Như tôi đã kể ở phần trên cuốn sách này, tôi và chị Nga, hai chị em chúng tôi xa nhau kể từ buổi sáng chị đi lấy chồng, và tôi lên đường nhập ngũ, đến tận mãi hai mươi bảy năm sau, khi cả hai đã bạc tóc mới gặp lại nhau. Quãng thời gian xa cách ấy, là quãng đời lưu lạc, cho đến khi gặp nhau cũng không phải ở quê nhà. Có biết bao nhiêu câu chuyện, bao nhiêu biến cố mà chị dồn nén trong lòng, đem ra kể với đứa em là tôi.
Thì ra cái đêm chị dời Soi Vạt để trôi theo dòng sông Công về xuôi, không phải hai mẹ con chị ngồi trên cái mảng nứa, lềnh bềnh theo dòng lũ xiết như người ta đồn thổi lên. Chị kể với tôi rằng, Soi Vạt không phải là nơi trú ngụ suốt đời chị và thằng Hận con chị, và ngay cả cái làng Sơn Cốt của chúng tôi cũng không thể dung thứ chị. Phải ra đi, chị nhất quyết đã nghĩ như vậy. Nhưng đi bằng cách nào? Và sẽ sống ra sao?
Ở đây, suốt một thời gian dài, thằng Hợi, đứa trẻ chăn trâu cho hợp tác là sợi dây nối chị với bên ngoài, là kẻ tiếp tế gạo, muối, dầu đốt... cho hai mẹ con chị. Chị thương nó, giá như nó là con chị, thì chị cũng chỉ thương nó đến thế mà thôi. Khi quyết định ra đi, chị thoáng nghĩ hay là đem nó cùng đi. Đất trời, non nước này, với những gì chị biết được từ những bài địa lý mà chị đã dạy cho lớp học trò của chị sẽ dẫn bước chị đi. Còn thằng Hợi, thằng bé mục đồng đen nhẻm, côi cút nhưng khá thông minh, sớm láu cá sẽ phải để cho nó ở lại để nó gắn bó với cái làng nhỏ bé, đìu hiu của nó. Nó còn mẹ, còn các em, còn là nơi đi về của hương hồn cha nó. Chỉ có chị là phải ra đi.
Chị nghĩ thế, và chị cũng đã toan tính làm một cái bè bằng tre, ghép lại. Chị cũng định sẽ đặt thằng Hận nằm trên đó, chị sẽ một tay chèo chống, xuống hết quãng thác này, vực nọ, cho đến khi nào ra tới dòng sông Cái.
Thế rồi mùa nước lớn đã đến, cái mùa nguy hiểm của dòng sông, nhưng lại là một mùa xuôi bè thuận tiện nhất, vì lòng sông nở ra, dềnh lên mênh mông hơn. Nhìn con nước lũ ào ạt chảy, cuốn theo cơ man nào cây củi, cành khô, quấn quýt vào những bụi tre hai bên bờ rã rợi ngọn lá, chị thấy sợ hãi. Lòng can đảm được ấp ủ suốt một mùa đông giá, khô cằn, cạn hẹp bây giờ bỗng nhiên tan biến.
Nhưng nhất quyết phải ra đi!
Chị ngồi đếm lại số tiền nhỏ nhoi mà chị đang có bằng những đồng tiền lẻ. Chị vuốt lại cho chúng thẳng thớm, sạch sẽ, gói chúng vào một miếng vải mưa cũ kỹ. Xong xuôi, chị ngồi nhìn thằng Hận đang lồm cồm bò trên manh chiếu rách, rồi chị nhìn vào hai bàn tay mình, trống trơn. Bất giác chị nghĩ đến tôi, chị kể thế. Chị nhớ đến cái đêm trăng non trên đồi Chùa Phung mà chị đã nhìn vào bàn tay tôi mà dự báo, phỏng đoán cho cuộc đời tôi.
- Ngày ấy chị đã dự báo cho em rằng em của chị sẽ có một cuộc đời phiêu lưu phong phú. Thế mà khi ngồi nhìn hai bàn tay thô tháp đã bắt đầu nhăn lại của mình, mà chị không tài nào dự báo cho mình con đường trước mặt. Em hỏi chị có tuyệt vọng không ư? Không, chị không hề tuyệt vọng, nhưng cũng không thể hy vọng được. Chị chỉ nung nấu một ý chí băng qua, vượt lên chính cuộc đời mình... Dù có ra sao cũng được, dù có đi đến đâu cũng thế!
Một hôm, như lệ thường, thằng Hợi về xóm, chị bồng thằng Hận ngồi nhìn dòng lũ, thì bỗng có một cái mảng dài, trên đó lô nhô những tay thợ sơn tràng, đang trôi xuôi, chầm chậm, thế rồi nó quay ngoắt, ghé vào Soi Vạt. Người ngồi đầu, dáng như người chỉ huy mảng vít một nhánh tre ghì sát cái mảng dài như con thuồng luồng vào bờ đất, nhóng cổ gọi lên:
- Nhà chị có còn gạo không, để cho anh em tôi một bữa?
Chị Nga hơi bị bất ngờ:
- Các bác hỏi đong gạo?
- Vâng! Nhưng mà không cần nhiều đâu. Anh em tôi vừa hết gạo ăn, cần bữa tối nay thôi, sáng mai ra đến sông Cái thì lại có chỗ mua rồi...
Chị Nga ngần ngại một chút rồi, bỗng loé lên ý nghĩ táo tợn:
- Mời các bác lên đây một chốc. Em có gạo đấy, nhưng sợ không đủ để các bác nấu bữa tối.
Người thợ rừng nhảy phắt lên bờ:
- Độ hai đấu là đủ thôi mà!
- Thế thì may ra...
Chị chui vào trong lều, đem ra cái vại nhỏ sứt mẻ, đựng lưng lưng gạo ra, xoay xoay:
- Chỗ này cũng đến hai đấu, bác cầm lấy mà nấu. Hay là... sẵn có củi lửa đây, các bác lên nghỉ tạm, cơm nước xong thì xuôi! Chứ dọc bờ nước cả thế neo vào đâu?
