Sau những thất bại về tranh đấu chính trị, các tổ chức, hội đoàn cũng lần lượt tan rã, Mác tạm thời lánh xa những bạn bè cũ đồng thời gia đình cũng lâm vào một tình cảnh túng bấn không thể cho phép Mác làm gì khác ngoài việc lo kiếm tiền nuôi gia đình. Suốt 12 năm trời trú cư ở Luân đôn, Mác chỉ xoay sở để có thể viết báo mà nhiều khi vẫn chật vật không xoay sở nổi và khi có chỗ viết, thì lại không được như ý muốn. Tờ báo lớn độc nhất mà Mác được cộng tác là tờ New York Tribune, phát hành ở bên Mỹ. Do đó Mác không thể viết cho những thợ thuyền Anh, Pháp, Đức trước đây là độc giả của Mác. Gần một năm trời từ 1851-1852, Mác gửi 18 bài về cách mạng và phản cách mạng ở Đức cho New York Tribune đều ký tên Mác, nhưng thực ra do Engels viết hộ để cho Mác có thì giờ nghiên cứu và hoàn tất tác phẩm lớn về kinh tế. Sang năm 1853, Mác mới viết lấy, cả năm gửi 60 bài. Nhưng không phải là mọi bài đều được đăng và trả tiền. Toà báo coi Mác như một phóng viên ở ngoại quốc và được toàn quyền lựa chọn, cắt xén. Họ chỉ trả tiền Mác những bài họ đăng và cũng trả ít; nghĩ tới số phận làm báo kiếm cơm của mình, Mác viết cho Engels: “Thật là chán ngán được coi như một may mắn cộng tác với một tờ báo như thế. Nghiền xương, quấy lên để làm súp, như những người nghèo ở trại lao công; tất cả công tác chính trị chỉ còn có thế”. Tuy tiền nhuận bút thất thường và ít ỏi, nó cũng là đồng lương duy nhất của Mác trong gần 10 năm trời. Gia đình Mác đông con (4 đứa) vàng bạc nữ trang đều đã dốc hết vào nghề báo, ông bà nội ngoại lại không giúp đỡ, Mác không sao tránh khỏi cảnh túng bấn quẫn bách. Cuối năm 1850 gia đình Mác bị chủ nhà đuổi vì không trả được tiền thuê. Bà Mác viết cho Weydemeyer vào thời kỳ đó: “Tôi chỉ kể cho ông nghe một ngày của chúng tôi, không thay đổi gì, để ông thấy ít người di cư sống như thế! Vì ở đây vú em đắt lắm, tôi đành phải nuôi con lấy, tuy tôi đau nhức lưng và ngực luôn. Nhưng đứa bé bú sữa của tôi pha trộn với lo âu phiền muộn nên nó bị ốm và khóc suốt ngày đêm. Từ khi sinh nó ra, chưa bao nó ngủ được 2, 3 giờ một đêm. Trong những lúc nó đau khóc, nó bú mạnh đến nỗi vú tôi sưng vù lên, và thỉnh thoảng máu từ miệng nó chảy ra”. “Một hôm, tôi đang cho cháu bú, bỗng nhiên chủ nhà đến đòi tiền…. Và vì tôi chưa có, họ đe doạ sẽ lấy hết đồ đạc trong vòng 2 tiếng đồng hồ”. “Ngày hôm sau chúng tôi phải dọn đi. Trời lạnh, mưa phùn và xám xịt. Nhà tôi đi tìm chỗ trọ nhưng chẳng ai dám chứa khi thấy nói có những 4 cháu. Sau cùng một người bạn giúp, và tôi vội vã bán tất cả giường chiếu để trả nợ: hiệu thuốc, hiệu bánh, hiệu thịt, hiệu sữa hoảng hốt và được tin đồ đạc của tôi sẽ bị tịch thu vì công nợ…” “Ông đừng nghĩ rằng những cực khổ nhỏ nhen đó làm cho tôi ngã lòng, tôi thừa hiểu cuộc chiến đấu của chúng ta không lẻ loi, và tôi còn được số tốt vì nhà tôi luôn luôn ở bên cạnh và nâng đỡ tôi. Nhưng điều làm cho tôi tê tái thực sự đau thắt ruột lại, là thấy nhà tôi phải chịu đựng tất cả những cái nhỏ nhen đó trong khi chỉ cần một chút cũng đủ cho chúng tôi khỏi bối rối, là thấy nhà tôi không được một ai giúp đỡ trong khi anh ta vui sướng giúp đỡ mọi người. Và nhất là ông Weydemeyer ạ, xin ông đừng nghĩ rằng chúng tôi muốn đòi hỏi gì đâu. Điều độc nhất chồng tôi có thể đòi hỏi những người đã hấp thụ của anh ta bao nhiêu ý tưởng và khuyến khích là họ hãy hoạt động hăng lên về thương mại, để cho tạp chí phát triển”. “Nhưng chồng tôi lại nghĩ khác hẳn. Chưa bao giờ, cả những lúc rất khốn cực, anh ta thất vọng về tương lai và luôn luôn vẫn giữ được vẻ vui đùa”. Gia đình Mác