cũ kỹ. Suốt đêm ấy, từ nơi trường sơ tán, tôi đạp xe gần một trăm cây số về dự đám cưới chị Nga.
Khoảng gần mười hai giờ đêm tôi về đến nhà. Trời lạnh, gió tạt cắt da, nhưng hai bên tai tôi lúc nào cũng nóng phừng phừng. Bố mẹ tôi ngạc nhiên lắm khi thấy tôi về nhà vào nửa đêm thế này. Tôi bảo:
-Con đi bộ đội đây! Trên trường họ khám, con trúng rồi.
Mẹ tôi lo lắng:
-Thật không con?
Bố tôi không nói gì, ông lặng lẽ bước ra sân, ngoài ấy một màn sương trắng đục đang la đà, tràn ngập vườn tược, cây cối. Lát sau, bố tôi vào nhìn tôi:
-Được về mấy ngày?
-Con trốn về. Xe đạp con mượn của bố Tiễu... Trưa mai con phải lên để kịp ra tỉnh đội tập trung!
-Sao không cho con người ta về nhà gặp gỡ, chia tay với gia đình? Làm gì mà gấp gáp cứ như là bắt lính thế hở con? Mẹ tôi đặt đứa em rồi trở dậy cứ đứng nhìn tôi trân trân.
-Con không biết nữa! Thời chiến mà. Thôi con ngủ một tý đây. Bố mẹ cũng đi ngủ đi.
Tôi ra giếng ngó sang nhà thầy Hoan. Bên ấy vẫn còn sáng đèn. Tôi muốn lao vào mà ôm chầm lấy chị Nga quá. Nhưng nghĩ thế nào, tôi vào nhà chui vào chăn vói thằng em. Tôi vùi chăn kín đầu, còn nghe tiếng bố tôi:
-Ở nhà mai dự đám cưới chị Nga đã chứ!
Tôi vùng ra:
-Lấy ai hả thầy?
-Thằng Kỳ, con nhà Tuân!
Tôi lặng lẽ hạ gối xuống. Một làn khói từ đâu kéo đến cay gắt mắt tôi. Trên bàn thờ, ba nén hương cháy đỏ, bố tôi đã thắp lên từ lúc nghe tin tôi nhập ngũ.
Sáng hôm sau là ngày dẫn dâu, tôi sang nhà thầy Hoan từ sớm. Chị Nga vẫn còn gánh nước tưới su hào ngoài bãi, nhìn thấy tôi chị lắc đầu:
-Lạnh quá! Em về tối qua à?
Tôi không nói, lặng lẽ cầm lấy cái chổi quét một vũng sân. Thầy Hoan ho dưới bếp. Không khí ảm đạm cho mãi đến khi bạn bè của chị Nga, là các thầy cô gíáo kéo đến lục tục. Đám phụ nữ lôi chị Nga vào trong buồng, còn tôi pha nước bóc thuốc mời cánh đàn ông. Tôi thèm nói chuyện với chị Nga quá, nhưng chẳng còn một phút thời giờ nào dành cho tôi. Khi nhà trai đến, chú rể là anh Kỳ, một người cùng xã vói chúng tôi. Chị Nga từ trong buồng bước ra, tôi thấy đôi mắt chị ngấn nước. Và, cái áo chị mặc ngày đi lấy chồng vẫn chỉ là cái áo chị mặc khi lên lớp. Sao chị không mặc cái áo mà chị đã mặc hôm lên đồi tìm tôi? Cái áo trắng, pha màu biếc của ánh trăng mà tôi mới chỉ thấy một lần. Tôi đứng dựa cột chìm đắm trong tiếng ồn ào, lao nhao tiếng cười nói của hai họ. Khi chuẩn bị theo chồng, chị nhìn xung quanh như kiếm tìm ai. Tôi rời cây cột đến trước mặt chị. Chị nắm lấy tay tôi:
-Em đưa chị đi chứ?
Tôi lắc đầu:
-Em không đưa chị đi được đâu. Mười hai giờ trưa em phải về trường rồi...
-Có chuyện gì gấp thế?
-Em về từ biệt chị. Sáng mai, em phải có mặt để xe chở lên tỉnh đội. Em... nhập ngũ!
Bất ngờ chị ném cái khăn mù soa vào tay một ai đó, hai tay chị nắm lấy cổ tay tôi, nghẹn nấc. Mãi sau chị mới nói, rất nhỏ:
-Ừ thôi, em đi đi, chân cứng, đá mềm... Chị chẳng có gì tặng em!
Tôi đẩy nhẹ chị ra:
-Em cũng thế, chẳng có quà mừng ngày chị đi lấy chồng. Đây... tôi móc trong túi ngực áo, em có mấy đồng bạc người ta cho em để nhập ngũ, chị cầm lấy...
Tôi bỏ nửa chừng câu nói, nghẹn ngào quay lưng bước ra ngoài. Tiếng chị Nga gọi tên tôi phía sau, rất nhỏ nhưng day dứt quá. Tôi về nhà chào bố mẹ rôi vác xe ra cổng đạp mải miết... Và, tôi cũng không ngờ rằng, chúng tôi xa nhau từ ngày ấy mà phải đến tận hai mươi bảy năm sau, khi cả hai chị em đã luống tuổi mới lại được gặp nhau!