Vẫn trong điện Uy-viễn. Thủ-Huy hỏi Tăng Khoa: - Tăng tướng quân! Tại sao tướng quân chưa cho quân tiến vào Hoàng-thành? - Trình Thái-úy, khi tiểu tướng xua quân vào, thì Thái-sư Tô Hiến-Thành ra ngăn lại. Người ban một chỉ dụ của hoàng-thượng, bắt tiểu tướng phải trao binh quyền cho Mạc Hiển-Tích rồi vào bệ kiến. Tiểu tướng trả lời rằng, quân luật bản triều rất nghiêm, muốn tiểu tướng bàn giao thì phải có sự hiện diện của Thái-úy. Tô Thái-sư lệnh cho Mạc Hiển-Tích dàn quân, sẵn sàng chống lại, nếu tiểu tướng cho quân tiến vào Hoàng-thành. Tuy nhiên tiểu tướng đã cho bao vây Hoàng-thành bằng kị binh, thị vệ, và cấm quân. Thủ-Huy hài lòng về người em kết nghĩa tinh, minh, mẫn, cán, và trung thành: - Hiện trong Hoàng-thành, Hiển-Tích có bao nhiêu binh sĩ? - Hiệu binh Sơn-Nam có bốn sư, thì tiểu tướng đã giải giới hai sư. Còn hai sư, khoảng hai nghìn rưởi người. Tiểu tướng đành chờ Thái-úy về quyết định, nên đánh vào hay không? Bởi nếu tiến quân vào, hai bên giao tranh, khó mà bảo toàn được sư an nguy của Hoàng-thượng, Hoàng-hậu, các phi tần, công chúa. Thủ-Huy hỏi Nghĩa-Thành vương: - Xin hoàng-thúc ban chỉ! Nghĩa-Thành vương hỏi Kiến-Ninh vương: - Cháu nghĩ sao? - Cứ như Tăng phu nhân cho biết, thì anh Long-Xưởng của cháu lành ít dữ nhiều. Cái khó là không biết phụ hoàng, mẫu hậu các cung ra sao? Nếu như việc dàn quân là ý của phụ hoàng, thì ta không thể xua quân vào. Tăng Khoa hỏi: - Không biết việc công chúa Đoan-Nghi với hai tỷ tỷ Phương-Lan, Kim-Ngân nhập Hoàng-thành hiện ra sao? Thủ-Huy đang trì nghi, chưa quyết, thì thân binh báo: - Có ngự-y Trần-thị Phương-Thanh xin cầu kiến. Thủ-Huy vội đứng lên ra đón vào. Lễ nghi tất. Thủ-Huy hỏi: - Thưa phu nhân. Phu nhân đã có mặt tại cung Tuyên-phi. Phu nhân đã khám nghiệm các tử thi, phu nhân có nhận xét gì? Phương-Thanh trầm ngâm một lúc rồi nói: - Vừa nhìn sáu thái giám bị giết, tôi thấy rõ họ bị đánh bằng chưởng lực Hoa-sơn. Người đánh phải có nội công cao thâm hơn sư phụ của tôi. Bởi mỗi chiêu đánh ra khiến nạn nhân không bị vỡ đầu, thì cũng bị dập ngực, hoặc gẫy đôi người ra. Còn hai cung nữ thì bị giết bằng võ công Đông-A. Thủ-Huy kinh hãi: - Phu nhân nói sao? Họ bị chết vì võ công Đông-A ư? - Đúng vậy. Một người chết vì chỉ lực, dường như là chiêu Phong-xuyên hoa lạc. Một người chết vì Bức-mạch chưởng, dường như là chiêu Đông-hải lưu phong. Kiến-Ninh vương hỏi lại: - Phu nhân có chắc thế không? Phương-Thanh thản nhiên: - Vương gia ơi! Trong thiên hạ này chỉ có võ công nội lực của phái Hoa-sơn là khi đánh trúng đối thủ, mới khiến cho đối thủ như bị đá đập vào người, thịt xương dập nát ra mà thôi. Tử thi sáu thái giám đều bị dập thịt, gẫy xương cả. Thủ-Huy gật đầu: - Phu nhân luận đúng. Còn thương tích hai cung nga? - Gốc của võ công Đông-A do Thiền-công rồi biến đổi đi. Tuy vậy căn bản vẫn không mất. Trong thế gian này, duy Đông-A chỉ là khi đánh trúng người, mới khiến cho