Nghĩ ngợi một thoáng, bác san tràng gọi vóng xuống:
- Anh em ơi! Có gạo rồi! Lên đây thổi cơm ăn xong ta đi tiếp! Đoạn bác ta quay lại. Chị có cái xoong nào nấu đủ cho năm anh em tôi ăn, thì cho mượn. Mà cánh san tràng chúng tôi ăn khoẻ lắm đấy!
Chị Nga lúng túng:
- Nhà em chỉ có hai mẹ con, không có nồi to, chán thật.
- Thế thì thôi, không sao! Bác thợ nói với xuống mảng. Thằng Tĩnh cởi cái xoong to vẫn nấu cơm đem lên đây...
Thế là trong chốc lát, “nhà” chị Nga bỗng rậm rịch khách khứa, lao xao tiếng người. Chưa bao giờ, và cũng chẳng bao giờ chị lại có thể hình dung ra cái cảnh này. Hình như cũng đoán ra hoàn cảnh éo le của chị, bác trưởng toán thợ rừng hết nhìn chị, nhìn thằng Hận rồi lại nhìn túp lều tùm hum, lè tè của chị ý chừng muốn hỏi một câu gì đó. Còn chị Nga thì lặng lẽ nhiệt thành giành lấy cái xoong từ tay người thanh niên tên Tĩnh vo gạo bắc lên bếp. Nếu bác trưởng tốp giữ ý không hỏi thì anh chàng Tĩnh xốc nổi hỏi ngay:
- Chị ở đây có một mình thôi à?
- Vâng! Có hai mẹ con tôi và thằng cháu. Nó về xóm...
- Xa làng, xa xóm thế này, ngỻ Cong Môi. Một lân dại dột thế nào đó, Phúc đã tặng cho một ông bạn khác của chúng tôi vốn là nhạc công thổi kèn của công an Hà Nội, bị thải hồi, một khẩu súng CKC đã chế tác lại theo ý Phúc, để ông bạn thổi kèn này bắn nát đến tận đùi một bên chân ông anh họ tôi là một giáo viên cấp hai, trong một vụ tranh chấp một tí đất rộng chừng một đường cày. Suýt gây ra án mạng, nhưng ông anh họ giáo viên của tôi chỉ bị tháo khớp đến háng, còn ông bạn cựu nhạc công đi tù. Phúc Trều ra sao, tôi không biết! Nhưng làng tôi cũng chưa có kẻ biết giết người!
Nếu là buổi sáng, trong ánh bình minh mờ đục, bạn sẽ gặp cụ Đồ Nham. Cụ Đồ cao to, vạm vỡ, theo đúng chân dung được mô tả "vai u, thịt bắp, mồ hôi dầu", đang vác một cái cày chìa vôi, mà bắp cày rất lớn, "phi" đến mười lăm xăng-ti-mét, làm bằng tre đực, kiêm luôn đòn gánh của cụ, giong một con nghé bé tí tẹo, chắc là mới vực. Trong khi đôi mắt kèm nhèm của cụ cúi xuống để tránh những vũng nước và những bãi phân trâu, thì con nghé con cứ hếch mũi lên mà ngửi trời, có thể cô ả đang tung tăng sung sướng vì lần đầu tiên được chính thức tham gia vào việc kéo cày, đem công điểm về cho chủ là cụ Đồ Nham. Cụ Đồ là người quê gốc ở Hà Đông, bằng chứng là tôi đã được nói chuyện với anh cháu gọi cụ bằng chú từ Hà Đông lên chơi với cụ. Anh ta tên là Da. Cụ là công nhân mỏ sắt Lăng Hít, rồi sau loạn lạc cụ đến ở nhờ làng tôi, cụ thể là trên mảnh đất nhà tôi, nguyên là cái vườn hoa cảnh của chủ đồn điền Sơn Cốt, tên là Đùi Gà (có lẽ là Dugas, nói chệch ra), để rồi lấy một bà vợ khét tiếng là chửi hay nhất làng. Mùi mồ hôi dầu của cụ đồ Nham danh tiếng đến nỗi, trong bất kỳ cuộc họp xã viên trong phạm vi đội sản xuất hay đại hội toàn thể, sự có mặt của cụ được người ta biết ngay. Thậm chí cách nửa cây số, người ta vẫn biết, nếu đứng xuôi chiều gió thì điều này càng được khẳng định.
Câu chuyện cụ Đồ Nham cưới vợ tôi biết, dù lúc đó tôi mới được sáu tháng tuổi. Khi cụ Đồ đến ở nhờ nhà tôi thì đã có một người khác ở nhờ, đó là ông Dư, người cùng làng tôi, nhưng gia đình tứ tán, không còn cha mẹ, hơn nữa ông Dư lại mắc bệnh động kinh. Bố tôi bằng lòng cho ông Dư và sau đó là ông Nham ở nhờ những ngày đầu vào một cái chái, dù rằng là tôi rất nhỏ. Thường thì ông Dư hay ngủ ngoài đống rơm. Người mà cụ Đồ lấy làm vợ đã có một đời chồng, mang tên chồng cũ, chứ tên thật của bà rất ít người biết. Khi có chồng bà mang tên chồng là bà Nham. Bà này có họ với bà nội tôi, nên chúng tôi gọi bằng bá, còn chồng bà lại gọi là ông. Chính vì lẽ đó mà sau này, vợ chồng cụ Đồ Nham không ở nhờ nhà tôi nữa, ông Dư bị chết sau một cơn co giật, vào một buổi trưa mùng một tết, bà bá của chúng tôi đã đứng trước cổng chĩa vào nhà tôi chửi suốt một buổi chiều, mà mãi sau này tôi mới hiểu bà chử "cái đứa đã lợi dụng chứa chấp em tao, lấy hết của cải của nó để chôn người sống, đống người chết". Lúc đó tôi và em tôi, theo lời chỉ dẫn của cụ Đồ, đứng ra bờ rào bắt nhại tiếng chửi của bà bá thân yêu, khiến bà chửi càng mãnh liệt hơn, đến phải đưa vào nhà hô hấp.
