PHẦN I
CON NGƯỜI VÀ CUỘC ĐỜI

"Một người có thể sống trong một xó
lều ở Luân Đôn và phải tiết kiệm từng
xu để có thể mua một vé xem kịch
không phải là một người duy vật theo
nghĩa trưởng giả của danh từ".
Karl Stern
Đời sống của Mác có một ý nghĩa đặc biệt trong sinh hoạt tư tưởng của Mác. Khác hẳn với nhiều học giả triết gia, Mác không phải là một người suy tưởng ở trong phòng, một giáo sư giảng dạy hay chỉ là một nhà tư tưởng “dấn thân” vào tranh đấu bằng ngòi bút, nhưng là một người hoạt động cách mạng bằng đấu tranh chính trị thực sự, ông suy tưởng để hoạt động, làm cách mạng và do đó suy tưởng cũng bắt nguồn từ đấu tranh cách mạng như một đòi hỏi cần thiết phải đề ra một đường lối, một phương châm hoạt động và một mục tiêu nhằm đạt tới.
Chính vì thế mà không thể hiểu được tư tưởng Mác nếu không hiểu con người, cuộc đời tranh đấu của Mác, vì tư tưởng của ông gắn liền với hoạt động, phản ảnh trung thành những lập trường chính trị của ông trước thời cuộc, lịch sử.
Tìm hiểu đời sống của Mác, không phải như tìm hiểu đời sống của những nhà tư tưởng triết gia khác, để thấy được một bầu không khí, một ảnh hưởng vào đời sống tư tưởng, nhưng còn cho thấy sự diễn biến về tư tưởng của Mác, được đánh dấu bằng những bài vở, thư từ, sách báo, và hơn nữa sự diễn biến của chính phong trào cộng sản thuở ban đầu song song với những giai đoạn cuộc đời của Mác.
Một lý do khác minh chứng sự cần thiết tìm hiểu cuộc đời của Mác là giá trị sư phạm của một giáo huấn bằng chính cuộc đời của mình. Tìm hiểu đời sống của Mác, là tìm hiểu những thái độ cụ thể của Mác trước thời cuộc, những thái độ cư xử, đối phó hay lãnh đạo của người sáng lập ra chủ nghĩa Mác; đó là những bài học rút từ kinh nghiệm sống động của vị sáng lập để có thể nhận định thế nào là một thái độ đích thực của một người mác xít trước vấn đề nhận thức, trong việc cư xử với các đồng chí, lãnh đạo phong trào v.v...
Nói cách khác, tìm hiểu Mác, là tìm hiểu đời sống của một người mác xít, một người cộng sản gương mẫu. Biết được những thái độ của Mác và nếu đem đối chiếu với thái độ của những đồ đệ, người ta sẽ có thể ngạc nhiên khi thấy đôi khi thái độ của đồ đệ không phù hợp với thái độ của vị thầy trước cùng một hoàn cảnh, một trường hợp tương tự.
Chính vì thế mà người ta thấy nhiều người tự xưng là đồ đệ của Mác, hình như ít để ý đến chính cuộc đời của Mác mà chỉ nghiên cứu mác xít qua sách vở tư tưởng, đôi khi lại chỉ qua sách vở, tư tưởng trích dẫn và giới thiệu theo lăng kính của một người khác. Người ta in nhiều tác phẩm của Mác, chú thích bình giảng tư tưởng, nhưng hình như ít chú trọng xuất bản những cuốn giới thiệu chính đời sống của Mác.
Phải chăng vì sợ lộ tẩy những thái độ cụ thể mâu thuẫn với thái độ của Mác, mà người ta không muốn chú trọng tới việc giới thiệu, trình bày cuộc đời Mác như một bài học sống thực, một chỉ đạo linh động?