người đó cảm thấy cực kỳ sảng khoái mà chết. Cung nữ bị trúng chỉ nằm chết, mà mặt rất tươi, môi còn nở nụ cười. Còn một cung nữ nữa bị giết bằng chiêu Đông-hải lưu phong, dùng nội công Bức-mạch, bao nhiêu mạch máu vỡ ra mà chết. Thủ-Huy gật đầu khâm phục. Công hỏi: - Còn Tuyên-phi với hai cung nữ bị thương thì do võ công môn phái nào? - Cả ba người chỉ bị thương nhẹ, mặt sưng, chân tay bầm mà thôi. Kết lại có hai cao thủ hiện diện. Một cao thủ Hoa-sơn, công lực cực kỳ cao thâm, người này giết sáu thái giám. Một cao thủ bậc trung phái Đông-A, người này giết hai cung nữ. Thế nhưng Tuyên-phi với Thạc-hòa Anh-văn phu nhân lại khai là mình Thái-tử đã ra tay. Nếu bảo rằng Thái-tử giết hai cung nữ thì tin được, vì người cũng luyện võ công Đông-A, công lực hung thủ ngang ngang với Thái-tử. Còn hung thủ giết sáu thái giám, thì chỉ... thì chỉ sư bá Tự-Hấp mới có công lực, chưởng lực Hoa-sơn đến trình độ đó mà thôi. Tăng Khoa cãi: - Thưa đại phu, sư bá Tự-Hấp là một đại tôn sư võ học, người đâu có ra tay giết bọn thái giám không biết võ công? - Quân hầu đừng nghĩ lầm. Tôi chỉ ví von thế thôi, chứ tôi đâu có kết luận rằng sư bá Tự-Hấp làm việc đó? Một điều tôi kinh ngạc nữa nhưng không nói ra là, sáu thái giám hai cung nữ bị giết đều là người của Đông-cung. Vú Loan giật bắn người lên: - Đại phu nói sao? Họ là người Đông-cung ư? - Đúng vậy, bởi khi tuyển thái giám cung nữ cho Đông-cung, chính tôi đã khám bệnh họ. Tôi nhớ cả tên họ nữa kia. Thủ-Huy đứng dậy: - Như vậy là Tuyên-phi phục sẵn người hại Thái-tử. Sau khi hại Thái-tử với vương phi, Như-Như, chúng ra tay giết sáu thái giám, hai cung nữ tùy tòng, rồi đổ cho Thái-tử. Kiến-Ninh vương đập bàn nói với Nghĩa-Thành vương: - Thưa chú, cháu không chịu được nữa rồi. Cháu quyết xua quân vào Hoàng-thành giết chết hai con ác phụ Triệu Mai-Hương với Vương Thụy-Hương rồi muốn ra sao thì ra. Thủ-Huy nắm tay ông anh vợ! - Hãy bình tĩnh. Nếu chọn đường lối xua quân, thì dễ quá rồi. Ngặt vì nécái tình của thuộc cấp đối với thượng cấp ra, các vị ấy còn có cái hiếu giữa đệ tử với sư phụ nữa. Có phải thế không? - Vâng. - Ví thử bây giờ Thái-tử Long-Xưởng với chú hoặc bị giết, hoặc bị mất chức, thì họ cũng có thể bị giết hay bị mất chức. Có phải thế không? - Vâng. - Chú có thể đem đầu về dâng lên cho cô tình nhân cũ là Thụy-Hương chặt, để nàng vui lòng. Nhưng chú không có quyền để cô ta chặt đầu bằng này tinh hoa của Đại-Việt. Không thể để vợ, con họ bị chặt đầu chỉ vì họ có tấm lòng son, muốn khôi phục đất tổ mà theo Thái-tử với chú. Phương-Lan hỏi chư tướng: - Các vị có đồng ý đem đầu cho Tuyên-phi Từ Thụy-Hương chặt không? Tất cả đều trả lời: - Không. Phương-Lan nói thực chậm: - Bây giờ chú phải làm ba việc. ...Một là, ban lệnh cho các đô đốc, các tướng thống lĩnh Thiên-tử binh, các tướng thống lĩnh các hiệu binh địa phương rằng: Vì sự an nguy của xã tắc, vì sự sống còn của các vị ấy. Các vị ấy một mặt