-Đ. mẹ con cái Rựng (Rựng là tên thật của bà bá chúng tôi), thằng Dư nhà mày thì trên răng dưới dái có cái đéo gì mà người ta lấy. Ăn nhờ hết bát lành, bát mẻ, ăn cả giải giút nhà người ta còn chết đói kia kìa. Có cặc tiền bạc đấy mà lấy! Đó là những lời lầm bầm rất nhỏ, có khi nghe như lời tâm sự của cụ Đồ Nham chửi vợ.
Bác Dư, chúng tôi vẫn gọi thế cho đến khi ông chết, là người tài giỏi trong nghề rừng. Suýt nữa thì bác Dư cũng thành một người anh hùng kiểu Tinh Tinh, nhưng tâm thần bác khá hơn, chỉ bị lên cơn co giật khi cần thiết. Có khi vài ba năm, không thấy cơn bệnh phát ra. Tôi ở với bác đã từng được bác cho ăn thịt ngựa, thịt hùm... có khi ăn sống, hoặc rửa bằng nước vo gạo, xào sơ, rất ngon lành. Năm mươi năm sau, mẹ tôi còn thấy khiếp khi nhắc lại chuyện con trai bà ăn thịt hùm sống.
Nếu vào buổi chiều tà, mặt trời tụt xuống sau dãy núi Tam Đảo, nhuốm màu đỏ quạch xuống các rặng tre, thì rất có thể gặp được giáo sư Thanh! Giáo sư là con người thấp lùn, lại xương xẩu, hom hem... rất có dáng của một người ăn mày. Dáng đi của ông như bay, chân không chạm đất như những cảnh chiếu chậm trong phim quảng cáo. Đầu cúi xuống đầy vẻ suy tư, hai tay cậu ôm lấy cái gì đó dưới bụng, có khi là bơ gạo, bọc sắn luộc, vài quả đậu đũa, mà cũng có khi chẳng có gì, giáo sư vẫn giữ chặt chẽ, cẩn thận. Và giáo sư Thanh vừa đi vừa máy mồm, như đang nhẩm một công thức, một phương trình hay một luận đề phức tạp, rất nhỏ. Nhưng chính tai tôi đã nghe thấy ông chửi, chửi ông anh rể tàn bạo đẻ toàn con gái, được mỗi một mụn con trai thì lại lác mắt, ông chửi con gà lao vào chân ông, ông chửi cái thằng đã giành mất của ông cái đầu gà lở toe toét, nham nhở từ năm bốn-nhăm, ông chửi cái mô đất suýt làm cậu ngã, vấp cái ngón chân trỏ đã bị mù vào, đau quá, đâu quá... Tuy nhiên, tôi chưa thấy ông chửi tôi, hay bất kỳ một người nào trong gia đình chúng tôi, dòng họ chúng tôi.
Khác với dân làng Sơn Cốt, anh em chúng tôi gọi giáo sư Thanh là "cậu giáo", sở dĩ chúng tôi gọi bằng cậu, có lẽ vì ông ngoại tôi với bố cậu Thanh cũng là dân ngụ cư đến sau, không có ruộng, ông tôi làm thợ bạc, còn ông già giáo sư là người làm mướn, hay đến trú rét nhờ cáo bễ thợ bạc phì phò của ông. Giáo sư chỉ co một người chị gái và cậu gọi mẹ tôi là chị. Khi hoà bình, cậu cũng là xã viên, cũng lấy vợ, cũng ly dị về nhà ở nhờ nhà chị gái. Một sự không ăn ý nào đó, cậu đi lang thang trong làng, và cuối cùng, lại đến ở nhờ trong nhà tôi.
Cậu giáo là người đã từng đi ăn mày có thâm niên. Cậu đã kể cho chúng tôi nghe những chuyện mà cậu đã trải qua, đã nghe được trong những năm đi ăn mày. Đàn ông thế nào, đàn bà ra sao, cán bộ, bộ đội, mụ hàng cơm, bà hàng xén, tất tần tật cái gì cậu cũng có thể kể ra vanh vách, lại có phần khúc chiết, đoan trang. Tôi vô cùng khâm phục vốn sống của cậu, thậm chí phát thèm lên vì những mảnh bánh mỏng dính nằm trong kẽ lá gói bánh, cái vị thơm nồng, béo của khúc xương đầu gối đùi gà luộc đã trải qua một đêm trong sọt rác, cái giấc ngủ mê mòng trên manh chiếu rách vỉa hè ngậy mùi nước đái...
Xin lỗi bạn đọc, tôi đã đùa! Không, không phải tôi, mà chính là dân làng Sơn Cốt chúng tôi đã đùa, khi dùng hai danh hiệu đáng kính là Cụ Đồ và Giáo Sư để gọi hai con người khốn khổ không biết chữ là ông Nham và ông Thanh! Không biết xuất phát từ đâu, từ ai đã phong hai cái danh hiệu đó? Tôi nghi ngờ bố tôi, ông có nỗi buồn, có nỗi thất vọng mà chỉ sau khi bố tôi chết, tôi lớn lên và già đi tôi mới phần nào hiểu được, nhưng lúc nào bố tôi cũng vui vẻ. Sự rộng lòng và vẻ hài hước của ông đã được mọi người, mà nếu không phải tất cả thì cũng là cụ Nham, ông Thanh, bác Dư... thừa nhận!
Nhưng gia đình chúng tôi còn cưu mang một gia đình nhỏ nữa, một thầy giáo dạy vỡ lòng thôi, không phải ông đồ hay giáo sư, và cô con gái bé bỏng của ông. Đó là thầy giáo Hoan và con gái của thầy, chị Nga.