dọn đến ở khu Soho, là khu bình dân nghèo cực nhất, chỉ xoay đủ tiền thuê hai buồng hẹp. Năm 1854 có dịch tả tàn phá dữ dội khu Soho hơn cả và giết mất của Mác ba người con. May còn nhờ vào Engels, người bạn độc nhất không bao giờ xa Mác. Engels cũng không xoay sở đâu ra tiền, đành trở lại Manchester, làm công cho xưởng thợ của chính cha mình, để có thể giúp đỡ Mác. Có lúc Mác nghĩ đến việc di cư sang Mỹ nhưng rồi mọi thu xếp đều không thành. Trong khi đó, Mác mất thêm đứa con gái mới hơn một tuổi và Mác phải đi vay tiền của một người di cư mới mua nổi cỗ xăng cho nó. Mác muốn biến tờ báo của mình thành tập san ra ba tháng một kỳ, nhưng không nhà xuất bản nào nhận in. Thất vọng, Mác cố gắng soạn thêm cho xong bộ sách về kinh tế, nhưng Mác và nhiều bạn bè không làm sao điều đình với một nhà xuất bản nào để họ chịu in, vì cứ nghe thấy tên Mác là họ sợ run lên rồi. Những cuốn “Dix-huit Brumaire” với “Révélation sur le procès des Communistes à Cologne” dĩ nhiên không được xu nào vì viết cho đảng. Trong một thư viết cho Engels khi cả vợ và con đều ốm, Mác nói: “Tôi vẫn chưa đến bác sĩ được, vì tôi không còn tiền. Từ 8, hay 10 ngày qua, tôi nuôi cả nhà bằng bánh và khoai lang, và hôm nay tôi tự hỏi không biết còn kiếm được nữa không”. Nhiều hôm, Mác phải trốn đi Manchester để thày thuốc khỏi đến đòi và doạ kiện. Nước, than đường bị “cắt” luôn vì không thanh toán được “biên lai”. Trẻ con của Mác dần dần cũng láu cá hùa nhau kêu: “Ông Mác không có trên gác” mỗi khi hiệu bán thịt, hàng sữa, hàng bánh mì đến đòi nợ… Bị cực về vật chất đã đành; Mác còn bị cực về tinh thần. Những kẻ thù Mác không làm gì được Mác bèn tung ra những dư luận xấu để xuyên tạc bôi nhọ uy tín Mác. Mác viết cho Weydemeyer phàn nàn về những chuyện đó và nói rằng Mác chịu đựng được, chúng càng bêu xấu xuyên tạc càng làm cho Mác khinh bỉ chúng nhưng sợ cho bà vợ: thần kinh đã lung lạc lắm rồi, e không còn đủ sức chống lại những ty tiện đó. Một người chỉ điểm cho nhà vua Đức đã mô tả nhà Mác trong một bản báo cáo như sau: “Mác ở một trong những phố nghèo nàn nhất và vì thế rẻ tiền nhất ở Luân Đôn. Có hai buồng. Trong nhà, chả thấy một đồ đạc gì sạch sẽ và còn nguyên vẹn; Mọi cái đều gãy, sứt mẻ, rách và có một lớp bụi dầy bao phủ, cũng chẳng có ngăn nắp gì cả. Ở giữa phòng khách, có một cái bàn lớn… đầy bản thảo báo chí sách vở, đồ chơi trẻ con, giẻ lau và sách vở của bà Mác. Người ta còn thấy cả mấy cái chén miệng sứt mẻ, mấy cái thìa bẩn thỉu, rồi nào là dao, xiên, chân nến, tách, lọ mực, tẩu và tàn gạt thuốc lá. Tất cả vứt bừa bãi trên bàn. Khi vào nhà Mác, người ta thấy trước mặt một làn khói than bếp hay thuốc lá, rồi phải lần mò như trong hang cho đến khi quen mắt và nhìn ra đồ đạc như trong sương mù. Chỗ nào cũng bẩn thỉu, đầy bụi, thật là nguy hiểm nếu ngồi xuống ghế: cái chỉ có ba chân, cái trẻ con vừa chơi vừa lấy làm bếp, may còn đủ bốn chân. Chủ nhà mời khách ngồi chiếc ghế đó, nhưng lại quên dẹp đồ chơi của trẻ con, do đó nếu ngồi có thể bị nhọ quần. Nhưng tất cả điều đó không hề làm cho Mác và bà vợ ông ta băn khoăn. Họ tiếp đón tử tế, lịch sự mời hút thuốc, hay uống nước. Rút cục câu chuyện sáng suốt và dễ chịu làm cho quên những thiếu thốn tiện nghi và người ta lại thấy ở đây hay hay, là lạ. Đó là bức tranh đúng thực của gia đình Mác, ông trùm cộng sản”. Một điểm đặc biệt là Mác, dù nghèo túng, vẫn giữ cái vẻ ăn mặc bề ngoài lịch sự, để cho những kẻ thù khỏi có một bằng chứng biện hộ cho thái độ phản cách mạng của họ (tranh đấu chết đói). Hơn nữa Mác còn luôn luôn giữ được vẻ vui