giữ vững quân lữ, nhất nhất chỉ tuân theo mệnh lệnh của chú mà thôi. Bất cứ trường hợp nào, dù có chỉ dụ của nhà vua sai người đến thay thế, cũng không được bàn giao cho người khác. ...Hai là, chú cùng chư vương, công chúa đem quân về Thăng-long, đóng ngoài thành để dương oai. Còn chú, thì chú dẫn chư vương, công chúa vào thành xin yết kiến phụ hoàng, mẫu hậu, rồi điều tra cho ra sự thực vụ Thái-tử Long-Xưởng cưỡng dâm Tuyên-phi. ...Ba là, sau khi điều tra xong, chú bắt giam toàn thể chính phạm, tòng phạm, gia quyến bọn vu oan, mưu hại Thái-tử, mưu hại các vị điện hạ đây đem giết ngay. Chú không cần chỉ dụ của phụ hoàng, lấy cớ rằng, tướng cầm quân có toàn quyền xử tử tội phạm mà không cần lệnh vua. Điều quan trọng là phải giết ngay, nếu để chậm trễ, e không phụ hoàng thì cũng Thái-tử Long-Xưởng dùng quyền ân xá cho chúng, thì mèo lại hoàn mèo. Thủ-Huy là người thông minh, trí dũng có thừa. Chẳng may bị dằng co giữa đạo hiếu, chữ trung với lý trí mà thiếu minh mẫn trong chốc lát. Bây giờ được Phương-Lan mở lối cho, tính cương quyết trở lại. Công cầm kiếm lệnh để lên bàn, rồi nói: - Cứu binh như cứu hỏa. Nếu chúng ta chậm trễ một ngày thì Từ Thụy-Hương với bọn Tô Hiến-Thành có thể khống chế gia đình chư tướng, cùng giết hết người của Đông-cung. Ta phải hành động ngay. Chư vương, các tướng cùng thở phào nhẹ nhõm ; họ ngồi ngay ngắn lại chờ lệnh. Thủ-Huy rút lệnh bài trao cho Tăng Khoa: - Từ đây về Thăng-long, chỉ có năm giờ sức ngựa. Vũ-kị thượng tướng quân Tăng Khoa đem hiệu binh Phù-Đổng, phi bất kể ngày đêm về Thăng-long. Về tới nơi thì bắt liên lạc ngay với phụ thân. Phụ thân đem thị vệ đánh chiếm Hoàng-cung. Cấm quân thì đánh chiếm các điện thuộc Kinh-thành. Tướng quân phân binh ra, một nửa trấn giữ các cửa thành. Một nửa chiếm Khu-mật viện, các cơ sở thuộc lục bộ, thuộc phủ thừa Thăng-long, phủ đệ của thân vương, đại thần. Ai chống lại thì giết ngay, bất kể đó là thân vương, đại thần. Nếu lúc đó có chiếu chỉ ban ra bắt rút binh, thì tướng quân trả lời rằng tướng quân chỉ biết tuân lệnh Thái-úy. Tăng Khoa đứng lên đi liền. Thủ-Huy ra lệnh cho Kiến-Ninh vương: - Vương tức tốc sai chim ưng mang lệnh cho hạm đội Âu-Cơ dàn ra lãnh hải Hoa-Việt phòng Tống nhân ta có nội chiến, rồi tràn sang xâm chiếm. Lại lệnh cho hạm đội Thần-phù dàn ra lãnh hải Chiêm-Việt, phòng Chiêm thừa cơ sang cướp phá. Đích thân vương đem hạm đội Bạch-đằng, Động-đình về dàn ra trên các sông-hồ Thăng-long, cô lập không cho bất cứ thuyền nào di chuyển, phòng bọn gian trốn chạy. Kiến-Ninh vương đứng dậy rời khỏi phòng họp. Thủ-Huy lại ra lệnh cho Kiến-An vương: - Vương tổng chỉ huy hiệu binh trâu Hoa-lư, bẩy hiệu Thiên-tử binh dàn ra biên giới phòng Tống sang cướp. Rồi cũng về Thăng-long. Kiến-An vương tuân lệnh, rời khỏi phòng họp. Thủ-Huy nói với Kiến-Tĩnh vương, công chúa Đoan-Nghi: - Chúng ta đem ba hiệu binh Ngự-long, Quảng-vũ, Quảng-thánh tiến về