Thầy Hoan, trong cuộc đời tôi, thầy là một người thầy theo đúng nghĩa nhất, vừa cụ thể nghĩa đen, đồng thời lại vừa trừu tượng theo cả nghĩa bóng, mặc dù thầy chỉ dạy tôi lớp vỡ lòng, cái lớp làm quen với chữ cái, chữ i, chữ tờ, tập đánh vần và những câu chuyện cổ tích huyền bí. Hồi bé, tôi là một đứa trẻ nhát học. Những ngày đầu đến trường của tôi, không biết bao nhiêu là nước mắt đã chảy, mỗi khi nghe tiếng kẻng gọi học trò. Tiếng kẻng phát ra từ một quả bom lép treo ở nhà ông cụ Khuê, ngân nga, réo rắt một hồi sáu tiếng làm tôi hoảng sợ. Sợ học. Sợ đi học cùng với những tay học trò lớn lồng ngồng, ngổ ngáo tôi dễ bị bắt nạt, mà từ đó biến thành sợ cái tiếng "keng... keng" của quả bom.
Trong kho tàng ngôn ngữ tiếng Việt, tôi đồ rằng từ "kẻng" là một danh từ hoàn toàn mới, nó chỉ xuất hiện sau những loạt bom của đế quốc Pháp thả xuống cánh đồng, làng mạc, rừng núi Việt Nam. Đáng lẽ nó phải nổ tung để tàn phá cầu cống, nhà cửa, kho tàng, trường học, hầm hố và phanh thây xé xác con người thì lại bất ngờ có một vài quả lép. Cái quả lép ấy, được các chiến sĩ du kích quân Việt Minh tháo ngòi nổ, lấy thuốc ra dùng vào nhiều việc, trong đó có cả việc đánh lại người Pháp, thì cái vỏ của nó được dùng làm cái thứ để gõ, phát ra tiếng để báo hiệu, thông tin. Rất có thể cái âm "keng, keng" của nó mà có có tên là kẻng! Trước đó, người Việt Nam chúng ta chỉ có tiếng mõ "cốc cốc", tiếng trống "tùng tùng", và sau này người ta dùng nhiều vật phát ra tiếng khác nữa như vành (tang trống) bánh ô tô, thanh tà vẹt... nó chỉ phát ra những âm thanh ồm ồm, rè rè, buồn bã...
Cái kẻng treo ở cây mít trước cửa nhà ông cụ Khuê là một quả bom cỡ năm mươi cân, nó tròn và thuôn đẹp như một con lơn thoai, bóng nhẫy, mập mạp. Cùng với hình dáng của nó, âm thanh nó phát ra trở thành thân thuộc, đáng yêu đến nỗi không ai nghĩ nó vốn là một tên giết người dã man.
Thầy Hoan cũng dữ đòn như nhiều thấy giáo làng thời bấy giờ. Thầy có một cái roi làm bằng cành dâu, trắng phau dài độ hơn sải tay, lúc nào cũng giắt sẵn trên mái gianh để thị uy đám đệ tử mũi giãi của mình. Mỗi bài học vỡ lòng dạy chúng tôi bao giờ cũng ngắn ngủi, giản đơn và cuối mỗi buổi học, bao giờ cũng là một câu chuyện cổ tích vừa hấp dẫn, vừa ghê rợn, đầy tính răn dạy. Hình ảnh thầy Hoan đứng trước ô cửa đầy ánh nắng giả đò theo động tác của cậu Bé Tròn hái quả cho cha mẹ ăn một cách khó nhọc, cứ in mãi, lắng mãi vào trái tim non nớt của tôi...
Năm 1975, từ chiến trường trở về, tôi đến thăm thầy. Năm ấy tuy đã ngoài sáu mươi, nhưng thầy hãy còn quắc thước và đĩnh đạc lắm. Thầy sống một mình với câu chuyện buồn về người con gái duy nhất của thầy. Ngoài con chó già và một bẫu vườn chỉ có hai loài cây đơn mặt trời và ngải cứu, thầy không còn ai làm bầu bạn.
Tôi nhìn quanh ngôi nhà lợp lá cọ dặm thêm lá mía, vách đất mà mưa đã bào mòn trơ ra những thanh nứa cắm vách ngả màu bạc. Bờ vách ấy, đối với tôi chứa đầy kỉ niệm mà giờ đây, cả tôi, cả thầy Hoan đều im lặng dằn nó xuống một khoảng sâu thẳm trong đáy lòng. Sợi dây thép chăng từ một dảnh kèo nối với cây xoan đào từ lâu quá rồi, khiến cây xoan thắt một cái ngấn sâu vào tận thớ gỗ, vẫn còn đó. Tôi lặng đứng và hình dung nhớ lại trên sợi dây ấy phất phới bay một tà áo sơ mi thiếu nữ màu xanh trứng sáo tỏa ra cái mùi xà phòng nằng nặng khi chưa bén hơi người. Tấm áo ấy giờ chắc đã rách và thiếu nữ, người chủ của nó giờ đây đang lưu lạc nơi đâu? Tôi vịn tay lên thân cây xoan đào, muốn khóc quá! Nhưng thầy Hoan đã cầm con dao cùn, dụng cụ làm vườn của thầy đến sau lưng tôi:
-Bây giờ hết đánh nhau, hòa bình rồi, anh định làm gì? Thầy Hoan hỏi tôi một câu hỏi mà chính tôi cũng đang muốn hỏi thầy, và cũng là câu hỏi mà thấy mình hãy còn sống sót sau cuộc chiến tranh, tôi đã không nguôi tự hỏi mình.
Tôi làm gì ư? Quả thực trong lúc đánh nhau với quân thù, tôi và các đồng chí của mình chẳng bao giờ có thời gian, hay một khoảng trống tương tự trong lòng để đặt ra câu hỏi: hết chiến tranh anh sẽ làm gì? Câu hỏi chúng ta sẽ làm gì thì có, và có hẳn một câu trả lời tuyệt đẹp. Thế nhưng đối với mỗi con người, mỗi anh lính cụ thể thì lại không có câu trả lời cụ thể. Tôi nói điều này hẳn nhiên có người chê trách, tôi không cãi. Nhưng, một thế hệ như chúng tôi lúc bấy giờ dễ nhận ra lắm, nó chói sáng, nó lừng lững và cả nó công thần nữa. Nhưng từng cá nhân cụ thể và nhỏ nhoi, rất khó nhận ra. Anh lính chiến thắng thì có, nhưng còn anh A, anh Z, anh Bình, anh Lạc... thì khó tìm lắm, khó thấy lắm, họ đã chìm nghỉm vào trong rừng vinh quang.