Khi nói thái độ cụ thể của Mác, không nên hiểu là thái độ thực tiễn tách rời khỏi đường lối, nhận định lý thuyết, mà là dựa vào đường lối, lý thuyết, xuất phát từ những nguyên tắc lý thuyết và phản ảnh những nguyên tắc đó. Chính vì thế mà những thái độ cụ thể của Mác vừa mặc một giả trị sư phạm, gương mẫu, vừa có một tầm quan trọng thuyết lý. Đặc điểm của chủ nghĩa Mác là “tri hành” hợp nhất. Hoạt động gắn liền với lý thuyết và lý thuyết chỉ đạo hành động. Do đó tiêu chuẩn phê phán của mác xít là: Hành động và hiệu nghiệm. Vấn đề không phải là có lý thuyết hay, nguyên tắc đẹp, nhưng là thiết thực lý thuyết và nguyên tắc có được thực hiện trong tác phong tổ chức, chế lập, trong những tương quan giữa người với người hay không.
Mác xít thường căn cứ vào tiêu chuẩn đó mà phê phán những học thuyết đạo đức chỉ hay đẹp trên nguyên tắc, và dở xấu trong thực tế là những chủ nghĩa hình thức, có tích cách bịp bợm, giả dối. Mác xít cũng không ngại áp dụng tiêu chuẩn đó cho chính mình và vẫn tự phụ hoạt động của họ gắn liền với đường lối lý thuyết.
Do đó, cần tìm hiểu những thái độ cụ thể của Mác. Chẳng hạn người ta sẽ thấy Mác vừa chống lại khuynh hướng “không tưởng” phác họa những viễn ảnh thật đẹp, nhưng không phù hợp với thực tế, vừa chống lại khuynh hướng “hiếu động” mù quáng theo tình cảm, quảng đại mà không dựa vào những phân tích nghiêm chỉnh. Hoặc trong lối cư xử, lãnh đạo, chống thái độ độc đoán giáo điều, dùng uy quyền mà bắt buộc vâng phục, đề cao thái độ tìm kiếm, coi chủ nghĩa không phải như một giáo lý thần thánh, mà chỉ là một phương pháp phân tích, hành động. Đã có lần Mác nói: “Tôi không phải là người mác xít” để chống lại thái độ giáo điều cứng nhắc, câu nệ một cách máy móc vào nguyên tắc, và thiếu óc phê bình, căn cứ vào thực tiễn. Đi sát quần chúng, phục vụ quần chúng, nhưng không theo đuôi, xu nịnh quần chúng. Cần thiết có đảng, nhưng không coi đảng như một đàn cừu chỉ biết vâng theo một lãnh tụ cách biệt dù là tài ba nổi tiếng, hoặc ngược lại bình dân quá lố để cho quần chúng coi thường. Trong một thư gửi cho Marx, Engels đã nhắc đến điều đó khi “Liên đoàn” (La Ligue) cộng sản còn rất ấu trĩ đang gặp khủng hoảng: “chúng ta tìm đến một đảng làm gì? Chúng ta, những người trốn tránh những quan niệm chính thức như dịch hạch, đối với chúng ta, đảng là cái quái gì, và chúng ta là những người nhổ vào sự bình dân, và chúng ta sẽ nghi ngờ chính chúng ta khi chúng ta bắt đầu được tiếng là bình dân - một đảng à, nghĩa là một đàn lừa nguyền rủa chúng ta vì họ tưởng ta như họ”. (Thư ngày 13-2-1851)
Chống sùng bái cá nhân, suy tôn lãnh tụ, “Mác đã khuyên chúng tôi không bao giờ nên theo những cá nhân, nhưng bao giờ cũng chỉ nên nghĩ đến một lý tưởng và phê phán nhân danh lý tưởng đó. Ông nói: Liebknecht, Schweitzer là gì đối với các anh, cá nhân tôi nữa cũng không phải là gì cả, chỉ có lý tưởng mà thôi - đó là chân lý”. ( trích báo cáo của Hamann, chủ tịch một phái đoàn nghiệp đoàn).