Thăng-long. Thôi, giải tán, và lên đường ngay. Thủ-Huy nói với Phương-Lan, Kim-Ngân: - Xin chị với Kim-Ngân đi theo Đoan-Nghi, ngay bây giờ lên đường, âm thầm nhập Hoàng-thành bảo vệ mẫu hậu với phụ hoàng, cùng giải cứu thái-tử Long-Xưởng. Mắt Kim-Ngân liếc ngang sắc như dao, nàng lắc đầu: - Anh có nhớ hôm ở dưới thuyền trên hồ Tây không? Hôm ấy, chúng ta mang hết tâm huyết ra giúp Long-Xưởng, thế mà ông ta nói ngang: Đây là chuyện của ông ta, để ông ta giải quyết. Oâng ta giải quyết thế nào mà lại vào nhà tù mà ngủ, rồi xã tắc nghiêng ngả thế này đây. Con người trì nghi không quyết đoán như vậy mà sau lên ngôi vua, thì cũng chỉ làm cho đất nước tan nát mà thôi. Em thấy, dường như ông ta sung sướng khi được bưng giang sơn của vua Hùng, vua An-Dương, cùng ngôi vua của họ Lý dâng cho cô tình nhân cũ là Từ Thụy-Hương, rồi đem đầu cho cô ta chặt thì phải. Hôm ấy, anh Thủ-Lý, chị Phương-Lan, Phương-Liên với em đã thề rằng: Không bao giờ lý đến triều đình nhà Lý nữa. Hôm nay, anh bảo em đi giải cứu ông ta? Em không làm đâu. Em chỉ đi theo bà chị dâu Đoan-Nghi, phòng khi bà ấy bị người ta hại, thì em cứu mà thôi. Sự nghiệp quả núi Tiêu-sơn đến đây coi như hết. Lời nói của Kim-Ngân tuy nhỏ nhưng các tướng cũng nghe thấy hết. Bất giác họ cùng đưa mắt nhìn trộm nàng, trong lòng họ nhủ thầm: - Cô này trông bề ngoài xinh đẹp thế kia, mà ai ngờ lại cứng rắn quá. Đoan-Nghi, Phương-Lan, Kim-Ngân lấy ngựa lên đường ngay đêm hôm ấy. Sáng hôm sau, các đô thống chỉ huy hiệu binh Ngự-long, Quảng-thánh, Quảng-vũ đến trình diện Thủ-Huy: - Thưa Thái-úy, quân đã chuẩn bị sẵn. Xin Thái-úy ban lệnh. Thủ-Huy trao lệnh bài cho đô thống chỉ huy hiệu Ngự-long: - Hiệu Ngư-long hiện đóng ở Gia-lâm ngoài thành Thăng-long. Đô thống đem hiệu Ngự-long đi làm tiền đạo. Khi tới bến Bắc-ngạn thì sẽ có thủy quân chở sang sông. Sang sông rồi, đô thống được đặt dưới quyền Vũ-kị thượng tướng quân Tăng Khoa: Dàn quân trấn tại các cửa thành để hiệu Phù-Đổng lùi ra đóng ở hồ Tây. Lại trao binh phù cho đô thống chỉ huy hiệu Quảng-thánh: - Hiệu Quảng-thánh hiện đóng tại lăng Quốc-tổ, rất gần Thăng-long. Đô thống đem quân đi sau hiệu Ngự-long trấn tại Bắc-ngạn, làm trừ bị. Cuối cùng công gọi đô thống chỉ huy hiệu Quảng-vũ: - Hiệu Quảng-vũ hiện đóng ở dưới chân núi Tản-viên, không xa Thăng-long làm bao. Đô thống đem hiệu Quảng-vũ trấn tại Cổ-pháp bảo vệ lăng tẩm tiên đế. Thủ-Huy, Kiến-Tĩnh vương cùng đội võ sĩ bảo vệ bộ tham mưu dùng ngựa mà đi. Đường từ Đồn-sơn về Thăng-long ước khoảng bốn trăm dặm (200 cây số ngày nay). Quân đi phải năm ngày mới về tới Bắc-ngạn. Trong khi đi đường Thủ-Huy vẫn nhận được đầy đủ tin tức của các đạo quân tường trình: - Ngay ngày 6 tháng 9 Tăng Khoa đã làm chủ Thăng-long, bao vây hiệu binh Sơn-Nam, và giải giới chúng. Tuy nhiên hiệu này còn hai sư trấn trong Hoàng-thành là chưa giải giới được, vì kị binh không được vào đó. Không có cuộc xô sát nào xẩy