Vậy là tôi sẽ làm gì sau khi chiến tranh chấm dứt vẫn là câu hỏi thường trực. Tôi đem đến hỏi người thầy thuở còn mũi giãi của mình, vì tôi tin thầy sẽ có câu trả lời đúng. Câu trả lời ấy thầy Hoan sẽ lấy ra từ những câu chuyện cổ tích, mà bao giờ nó cũng có hậu.
Quay về nghề cũ! Đó là những người có nghề, có cơ quan, có xí nghiệp. Quay về trường cũ! Là những sinh viên, học sinh đang học dở dang. Quay về cố hương, nơi chôn rau cắt rốn! Hãy nối nghiệp ông cha từ các đời Vua Hùng truyền lại, mà nhiều người trong số chúng tôi nghĩa là "theo đít con trâu", "một mái nhà tranh, một bà vợ - hoặc là lắm điều, hoặc là không nói gì - và một lũ con quanh năm đói khát, thò lò mũi xanh".
Tôi đi bộ đội trong khi đang học dở dang năm thứ ba trường trung cấp sư phạm. Nếu không có chiến tranh, nếu không phải vào quân đội thì tôi đã là một anh giáo làng dạy cấp hai, mà có ít ai ngờ được là dân "trí thức xã", cày ruộng, gieo mạ, phát bờ... còn tinh thông hơn cả cầm phấn viết bảng. Như vậy là, nếu muốn, tôi sẽ quay về trường cũ, học nốt nửa năm để tiếp tục sự nghiệp "trí thức nửa mùa" của mình. Nhưng..., ở đời này tôi thấy con người ta toàn gặp phải những cái "nhưng" oái oăm, oái oăm thôi, còn hay dở thì chưa biết, có nhiều cái nhưng may mắn kia mà. Nhưng, khi tôi trở về trường cũ thì không còn cái hệ "bảy công ba", là cái hệ mà tôi đã học. Trường đã thành trường cao đẳng, hệ trung cấp đã chấm dứt. Lúc này tôi mới hiểu ra rằng: thầy Hoan của tôi chưa từng qua một trường đào tạo nào, không trung cấp và cũng không sơ cấp sư phạm nào cả, những bài học của thầy dạy cho chúng tôi chỉ là một chút chữ nghĩa i tờ và tấm lòng mà thôi. Những con ma, những thằng quỷ và cả những ông Bụt, ông vua... trong câu chuyện cổ chan chứa tình người, là do thầy nhặt nhạnh trong cuộc đời, được rây lọc qua bao nỗi buồn vui, cay đắng. Người ta có thể trở nên người tài nhờ những bài toán đạo hàm, toán cao cấp và vật lý lượng tử, nhưng khó mà nên người khi thiếu đi những Bé Tròn và cả những thằng Cuội suốt đời nói dối ngồi gốc cây đa.
-Đồng chí về trường sẽ nhận công tác là cán bộ chuyên trách Đoàn trường. Thầy Ninh dạy sử tôi năm thứ ba, giờ là trưởng phòng giáo vụ nói với tôi như thế.
-Thưa thầy, em muốn được dạy học...
Dĩ nhiên là thầy Ninh và cả nhà trường khó có thể đáp ứng nguyện vọng của tôi, dù lúc ấy tôi đang là một công thần, có Huân chương trên ngực áo quân phục.
Tôi không kể cho thầy Hoan nghe câu chuyện trên, mà chỉ nói:
-Thưa thầy, cháu sẽ... về quê!
-Làm gì?
Tôi im lặng, bởi vì vừa không muốn trả lời thầy, vừa không thể trả lời được. Thầy tiếp:
-Làm ruộng thì anh có làm được không? Một thứ lao động truyền đời, bán lưng cho trời, bán mặt cho đất. Không, tôi không nói đến cái gian khổ, gian khổ đối với anh chắc không thiếu. Tôi nói đến cái sự tù túng, quẫn bách của thói nhà nông hãnh tiến. Làng này anh thấy chứ? Giàu có như ông Sử Quốc cũng có bao giờ dám bỏ ra năm đồng để mua một đôi pin không hay là lại phải chạy vạy, chầu trực để được phân phối. Chuyện cũng nực cười, thấy tôi bỏ ra năm đồng mua đôi pin Con Thỏ của bà hàng xén, ông ấy nhìn tôi kinh ngạc: Ông giáo mà cũng phải mua ở đây à? Tôi hỏi lại: Thế mua ở đâu? Mậu dịch không bán cho tôi vì tôi không có phiếu đài cán bộ, muốn soi con gà con qué, con rắn con rết... thì phải ra đây mới có. Ông ta lặng im và rồi chỉ nửa ngày sau cả cái làng này biết tôi "dám" bỏ ra năm đồng để mua đôi pin Con Thỏ!
Tôi cười hơi có cái vẻ hiểu đời, nhưng không phải là vô lễ với thầy Hoan:
-Năm đồng là to lắm rồi, thưa thầy!
Bất ngờ thầy đổi giọng:
-Hay là đi buôn? Quê ta cũng có nghề đi buôn đấy! Nhưng muốn đi buôn phải có hai điều kiện, mà ở anh tôi nghĩ không có...
Tôi chăm chú chờ đợi thầy Hoan giải thích tiếp, nhưng thầy chỉ im lặng. Tôi đành vô phép hỏi với giọng sốt ruột:
-Thưa thầy, hai điều kiện đó là gì ạ?