Tìm hiểu đời sống của Mác còn rất cần thiết để có thể xác định đúng đắn, ý nghĩa thực sự chủ nghĩa Mác. Chủ nghĩa Mác là một khoa học (kinh tế học, chính trị học...) hay là một triết học? Mác là một nhà bác học hay là một chiến sĩ xã hội? Hầu hết những nhà lý thuyết của Đệ nhị quốc tế cộng sản và sau đó của nhà nước Xô viết như Kautsky, Hilferding, Plekanof, Boukharine, Staline... ) đều hiểu chủ nghĩa Mác, đặc biệt là duy vật biện chứng, như một lý thuyết khoa học khách quan gồm những định luật về sự phát triển và diễn tiến của xã hội, một lý thuyết tương tự như những lý thuyết khoa học chỉ khác về đối tượng và một vài đặc điểm của xã hội không thể phủ nhận được. Đó là một khuynh hướng giới thiệu Mác như một nhà bác học, về kinh tế, chính trị học mà tác phẩm nổi tiếng là bộ “Tư bản luận”. Gần đây Pierre Naville, một người mác xít, đã trình bày và bênh vực một luận án ở Sorbonne về Mác là một nhà bác học chứ không phải một nhà triết học[1]. Nghiên cứu về nguồn gốc và sự hình thành ý niệm cần lao trong tư tưởng Mác, Naville nhận thấy Mác, bằng những tác phẩm hầu hết đều bắt đầu: “Phê bình về” (Critique de) hoặc “Phê bình phê bình” (Critique de la critique) bỏ dần dần lý luận dựa vào những ý niệm triết học, để đi tới một lập luận hoàn toàn dựa vào những ý niệm khoa học. Nói cách khác, Mác dần dần bỏ những công thức mơ hồ, do ảnh hưởng của Hegel còn rớt lại, để diễn tả thực tế xã hội bằng những công thức rõ rệt, có tính chất toán học, nghĩa là có thể đo lường được thực tế. Do đó, tư tưởng của Mác đích thực là một tư tưởng khoa học, sau khi đã phủ nhận triết học chỉ là một giai đoạn cần phải vượt qua. Điều đáng chú ý là toàn ban giám khảo (G. Gurvitch, J. Hyppolite, R. Aron) đều chủ trương ngược lại: coi Mác chủ yếu là một nhà triết học.
Khuynh hướng này không những gồm những người ở trong đảng Cộng sản, mà còn có những người không phải cộng sản chủ trương. Cuộc tranh luận bắt đầu từ khi người ta khám phá và xuất bản những tác phẩm thời trẻ tuổi của Mác, đặc biệt tài liệu mang tên: “Bản thảo kinh tế học và triết học”.
Những người chủ trương Mác - nhà bác học, và chủ nghĩa Mác - một lý thuyết khoa học đều chỉ dựa vào những tác phẩm thời trưởng thành, đặc biệt bộ Tư bản luận. Họ cho rằng Mác đích thực là mác xít là Mác thời trưởng thành; còn Mác thời trẻ tuổi chưa phải là mác xít vì tư tưởng lúc đó chưa gột rửa được những ảnh hưởng duy tâm nói chung, và ảnh hưởng Hegel nói riêng. Cho nên không thể công nhận những tác phẩm “còn do những bệnh tuổi trẻ” ( pêché de Jeunesse) tạo ra, (có tính chất tiền khoa học (préscientifique) là những tác phẩm phản ảnh chủ nghĩa Mác chính thức được. Sự gạt bỏ những tác phẩm thời trẻ tuổi cũng kèm thêm sự phủ nhận Hegel. Vì Mác thời trưởng thành là Mác đã gạt hết ảnh hưởng duy tâm, nên giữa một Mác khoa học với Hegel duy tâm, có sự đối lập, mâu thuẫn hoàn toàn, một bên là tiến bộ, một bên là phản động. Mác thời trưởng thành phủ nhận Mác thời tuổi trẻ, nghĩa là cũng phủ nhận Hegel, vì thời trẻ tuổi còn chịu ảnh hưởng Hegel; do đó không cần chú ý tới Hegel làm gì khi nghiên cứu tư tưởng Mác thời trưởng thành, là tư tưởng mác xít chính thức.