ra. - Ngày 7 tháng 9, hiệu Ngự-long đã tiến vào Thăng-long, hiệu Phù-Đổng lùi ra trấn ở hồ Tây. Vô sự. - Ngày 8 tháng 9 hiệu Quảng-thánh đã trấn tại Bắc-ngạn. Hiệu Quảng-vũ đã trấn ở Cổ-pháp. Trưa ngày 9 tháng 9, thì Thủ-Huy đã về tới bến Bắc-ngạn, dùng thuyền của thủy quân đưa sang sông. Công dẫn Kiến-Tĩnh vương cùng bộ tham mưu vào điện Uy-viễn là nơi đặt trụ sở Khu-mật viện. Lát sau thì Nghĩa-Thành vương, Kiến-Ninh vương, Kiến-An vương cũng về tới. Tăng Quốc, Tăng Khoa, hai đô đốùc chỉ huy hạm đội Bạch-đằng, Động-đình, ba đô thống chỉ huy ba hiệu Thiên-tử binh Ngự-long, Quảng-thánh, Quảng-vũ cũng lục tục về chờ lệnh. Nghĩa-Thành vương nổi cáu: - Cái vụ này tên Đỗ An-Di đã chuẩn bị từ lâu rồi mà ta không biết. Cách đây ít lâu, y báo cho ta biết rằng trấn Thanh-hóa gửi tấu trình về triều cáo giác viên quan phụ trách thu mua lương thực cho quân Bắc phạt tham ô, bắt dân nộp thuế nhiều quá. Y xin ta gửi người vào giải quyết. Ta ngay thực, đích thân lên đường điều tra, rồi ở nhà y hành sự. Như vậy cuộc rối loạn này phải có bàn tay của Tô Hiến-Thành, Đỗ An-Di, Từ Thụy-Hương và bọn gian tế Tống cùng hiệp nhau mà làm. Là người tính khí cương quyết, Kiến-Ninh vương hỏi Thủ-Huy: - Nhị ca! Đệ muốn nhờ nhị ca một chuyện. -??? - Hiện chị Phương-Lan, Kim-Ngân đang cùng Đoan-Nghi ẩn ở cạnh phụ hoàng, mẫu hậu để hộï giá. Nhị ca có thể gửi thêm mươi cao thủ theo ba người đó. Rồi giữalúc chúng ta cho quân tiến vào, trong trận giao tranh, các võ sĩ nhân lúc hỗn quân, hỗn quan, giết sạch đám quan lại ù lỳ, ăn hại, chuyên rình rập chống đối chúng ta không? - Việc này không khó. Thủ-Huy cương quyết: - Đám quan lại phản phúc này có tới gần trăm. Hiện chúng đang ở trong dinh thự quanh Thăng-long. Tăng Khoa đã phong tỏa các dinh thự đó rồi. Còn hiện diện trong Hoàng-thành, thì không quá mười mống. Gì chứ vụ giết mấy mống đóù, thì chỉ cần Phương-Lan, Kim-Ngân cũng đủ. Còn giết bọn còn ở nhà, thì đệ có thể nhờ đệ tử Đông-A làm được. Nghĩa-Thành vương nghe hai cháu bàn, thất kinh hồn vía, vương cản: - Không nên! Hoặc khoan đã. Phải đợi xem Long-Xưởng an nguy thế nào rồi hãy làm. Vả chúng ta với Long-Xưởng cùng chung một chí, mà ta làm ngang, e Long-Xưởng không bằng lòng. Anh em sinh xích mích. Tăng Khoa phúc trình tình hình: - Trình Thái-úy, khi tiểu tướng tiến vào Kinh-thành, nhờ có phụ thân chỉ huy thị vệ, ngự lâm quân trợ giúp ; tiểu tướng làm chủ được tình thế. Hiện đã kiểm soát hoàn toàn các phủ đệ. Đông-cung đã giải tỏa, nhưng không thấy Bùi vương phi đâu. Thần hỏi thăm mẫu thân thì được biết, vương phi cùng Như-Như tháp tùng Thái-tử nhập cung triều kiến Hoàng-thượng, rồi Thái-tử bị bắt, không có tin tức gì của hai người nữa. Thủ-Huy vốn cực kỳ kính trọng bà nhũ mẫu của Long-Xưởng. Công hỏi: - Nhu-mẫn Đoan-duệ phu nhân hiện ở đâu? - Mẫu thân đang chờ diện kiến với Thái-úy. - Mời phu nhân vào. Vú Loan vừa vào thì Thủ-Huy đã đứng dậy chào đón: - Xin phu