tươi, lạc quan, khôi hài, như thể sự nghèo cực không bao giờ làm tổn thương được bản ngã và lý tưởng của Mác. Bạn bè Mác có kể lại những buổi đi chơi, Mác làm trò, hát hỏng, ngâm thơ cho mọi người vui và cấm nói chuyện chính trị. Từ lúc niên thiếu, Mác đã chịu ảnh hưởng của bố vợ, rất mê thơ, kịch Shakespeare, cho nên dù những lúc gặp túng thiếu, cũng không ngần ngại mua sách của Shakespeare hay đi xem kịch. Nhắc tới điểm chú trọng đến văn hoá của Mác, Karl Stern, một bác sĩ người Áo, cựu đảng viên cộng sản đã chú thích “Một người biết dành từng đồng xu để có thể mua một vé đứng trong rạp hát không thể là một người duy vật được”[1], cả gia đình Mác cũng mê Shakespeare như Mác. Năm 1855, bà Mác đã 41 tuổi, sinh được một con gái khác. Mác yêu quí vô cùng vì chỉ có nó là bé nhất. Các bạn hữu Mác đều đồng ý nhận xét Mác rất mến trẻ con. Mác thường nói với họ: Chúa Kitô chỉ được lòng Mác ở chỗ ngài yêu quí trẻ con và vì thế có thể tha thứ rất nhiều cho Kitô giáo vì đã giảng dạy tình yêu trẻ con. Nhưng chưa đầy 4 tháng, đứa nhỏ mất. Thường Mác vẫn dấu những xúc động, ngay cả với bạn bè thân thiết. Nhưng lần này, Mác không thể ngăn chặn được nỗi niềm đau xót mênh mang khi viết thơ cho Engels “cháu Musch không còn nữa. Nó ngủ (thật đúng thế) trong tay tôi, ngày hôm nay và vào quãng 5 và 6 giờ. Tôi không bao giờ quên tình bạn của anh đã nâng đỡ tôi trong những ngày bi thảm này: Anh thừa hiểu nỗi đau đớn của tôi…”, và trong lá thư sau “nhà bây giờ vắng vẻ như bị bỏ hoang, từ khi đứa cháu là linh hồn sống động của nhà này ra đi. Tôi không thể nói anh hiểu nó mất đi là một thiếu thốn cho chúng tôi đến mức nào. Tôi đã nếm đủ mọi sự rủi ro, nhưng bây giờ tôi mới hiểu thế nào là một tai nạn thực sự…”… Vết thương lòng trên của Mác không bao giờ hàn gắn được. Sau 10 năm mà Mác còn viết: “Thời gian càng xa từ ngày tôi mất cháu nhỏ, tôi càng tưởng nhớ tới nó và nỗi sầu khổ của chúng tôi cũng càng tăng thêm”. Nhưng từ năm 1860 đến 1863 là những năm Mác khốn khó hơn cả, túng tiền, bà Mác lại lên đậu vừa khỏi, đến lượt Mác bị. Mác không còn một xu dính túi, mọi sự trông nhờ ở Engels, có đồng nào gửi hết tất cả cho Mác: mùa hè 1862, Mác thử một lần cuối cùng viết thơ cho bà mẹ xin giúp đỡ nhưng bà cứ nhất định không gửi cho một chinh, có lần Mác đã viết cho một người bạn là không thể để cho xã hội trưởng giả biến Mác thành một cái máy kiếm tiền. Bây giờ cùng cực quá Mác đành trở thành cái máy kiếm tiền vậy. Mác làm đơn xin một chân thư ký hoả xa, nhưng vì chữ xấu quá, nên đơn bị bác. May lúc đó, Engels gửi tiền kịp, Mác lại có thể sống triển hạn thêm. Tuy vậy, Mác vẫn không bỏ quên công trình soạn thảo bộ sách lớn về kinh tế. Đến tháng 3-1867, tập đầu bản “Tư bản luận” hoàn tất và in xong. Mác viết thư cảm ơn Engels vì nếu không có Engels giúp đỡ thì chắc chắn sách không thể soạn và in ra được, đồng thời viết cho Meyer để giải thích tại sao Mác đã không trả lời nhiều thư của người bạn. “Mọi lúc tôi có thể làm việc, tôi đều dành cho tác phẩm trên, một tác phẩm mà tôi đã hy sinh sức khoẻ, nguồn vui sống và cả gia đình tôi. Tôi mong rằng sự giải thích đó là đủ. Nếu người ta chỉ muốn là con vật, dĩ nhiên người ta có thể dễ dàng quay mặt đi để khỏi nhận thấy những đau thương của nhân loại, và chỉ để lo cho chính bản thân mình. Nhưng thật tôi không coi tôi ra gì nếu tôi chết mà chưa hoàn thành được ít ra bản thảo cuốn sách của tôi”. Lý tưởng của Mác là “phục vụ nhân loại”. Đó là lẽ sống còn cũng là nguyên nhân mọi cơ cực lầm than của Mác. Chú thích:[1] Le Buission Ardent, E. du Seuil