Trái lại những người mác xít như G. Lukacs, Korsch, A Cornu hay không mác xít như Hyppolite, Kojeve, Merleau-Ponty v.v... lại đề cao những tác phẩm thời tuổi trẻ. Những tác phẩm thời trẻ tuổi hầu hết đều là triết lý, và dựa vào những khái niệm căn bản như: Vong thân (aliénation), thực tiễn (Praxis), toàn thể (totalité) mà trước khi xuất bản những tác phẩm đó, không hề thấy nói đến trong tư tưởng mác xít chính cống. Nghiên cứu những tác phẩm thời trẻ tuổi, người ta thấy Mác xuất hiện với khuôn mặt một triết gia cách mạng, một chiến sĩ cách mạng mà những tư tưởng thấm nhuần tính chất nhân loại, nhân bản. Đọc Mác thời trẻ tuổi, người ta cảm thấy một cái gì như một lý tưởng, một ngọn lửa tha thiết, một nhiệt tình cách mạng lôi kéo người ta vượt khỏi những phân tích để thông cảm trong những tình tự nhân loại (thù ghét bất công, yêu quí công chính, xúc động trước những tình cảnh phi nhân, vong thân của con người và tha thiết với công cuộc giải phóng con người - một tư tưởng khoa học bao giờ cũng lãnh đạm với tình tự nhân loại- vì nó là khách quan vô ngã).
Nói cách khác, mác xít không phải chỉ là một khoa học, nhưng là một triết học, một nhân bản, và tính chất nhân bản không phải chỉ thấy trong tác phẩm thời trẻ tuổi, mà cả trong “Tư bản luận” như Hyppolite đã nhận xét với một vẻ trách móc lập luận của P. Naville: “Tất cả tính chất cách mạng của Mác mất dần khi ông minh chứng Mác là một nhà bác học. Với ông, chúng tôi thấy Mác là một nhà xã hội thực nghiệm tài giỏi mà chúng ta phải tiếp tục sự nghiệp, nhưng còn mọi cái khác đều biến mất cả. Ông đã cắt xén gạt bỏ tất cả những đoạn cách mạng của cuốn Tư bản”. Khám phá và phục hồi những tác phẩm thời trẻ tuổi của Mác tất nhiên không thể không phục hồi Hegel, vì những khái niệm căn bản trên (vong thân...) Mác lấy lại của Hegel. Do đó nảy ra phong trào chủ nghĩa Hegel mới (néo-hégélianisme) nhằm tìm hiểu Hegel để hiểu Mác rõ hơn, vì có một liên tục giữa Hegel với Mác và giữa Mác thời trẻ tuổi với Mác thời trưởng thành.
Khuynh hương này bị khuynh hướng “chính thống” chủ trương chỉ công nhận Mác thời trưởng thành kết án và loại trừ. Shdanov, một tay thông ngôn lý thuyết của Staline quả quyết phê bình cuốn “Lịch sử triết học tây phương” của Alexandrov: “Mác và Engels đã sáng tạo một triết lý mới khác biệt về phẩm chất (qualitativement) với mọi hệ thống trước”.
Sự khác biệt thiết yếu về phẩm chất theo Shdanov và khuynh hướng Staline, không phải ở chỗ Mác cho rằng đã tìm thấy trong vô sản và thực tiễn cách mạng (praxis révolutionaire) một khởi điểm “thực hiện” triết học, mà là ở chỗ biến triết học thành khoa học. Do đó chủ nghĩa Mác trở thành một cái gì tựa như triết học thực nghiệm kiểu Auguste Comte.