nhân chẳng nên đa lễ. Mời phu nhân an tọa. Tiểu bối xin phu nhân cho biết thêm chi tiết gì về những hoạt động cuối cùng trước khi bị bắt của Thái-tử. - Thưa Thái-úy. Chiều ngày 1 tháng 9, Thái-tử vào cung mật tấu với Hoàng-thượng, Hoàng-hậu, về việc các gian tế Tống tiềm ẩn trung Hoàng-cung, Đông-cung và phủ Tể-tướng. Nào ngờ Hoàng-thượng đã biết rất rõ vụ này rồi. Sau đây là chi tiết cuộc hội kiến, mà thái-tử thuật với tiểu tỳ:« Hoàng-thượng ban chỉ rằng: Một tên võ sĩ như Vương Cương-Trung với sáu người đàn bà đẹp mà làm nên cái gì? Nếu họ thực sự là người của Khu-mật viện Tống, thì họ đã bỏ thuốc độc giết ta, giết Xưởng nhi, giết An-Di rồi. Ngày xưa, vua Hán vì sợ Hung-nô mà đem cung nga ban cho chúa Hung-nô là Thuyền-vu để được an mặt Bắc. Từ sau thời Anh-vũ Chiêu-thắng, ta đánh sang Tống, khiến Tống hãi ta, họ gửi người đẹp cho ta, thì tại sao ta phải bắt, phải giết nhỉ? ». Nghĩa-Thành vương và chư tướng đều thở dài ngao ngán, lắc đầu. Phu nhân tiếp: « Thái-tử trình những cuốn sổ mà phái Đông-A bắt được tại con thuyền, tổng đàn của Vương Cương-Trung, trong đó ghi chép tất cả tình hình triều đinh, quân tình do Vân-Đài Trịnh Nam-Phương, Công-Chúa Triệu Mai-Hương, Mao-Nữ Hàn Dũ-Linh, cùng ba đệ tử Vương Thúy-Thúy, Từ Thụy-Hương, Nhạc Bảo-Bảo lên Hoàng-thượng. Nàng lại nói sẽ vào tai mẹ: - Mẹ thấy không? Phái Hoa-sơn nhà mình tìm trăm phương ngàn kế phái người sang làm tế tác, để triều đình sẽ đưa quân sang chiếm Đại-Việt. Thế mà gần trăm năm qua, bao nhiêu người, bao nhiêu công, bao nhiêu sức, mà cuối cùng cũng mua lấy cái thất bại ngày hôm nay. Chính vì vậy con phải ra tay. Chỉ một cái chết của con, mà loại vĩnh viễn Long-Xưởng ra ngoài. Chỉ cần mấy năm nữa thôi, Long-Trát sẽ làm vua Đại-Việt. Trong suốt bốn nghìn năm lịch sử, nào Tần, nào Hán, nào Đường, nào bản triều, đem quân nghiêng nước sang đánh Đại-Việt, cuối cùng cũng thất bại. Nay, con không dùng kiếm, không dùng cung, mà biến An-Nam thành quận huyện của ta. Nàng nhắm mắt lại, thở hổn hển, rồi tiếp: - Nhưng con nói thực! Cái hôm bố mẹ bàn với con rằng, con phải hiến thân cho vị Thái-tử, thuộc dòng chính thống của Tống triều, hy vọng có con. Rồi tìm cách đưa đứa con đó lên làm vua An-Nam. Con tuân theo, mà lòng bất phục. Sau hai đêm liền hiến thân đó, con cảm thấy thân thể dơ bẩn, hối hận vô tả. Bởi trước sau, con chỉ yêu có một mình Thủ-Huy thôi. Còn Long-Xưởng hay ông vua kia, con không hề để vào tâm. Mẹ hãy bình tĩnh để con bắn vào tim cái ông vua đa tình này mấy mũi tên độc nữa. Với mấy mũi tên này, thì triều đại Tiêu-sơn không còn. Đến đây hơi thở của Thụy-Hương gần như muốn tuyệt. Nàng hướng nhà vua: - Thiếp biết tội quá nhiều...Trong khoảnh khắc nữa...