-Một là phải học dốt. Hai là phải biết nói tục! Thầy nói một cách nghiêm túc. Nói tục thì có thể rèn mãi cũng thành. Chứ còn học dốt thì khó đấy... Khó không kém gì học giỏi đâu!
Trong cuộc đời ngắn ngủi của con người ta, tôi nghiệm ra rằng có những điều mà mình chỉ nghe một lần thôi, để rồi không tin không được, nhưng tin thì lại không biết vì sao mình tin, không hề có cơ sở khoa học, nó y hệt như một tôn giáo mầu nhiệm. Cái điều thầy Hoan nói với tôi hôm ấy, tôi cũng láng máng tin là đúng bởi những trải nghiệm của mình, nhưng rồi hơn mười năm sau khi vào học Khoa thương mại, trường Đại học kinh tế thành phố Hồ Chí Minh tôi mới tin là thật. Vị giáo sư - tiến sĩ giảng bài marketing đưa ra cho chúng tôi một công trình trắc nghiệm của người Mỹ, xem anh có phải là nhà kinh doanh giỏi không, bằng một loạt các câu hỏi trắc nghiệm, trong đó có câu: "Khi còn đi học ở bậc phổ thông, anh học có xuất sắc không?". Nếu trả lời vào ô "có" anh được ba điểm; còn ô "không" anh được tám điểm!
Tôi không hiểu sức học của mình tới tầm cỡ nào, nhưng thường thì tôi không có điều kiện học bài ở nhà, mà chủ yếu tiếp thu trên lớp. Nhưng may mắn thế nào đó mà tôi vượt qua được tất cả các kỳ thi, để rồi được tuyển vào đội học sinh giỏi của tỉnh đi thi toàn miền Bắc (lúc ấy gọi thế vì chưa thống nhất đất nước). Đến đây thì tôi không vượt qua được, nhưng như thế thì cũng là vinh quang lắm rồi. Vinh quang cho làng tôi, cho trường tôi và họ hàng tôi. Chú tôi bảo: thằng này có thể học được tới tiến sĩ! Nhưng... (lại nhưng), cái ngày mà bọn bạn tôi lên huyện nộp đơn xin vào học cấp Ba, thì chúng gặp tôi trên đường gánh phân ra đồng!


ĐOẠN 13

Đang dở tay với mấy cái cọc bên bờ dậu, lúng túng thế nào để cái lạt cật cứa ngang lòng bàn tay, máu ứa ra, buốt xót, Tĩnh vào sân, quăng con dao lên hè, vào nhà, nằm vật ra giường. Bà cụ mẹ anh đang ngồi xếp lại mấy thứ lặt vặt, cũ kỹ, trong cái làn mây, thấy con trai thở dài thì nhìn lên, ái ngại. Cụ định nói một câu gì đó, nhưng nghĩ mãi chẳng ra. Khuyên nó mãi cũng chẳng nổi. Mắng nó rồi cũng chẳng thấy xiêu. Nhất là sau chuyến ngược bè về, tiền nong có được vài chục đưa hết cho mẹ rồi không đi nữa. Bà cụ hỏi ông Thuần, thì ông ấy cũng chẳng nói thật:
- Bè giang cực lắm cụ ơi! Sức chú ấy trông thế nhưng còn yếu lắm. Ở chiến trường bao nhiêu năm, còn gì là người. Chuyến này để cho nó ở nhà…
Ở nhà là phải rồi, mấy sào ruộng thằng anh nó san bớt cho, hai mẹ con cũng đủ rau cháo. Nó không nói gì, cứ hơn hớn theo bè ông Thuần. Những chuyến trước chẳng sao, nhưng mà chuyến này về thấy được ít quá, hay nó chán?
Cũng chẳng phải thế! Chắc cần tiêu nên nó mới giữ lại, chứ mấy lần trước mỗi chuyến đi về cũng có ngót trăm bạc, lần này nó đưa cho bà có ba chục. Công của nó, của của nó, bà nhận là giữ hộ cho nó thôi, chứ bà thì tiêu gì! Nhưng mà thấy nó đưa ít, bà cũng nghĩ. Đúng rồi, đàn ông con trai, chưa vợ con cũng phải có bạn bè, điếu thuốc, hớp nước…
Têm miếng trầu, vét tí thuốc lào nhét vào chân răng, bà cụ toan vào giường hỏi nó làm sao, thì đã thấy Tĩnh lò dò ra:
- U cho con xin tí thuốc lào!
- Mày làm sao? Hay lại tập tọng hút thuốc lào…
- Đây này… Tĩnh chìa bàn tay rớm máu ra. Con cầm ngang cái lạt mà nó sứac thế.
Bà cụ vội vàng lấy nắm thuốc lào nhét vào vết đứt ngang lòng bàn tay:
- Mấy hôm nay mày làm sao thế? Đi rừng đi búi mà hấp hoảng thế này thì có ngày chết đấy con ạ. Tao thấy ghê quá.
- Thì con đã bỏ rồi đấy thây! Tĩnh cười.
- Ừ thì bỏ quách đi. Tao thấy nhà ông Thuần đấy, cả đời lặn lội cũng có hơn ai? Gốc mình là chân đồng chiêm, bì sao nổi với san tràng, rừng rú …
Bà cụ lấy miếng giẻ quấn vào bàn tay cho con, ái ngại:
- Thôi cứ nghỉ ít bữa, mai u bảo thằng bố An nó san cho mảnh ruộng ngoài Cầu Đá mà làm. Hai mẹ con mình thì chừng ấy cũng đủ ăn…
- U này…! Tĩnh đột ngột cắt ngang lời mẹ. U có còn tiền không?
- Thì mày đưa bao nhiêu tao vẫn giữ chứ có tiêu cái gì đâu mà con hay hết.
Tĩnh ngạc nhiên:
- Thế u lấy đâu ra tiền mà mua mắm muối, cái ăn cái mặc?
Bà cụ cười phô hàm răng đen nhưng nhức:
- Tao khắc có. Mày cần tiêu bao nhiêu thì cứ nói, u đưa cho mà tiêu.