Shdanov dứt khoát khẳng định: “Vấn đề triết học Hegel đã giải quyết xong từ lâu”. Do đó kẻ nào còn trở lại thì chỉ có nghĩa là nhằm chống lại chủ nghĩa Mác: “Sự trở về triết học Hegel chỉ là một tấn công tuyệt vọng chống lại Mác dưới hình thức của chủ nghĩa xét lại có tính chất fát-xít”. Josef Schleifstein, một tay “sta-li-niêng” khác cũng tuyên bố gạt bỏ Mác trẻ tuổi vì chưa phải là một “mác-xít”.
Bằng cách giản lược tương quan giữa Mác và Hegel vào tập “Bản thảo về kinh tế triết học” (Manuscrits économie-philosophie), vào những phạm trù như phóng thể (Entausserung) vong thân (Entfremdung) đã giữ một vai trò quan trọng trong thời kỳ hình thành chủ nghĩa Mác, nhưng không phản ảnh tất cả nội dung chủ nghĩa đó, người ta đã cố tình củng cố cảm tưởng có một sự gần gũi trực tiếp giữa Hegel và Mác, và điều kiện trên tạo cái vẻ bề ngoài theo đó hầu hết tất cả những vấn đề của chủ nghĩa Mác đều đã được dự thảo trong triết học Hegel hay đã tiềm tàng trong triết học đó”.
Do đó nhấn mạnh vào sự quan trọng của Mác trẻ tuổi, tức là tiếp tay cho khuynh hướng trưởng giả muốn biến Mác thành một Hegel mà thôi.
Không thể ngăn chặn được sự tấn công đó và những nỗ lực phản động gắn liền với sự tấn công trên để hạ thấp giá trị sản phẩm khoa học của Mác... nếu người mác-xít chỉ để ý tới khởi điểm triết học Mác, đến nguồn gốc tinh thần của nó, chứ không để ý đến kết quả chủ nghĩa và các phạm trù biện chứng của triết học Mác với tất cả thành phần cấu tạo của nó, nếu họ không mang toàn thể học thuyết Mác- Lênin đối chọi với triết học Hegel và không minh chứng tính chất cao đẳng của vũ trụ quan theo khoa học mác xít vượt hẳn triết học Hegel”.
Người ta chú ý lập luận của Schleifstein: để chống lại khuynh hướng đề cao Mác trẻ tuổi, Schleifstein chỉ yêu cầu người mác xít mang toàn thể học thuyết Mác-Lenin, mang những thành quả phạm trù khoa học của Mác trưởng thành ra để đối chọi, bằng cách gạt bỏ tư tưởng thời trẻ tuổi. Tại sao Schleifstein không yêu cầu các người mác xít xét lại một cách triệt để Mác trẻ tuổi để chống lại khuynh hướng đề cao, mà chỉ chống lại bằng cách gạt bỏ vấn đề. Thực ra đề cao Mác trẻ tuổi và sao nhãng Mác trưởng thành là sai lầm và ngược lại cũng nhầm nốt.
Tư tưởng của Mác không bắt đầu từ “Tư bản luận” sau khi đã phủ nhận những tác phẩm trước; ngược lại, tư tưởng của Mác cũng không phải đã “tự phản bội” khi chuyển sang diễn tả bằng ngôn ngữ khoa học như thể có một đứt quãng giữa hai thời kỳ: sự thực có một liên tục trong sự diễn tiến của tư tưởng Mác. Do đó, muốn tìm hiểu Mác phải tìm hiểu toàn thể triết học Mác, và do đó tìm hiểu thời tuổi trẻ, chỉ là để hiểu sâu xa hơn, đích thực hơn, thời trưởng thành. Sở dĩ có liên tục là vì có thống nhất trong tư tưởng của Mác. Sự thống nhất này được biểu lộ trong một vài hướng đi nền tảng có tính chất nhân bản triết lý chỉ đạo toàn bộ chủ nghĩa Mác, nghĩa là bao hàm như căn bản trong mọi công trình khảo sát có tính cách triết lý hay khoa học, (kinh tế, chính trị). Cái nền căn bản đó Mác không bao giờ phủ nhận như Jean Hyppolite đã chứng minh[2]. Nói cách khác, không thể nói Mác chỉ là nhà bác học, hay là nhà triết học, vì triết học khoa học chẳng qua chỉ là những thái độ do những đòi hỏi phương pháp luận qui định (exigences méthodologiques) mà không phải là mục đích, cứu cánh của việc nghiên cứu. Cái cốt yếu là một ý hướng nhân bản, một ý chí giải phóng con người. Do đó sự thống nhất về tư tưởng phản ảnh sự thống nhất về con người ở nơi Mác: Mác vừa là nhà bác học, nhà triết học, người chiến sĩ cách mạng.