âm dương cách trở... Không biết rồi đây, ai sẽ thay thiếp phục thị, dâng hiến những miếng ngon, vật lạ lên bệ hạ. Nhà vua quên cả mình là đấng chí tôn. Ngài nắm lấy hai vai Thụy-Hương: - Phi! Trời ơi! Làm sao bây giờ? Thình lình, Thụy-Hương lách tay nhổ thanh trủy khỏi ngực. Máu vọt lên thành vòi. Người người đều kinh hãi, quay mặt đi. Nàng rùng mình một cái, rồi từ từ nhắm mắt. Nước mắt đầm đìa, nhà vua ôm lấy Thụy-Hương, nhắc lại ý nghĩ trong tâm lúc nãy cho mọi người nghe: - Hỡi ơi! Trẫm làm chúa trời Nam, con dân biết bao nhiêu mà kể. Trong cung cấm, nào hoàng-hậu, nào phi tần có hàng trăm. Thế mà không ai làm cho trẫm vui lòng. Không ai cung phụng yến tiệc cho trẫm ngon miệng. Duy phi là người duy nhất làm cho trẫm vui, dâng cho trẫm những món ăn mà trẫm vừa lòng nhất. Bây giờ phi đã băng rồi, thì bao nhiêu tội lỗi cũng theo phi đi hết. Trẫm tuyên chỉ trước chư khanh: Trẫm ân xá cho Thái-bảo Vương Cương-Trung, ân xá cho tất cả mọi người. Aân xá cho tất cả tội nhân dù thành án hay chưa. Giai-phi Chế-bì La-bút đến trước nhà vua lạy bốn lạy: - Tâu Bệ-hạ! Thiếp nhũ danh là Hàn Dũ-Linh, trong phái Hoa-sơn thiếp là Mao-Nữ tiên tử. Quả Tống triều đã đưa thiếp sang giả làm công chúa Chế-bì La-bút. Từ ngày nhập cung, thiếp được bệ hạ ân sủng hơn bất cứ phi tần nào. Trong suốt mười mấy năm qua, tuy thiếp có lỗi đạo chúa-tôi với bệ hạ. Song chuyện chăn gối, vợ chồng thiếp không hề khiếm khuyết. Bây giờ bệ hạ ban chỉ ân xá cho thiếp về Tống. Thiếp xin bệ hạ nhận lấy tám lậy này, trước khi kẻ Tống, người Việt. Nói rồi phi lạy đủ tám lậy. Phu nhân của Tể-tướng Đỗ An-Di cũng đến trước chồng. Nàng quỳ xuống rập đầu: - Tể-tướng! Thiếp quả thực là người Tống, khuê danh là Trịnh Nam-Phương, trong phái Hoa-sơn, thiếp đứng đầu Hoa-nhạc tam nương, chưởng quản Vân-Đài lĩnh. Khu-mật viện Tống cho thiếp sang Đại-Việt với mục đích thu lượm tin tức gửi về. Thiên-Hư sư bá đã cho tiền một nhà nghèo để họ nhận thiếp làm con, rồi bán cho tướng-công. Từ ngày về làm tỳ thiếp, tướng-công sủng ái thiếp trải mười mấy năm dư. Tình nghĩa vợ chồng thực là mặn nồng. Thiếp chưa từng làm phật lòng tướng-công. Tướng-công cũng chưa từng hắt hủi thiếp. Bây giờ trước lúc ly biệt, thiếp xin tướng-công nhận mấy lậy, để tạ cái tội, thiếp đã thu nhặt tin tức của Đại-Việt gửi về Tống. Triệu Mai-Hương ( vú Mai), đến trước Thần-phi Bùi Chiêu-Dương và công chúa Đoan-Nghi, phục xuống, lậy bốn lậy, nước mắt đầm đìa: - Nô tỳ nguyên là thần dân Tống-triều. Trong phái Hoa-sơn, nô tỳ trấn thủ ngọn núi Công-chúa. Khu-mật viện Tống đã đưa nô tỳ sang Đại-Việt, ẩn thân dưới cái vỏ ca kỹ Trần Lệ-Mai, mục đích đi đường tắt, làm tỳ thiếp của Minh-Đạo vương. Thế nhưng, Minh-Đạo vương đã có vương phi Phạm-thị Thanh-Thủy. Vì vậy sư huynh Lạc-Nhạn phải ám hại vương phi Thanh-Thủy, để nô tỳ có thể lọt vào phủ của người. Thế nhưng, khi sư huynh sai Mao-Khiêm hại được vương phi Thanh-Thủy, thì cũng đúng là lúc vương bị Cảm-Thánh thái hậu với Đỗ Anh-Vũ gia hại, mất hết địa vị, thế lực. Sư huynh Lạc-Nhạn bỏ việc sắp xếp cho nô tỳ vào phủ Minh-Đạo. Bà đưa mắt nhìn Vương Cương-Trung: - Thế nhưng, con người