- U không được lấy của anh chị An đâu đấy. Anh chị ấy còn một lũ con, lít nhít thấy phát sợ.
- Tiên nhân bố anh, một con, một của, có gì mà sợ. Còn anh đấy, thế có định lấy vợ, đẻ con không hay lại sợ?
Tĩnh cười:
- Sợ thì con không sợ, nhưng mà lấy ai… Người con thích thì u không ưa. Mà cái cô u thích thì con lại thấy nó làm sao ấy…
- Tao không ưa bao giờ? Bà cụ nhìn con, cười để rơi mấy giọt nước trầu ra áo. Thôi được rồi, bây giờ anh cứ việc thích thì lấy, ai cũng được, tôi không cản. Đứa nào con thích là u thích!
Nhớ hồi mới về, Tĩnh cũng hăng lắm. Lúc ấy bộ đội ở Nam ra rất có giá, thành ra lấy vợ cũng cứ như phong trào. Thi đua anh này với anh kia, chị này với cô nọ. Suýt thì Tĩnh cũng đã lấy cái cô Hải con bà hàng nước ngoài đầu sông. Cũng chỉ vì anh tuếch toác, nói năng không giữ ý, làm bà ấy giận. Cô Hải thì không đẹp mà cũng chẳng xấu, lấy nhau để đẻ con thì được, nhưng mà yêu thì… Giận thì cho giận luôn. Tĩnh cứ nhơn nhơn, sống “cá thể”, chẳng chịu theo phong trào. Thế rồi, phong trào tạm lắng, có đôi hạnh phúc, sung sướng, có cặp an phận chịu đựng lẫn nhau. Nhưng cũng chỉ ba bốn năm sau, có anh chị đưa nhau ra toà, nhẹ hơn thì chồng dắt tay vợ về trả cho ông bà nhạc. Buồn thật… Tĩnh thấy buồn cho tình đời, chung quy cũng chỉ tại nghèo khó. Ấy thế nhưng cả làng cứ thấy Tĩnh cười hơ hớ. Bí chân anh theo ông Thuần lên rừng…
- Con kể u nghe chuyện này nhá. Nghe được hay không thì u cứ nói ra, chửi con cũng được.
Bà cụ nghĩ ngay đây không phải chuyện đùa của con trai. Nó đã ngoài ba mươi, cái đùa cũng không phải là thứ bông phèng, hôn xược. Với lại nó đã nói “u chửi cũng được” thế có nghĩa là nó đã nghĩ kỹ.
- Con cứ nói xem nào! Bà cụ nghiêm giọng.
Thấy Tĩnh đắn đo mãi, bà phải giục:
- Khó nói lắm hả con? Cứ nói đi, u nghe đây…
Tĩnh bắt đầu kể về chị Nga. Anh kể hết, nhưng khổ nỗi, anh cũng chẳng biết gì nhiều về chị:
- Một cô giáo cấp hai, chồng đi B đã hy sinh, có một đứa con trai hai tuổi. Cuộc sống cơ cực và dư luận độc địa khiến cô ấy phải bỏ nhà bế con ra đi. Cái buổi chiều trên mảng và cái đêm ở nhà ga, con thấy cô ấy là người mà chưa từng gặp… Một phụ nữ biết vì người khác và dám sống vì người khác…
“Thế là nó đã phải lòng người ta rồi”, hèn nào nó ăn nói văn hoa như thế, bà cụ nghĩ thầm trong bụng. Rỗ khổ, gần thì chẳng bén duyên cho, xa xôi cách trở… Thương con, muốn che chở cho con không ai bằng người mẹ, dù là một nông dân, nhưng bà cụ rất thấu hiểu lòng con…
- Bây giờ mẹ con cô ấy ở đâu?
- Con cũng không biết đích xác. Con chỉ biết cô ấy bế con ngược lên Phú Thọ, mà thằng bé thì đang ốm.
Bà cụ không nóing cảm thấy được phần nào an ủi. Ừ thì ra ta cũng đã làm phúc…
- Nếu cháu còn nặng thì tôi khuyên anh chị chưa nên ra tàu.
- Vâng! Xin các anh cho cháu nghỉ nhờ đến khi có tàu ngược. Chuyến tàu sau, chắc khỏi phải mua vé, các bác cho cháu lên nhé!
Người cán bộ áo xám nhìn Tĩnh khinh khỉnh:
- Vé chuyến nào đi chuyến ấy.
- Nhưng mà hãy còn nguyên, chưa xé. Tĩnh giải thích.
- Làm gì có chuyện. Lên tàu nhân viên nó tống xuống chứ yên với nó đấy…
Tĩnh đuối lý:
- Vậy cũng được! Thế là lại mất toi hai đồng. Mấy giờ mới lại có tàu hả bác?
- Sáng mai mới có tàu. Rồi ông ta lầu bầu: “Thế thì còn ngủ nghê chó gì”.
Tĩnh đã nghe thấy, và dường như ông ta lẩm bẩm cũng cốt để Tĩnh nghe thấy. Anh mỉm cười vì được dịp trêu tức ông ta;
- Làm nghề đường sắt như các bác vất vả thật. Mất ăn, mất ngủ, mà dễ có mấy ai thông cảm…
- Thì đấy! Ngày cũng như đêm…
- Nhưng mà các bác cũng có cái sướng. Vi vu suốt, nhỉ?
- Suốt đời chết dẫm ở đây, anh bảo đi đến đâu mà vi vu?
Tĩnh thân mật:
- Bác bảo thế nào chứ, cán bộ ngành đường sắt là có quyền lợi lớn lắm. Chả biết chỗ các bác đây thế nào, chứ ở Hà Nội, hay trong Nam, mỗi người hàng năm có vé đi tầu suốt không mất tiền…
Ông cán bộ áo xám bỗng trở nên linh hoạt:
- À, cái đó thì có. Năm nào tôi cũng có suất. Nhưng mà năm vừa rồi… túng quá, bán lại cho người ta!