Người ta có thể nhận ra điều đó khi tìm hiểu cuộc đời của Mác. Sự tìm hiểu này sẽ cho thấy Mác thực sự theo Mác đôi khi khác với Mác nhìn theo con mắt của người khác, như đồ đệ của Mác và nhất là cho thấy cái mà ta có thể gọi là “dự phóng nền tảng” của Mác, cái vượt khỏi những bình diện khoa học, triết học, là bình diện phương tiện, đồng thời vẫn là nền tảng, căn bản cho những nghiên cứu suy tưởng triết học khoa học của Mác. Mục đích của những nhận định dưới đây là trình bày dự phóng nền tảng đó bằng cách giới thiệu cuộc đời của Mác. Nhưng bởi vì dự phóng đó dễ dàng nhận ra hơn cả trong những tác phẩm thơ từ thời trẻ tuổi, nên chúng tôi cũng sẽ chú trọng nhiều hơn đến Mác trẻ tuổi[3]. Sự chú trọng đó không hề ngụ ý phủ nhận tính cách quan trọng của Mác trưởng thành, vì chúng tôi cho rằng tác phẩm thời trưởng thành không phản lại thời trẻ tuổi mà chỉ là một nỗ lực trình bày những hướng đi căn bản bằng những biểu lộ khoa học chân xác, (có tính chất toán học nữa càng hay) và mục đích những nhận xét ở đây chỉ là nhằm bày tỏ cái duy trì sự liên tục, thống nhất của tư tưởng Mác, trong quá trình diễn tiến của nó; cái duy trì sự thống nhất đó là cái mà chúng tôi gọi là dự phóng nền tảng của Mác. 

[1] Luận án nhan đề: De l’aliénation à la jouissance, essai sur le dévelopment de la sociologie du travail chez Marx et Engels.
[2] De la structure du “Capital” et quelques presuppositions philosophiques de l'œuvre de Marx trong “Etudes sur Marx et Engels” - Paris 1955
[3] Gần đây Marek Fritzhand đã viết một bài nhan đề “Cuộc tranh chấp về gia tài triết học của Mác trẻ tuổi” đăng trong tạp chí “Những con đường mới” (Nowi Drogi), cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Balan, mục đích yêu cầu người Mác xít không nên để cho những kẻ theo chủ nghĩa xét lại hay thù địch của Mác xít độc quyền nhắc tới và nghiên cứu những tác phẩm thời trẻ tuổi của Mác, vì theo ông, không có mâu thuẫn giữa lập trường của Mác trẻ tuổi với lập trường của Mác trưởng thành, và sở dĩ người Mác xít chính thống sao nhãng bỏ quên Mác trẻ tuổi là vì sợ bị nghi là theo chủ nghĩa xét lại, hơn nữa, cũng vì một vài chủ trương lệch lạc có tính cách thực nghiệm của người Mác xít. Ông nói “Ngay cả bộ TƯ BẢN cũng thấm nhuần những phạm trù luân lý... Nếu một đàng giản lược Mác xít vào luân lý đúng là một trò chơi nguy hiểm của chủ nghĩa xét lại, thì đàng khác, tách biệt mác xit khỏi nội dung luân lý cũng đúng thật là làm hại chủ nghĩa Mác”.