ta ai cũng không thoát được đường tình. Đúng lúc đó nô tỳ gặp một đấng tài tử văn nhân. Chàng vốn nòi thư sinh. Thi, nhạc, họa không môn nào mà không thông. Cho hay, thanh khí lẽ hằng, nô tỳ vừa gặp người là quấn lấy nhau. Nô tỳ bỏ không hát nữa, cùng chàng ngao du bốn phương. Khi Bích-động, khi Hàm-rồng, lúc Nam-giới, nô tỳ với chàng như đôi chim liền cánh. Bấy giờ Mao Khiêm đang đắc thế trong phủ Thái-sư Đỗ Anh-Vũ. Mao đã tiến cử nô tỳ làm tỳ thiếp cho Đỗ. Sư huynh Lạc-Nhạn bắt nô tỳ phải chuẩn bị vào phủ Thái-sư, và rời người thư sinh, không có chút địa vị, không tiền tài kia ngay tức thời. Nô tỳ không tuân lệnh sư huynh. Sư huy:10px;'>
Hoàng thượng bực mình quở thái-tử: - Giai-phi, Tuyên-phi là những phi tần mà ta sủng ái nhất, là những người đầu gối tay ấp của ta. Hai người đã có con với ta. Trên danh thì là chúa tôi, trên tình thì là người ta sủng ái, trên nghĩa thì là vợ ta. Trong hoàng-cung này, ta có hàng trăm phi tần, mà không ai làm cho ta vui, dâng hiến thức ăn cho ta ngon miệng, ngoài Giai-phi, Tuyên-phi. Ta bằng này tuổi rồi, ta phải được hưởng những gì ta muốn trước khi về chầu tiên đế. Hai phi nàyï là người cực thân của ta, mà sao Xưởng nhi cứ đi nghe lời bọn vai u thịt bắp, bọn nhà quê của phái Đông-a, rồi đổ cho họ hằng trăm tội phải chết như vậy? Ừ thì cho rằng họ có tội đi, ta là chúa trời Nam, ta ân xá cho họ đấy. Kẻ nào còn bàn ra nói vào thì ta chặt đầu. Thôi ta mệt rồi, Xưởng-nhi để cho ta yên! Ngài hỏi gay gắt: - Thế còn Vương Thúy-Thúy với Nhạc Bảo-Bảo đâu rồi? - Tâu, hai vị đó hiện trốn ở Thiên-trường, nhờ phái Đông-A che chở. Hoàng-thượng nổi cáu: - Sáng mai ta sẽ ban chỉ ân xá cho Vương Cương-Trung với tùy tòng. Xưởng nhi phải cấp thuyền, lương thực cho họ để họ trở về Tống. Còn hai thiếu nữ Vương Thúy-Thúy, Nhạc Bảo-Bảo thì giữ lại. Thúy-Thúy ta gả cho Trần Thủ-Huy. Bảo-Bảo ta gả cho Thủ-Lý. Thôi Xưởng nhi lui. Quả nhiên sáng hôm sau (2-9), có chỉ ân xá cho Vương Cương-Trung với thủ hạ hơn trăm người. Khu-mật viện phải tuân chỉ thả họ ra. Họ được cấp một con thuyền lớn, đầy đủ lương thực. Nhưng bọn Cương-Trung không lên đường được, vì các sông biển bị thủy quân phong tỏa, đang Bắc tiến. Chiều ngày 3 tháng 9, Tuyên-phi sai thái giám ra thỉnh Thái-tử nhập cung, vì Hoàng-thượng se mình. Biết rằng Thái-tử với Tuyên-phi trước đây có mối dây liên hệ tơ hồng. Mà bây giờ Thái-tử vào cung Tuyên-phi giữa lúc long thể bất an thì không khỏi có chỗ tỵ hiềm, miệng thế dị nghị. Tiểu tỳ khuyên Thái-tử nên mang theo mấy thái giám, cung nga. Thái-tử khen tiểu tỳ minh mẫn, rồi người gọi vương phi, Như-Như, cùng sáu thái giám, hai cung nữ theo hầu. Tiểu-tỳ nhớ rõ bấy giờ là giờ Thân. Thế rồi sang giờ Tý (ngày 4-9) cũng không thấy Thái-tử về. Giờ Sửu thì quân sĩ đến bao vây Đông-cung, chính Thái-sư Tô Hiến-Thành mang rất nhiều người đến niêm phong. Sau hai ngày, thì kị binh của Khoa về giải giới quân bao vây Đông-cung ».