Nghề nào cũng có cái cực, cái khổ của nó, Tĩnh nghĩ. Nhưng mỗi nghề cũng có cái hậu của nghề. Anh nhớ hồi từ miền Nam ra, dân tình xếp hàng đăng ký mua vé cơ khổ. Có người xếp hàng cả chục ngày trời mà vẫn không mua được vé. Những nhân viên nhà ga tách từng nhóm xếp hàng đầu lùa hành khách như lùa gà vịt vào trong phòng, có rào lưới mắt cáo kín mít để… xếp hàng tiếp. Tĩnh cũng ở trong số đó, quần áo bật cúc, tơi tả, mồ hôi đầm đìa như thú vật. Ấy thế nhưng tất cả những nhân viên ngành đường sắt trong cả nước, từ cán bộ lãnh đạo, đến anh công nhân, chị cấp dưỡng… đều được ưu tiên hai “giấy đi tàu” (hai giấy, một công chức đường sắt và một người thân), không những không mất tiền mà còn không phải xếp hàng. Đúng là một người làm quan cả họ được nhờ! Cái thời quan quyền đáng nguyền rủa. Vậy mà hễ cứ có dịp là hạch sách!
- Mẹ kiếp! Tĩnh bất thần đập tay xuống ghế, quát to.
Người cán bộ đang lơ mơ, giật mình:
- Anh chửi cái gì?
Tĩnh lúng túng:
- Dạ không! Là nhỡ mất chuyến tàu…
Hình như quá bức xúc vì bị chiếm mất căn phòng, ông ta nghĩ ra một kế:
- Từ đây vào thị trấn hơn cây số, có bệnh viện huyện. Thằng bé có vẻ nặng đấy. Hãy cho cháu vào đó khám, điều trị.
Chị Nga nãy giờ vẫn đứng ngoài sân, vì căn phòng quá nhỏ, giờ len vào ngồi thụp xuông chân giường, hai tay nắn chân thằng Hận.
- Không cần phải vào viện đâu, anh ạ. Chắc nó sốt nóng rồi cũng khỏi thôi.
Thế nhưng, lời khuyên của ông cán bộ nhà ga đã đúng. Thằng Hận đã sốt lính bì, liên tục kéo dài hơn một tuần lễ. Tất cả số tiền chị Nga dành dụm cùng với số tiền kiếm được trong chuyến xuôi mảng đã đổ vào cho nó. Tại bệnh viện huyện, đến ngày thứ tám, chị Nga phải năn nỉ các thầy thuốc cho nó xuất viện, vì nếu ở lại chị Nga sẽ không còn tiền.
Thằng Hận sống được là nhờ một phép màu. Nhưng sau trận sốt ly bì đó nó trở thành một đứa trẻ khác. Nó bắt đầu lớn nhanh như thổi, không bệnh tật và hầu như cũng chẳng biết khóc. Nó chỉ cười, và cười một cách vô tư, hồn nhiên, không cần lý do. Nhưng đó lại là một điều may mắn cho chị Nga. Trong những ngày đầu đặt chân lên đất Phú Thọ, chị bế nó đi kiếm ăn, tìm việc, nó là đứa trẻ rất ngoan, không gây phiền nhiễu gì cho mẹ. Và vì thế, nó được mọi người không ghét bỏ.
Chia tay mẹ con chị Nga ở nhà ga đêm ấy, Tĩnh lặng lẽ xuôi tàu về quê. Lòng anh bịn rịn và đau đớn khi phải xa mẹ con chị Nga. Anh nói với chị Nga một, nhưng nói với lòng mình mười rằng: “Tôi không bỏ mẹ con Nga đâu! Tôi sẽ đi tìm!”.
Câu chuyện của chị Nga ở Phú Thọ là một chuỗi những đắng cay. Đôi lúc, chị đã bất lực, quay đi mắc núi trở lại mắc sông. Không thể quay về được nữa. Cái thị xã nhỏ bé toàn nhà lá này, không ai biết thầy giáo Hà Đức Hoan.
Một buổi chiều mùa đông giá, hai mẹ con chị Nga đánh liều vào một cửa hàng ăn uống quốc doanh. Ở đây người ta dễ dãi, để cho hai mẹ con chị ngồi vào bàn mà không hề hạch hỏi. Cái của hàng ăn uống này bán theo phương thức xếp hàng. Nghĩa là người mua cần người bán, chứ người bán không cần người mua. Vậy thì chị Nga cũng chẳng phải là người cần mua. Cứ ngồi đấy mà đợi, chẳng ai ỏ ê đến đâu mà lo. Nói vậy thôi, chị cũng đứng dậy cúi khom lưng vào cái cửa sổ tò vò mua một bát phở “không người lái” với giá năm hào cho thằng Hận. Nó ăn ngon lành, chị Nga húp phần nước với một cái bánh mì cứng như đá, giá hai hào. Ăn xong thằng Hận gà gật rồi ngoẹo đầu lên đùi chị mà ngủ. Ngoài kia lất phất mưa bay, sụt sùi bùn vữa trên con đường vắng bóng người đi. Gió bấc ù ù thổi trong những tàu lá cọ, thỉnh thoảng lại rú lên những âm thanh tần số cao như tiếng rít của con mèo lên cơn giận dữ. Và trời dần ngả vào đêm. Mùi than đá bay phảng phất gợi lên một căn phòng ấm cúng.
- Này chị kia! Tiếng một người đàn bà lạnh lùng ngay sau vai chị Nga, khiến chị giật mình. Chị ngoảnh lại, bắt gặp cái nhìn đầy vẻ chủ nhân của người đàn bà.
- Dạ, chị gọi em.
- Chị chứ còn ai. Tối rồi, ra ngoài cho chúng tôi đóng cửa!
Chị Nga nhìn thằng con đang ngủ say, không nỡ đánh thức nó, ngẩng lên nói với bà chủ cửa hàng:
Đã xem 90233 lần.

Đánh máy: Phụng Hoàng
Nguồn: Phụng Hoàng
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 3 tháng 8 năm 2006


© 2006 - 2024 eTruyen.com